chủ thuyết phát triển của Việt Nam do Hội đồng lý luận
chủ trì</h2>
Đề tài được đặt ra đúng lúc, vấn đề rất lớn, rất
phức tạp, rất 'xương xẩu'. Tôi không có tham vọng bàn
đền tòan bộ nội dung, càng không sa lầy vào những vấn đề
thuật ngữ, chỉ xin gợi ý có tính chất phương pháp tiếp
cận.
Có 4 vấn đề tôi quan tâm và lưu ý nếu không có quan điểm
đúng đắn, khó mà phát hiện cái "linh hồn" của sự tìm
tòi.
<strong>Vấn đề thứ nhất, vấn đề chủ nghĩa tư bản hiện
đại.</strong>
Chủ nghĩa tư bản đã hoàn thành xong sứ mạng lịch sử chưa?
Nó còn là lực lượng thúc đẩy lịch sử không và đã dịch
chuyển vào chu kỳ tan rã cuối cùng chưa, chu kỳ mà Hội đồng
lý luận xác định là vào khoảng 40 đến 50 năm nghĩa là vào
giữa thế kỷ 21.
Tôi cho rằng sau 200 năm thai nghén, chủ nghĩa tư bản đã ra
đời vào khoảng 250 năm, đã trải qua rất nhiều cuộc khủng
hoảng, đặc biệt 3 cuộc khủng hoảng lớn: cuộc khủng hoảng
1866-1873, cuộc khủng hoảng 1929-1933, và cuộc khủng hoảng
hiện nay từ năm 2008- có thể kéo dài không dưới từ 3 đến 5
năm. Qua mỗi cuộc khủng hoảng chủ nghĩa tư bản đã biến
hóa không còn ở dạng nguyên thủy nữa. Nhiều học giả hiện
đại cho rằng chủ nghĩa tư bản đã và đang biến thành không
phải là nó nữa. Đây là ý kiến rất đáng nghiên cứu. Tôi
xin phép thử phân tích tìm ra một kết luận thỏa đáng
Sau cuộc khủng hoảng lớn nhất 1866-1873, Mác hết sức chú ý
đến 3 sự phát triển mới:
<ul><li>Sự ra đời của công ty cổ phần</li>
<li>Sự tách rời giữa chiếm hữu xí nghiệp tư bản và sự
quản lý kinh doanh. Nhiệm vụ kinh doanh được giao cho các nhà
quản lý chuyên nghiệp</li>
<li>Sự dịch chuyển của các công ty tài chính, các ngân hàng
tới quy mô mới, to lớn hơn có khả năng huy động vốn tiết
kiệm của toàn bộ xã hội để rót vào vốn đầu tư phát
triển các xí nghiệp tư bản. Các xí nghiệp không chỉ dựa
vào vốn tự có tích lũy được mà chuyển sang chủ yếu huy
động vốn của toàn xã hội. Chủ nghĩa tư bản phụ thuộc
rất lớn vào tư bản tài chính.</li></ul>
Với tư chất cực kỳ thông minh và cực kỳ nhạy bén, Mác và
Ăng-ghen đã có nhận định cực kỳ sáng tạo. Sự xuất hiện
3 yếu tố trên đặc biệt là yếu tố công ty cổ phần cho
phép kết luận CTTB đã dịch chuyển sang một chất lượng
mới. Sự chiếm hữu các xí nghiệp tư bản không còn là tư
nhân thuần chúng nữa, nó đang trở thành xã hội hóa, "công
hóa", mở ra triển vọng người sản xuất trực tiếp có thể
tham gia và chiếm hữu xí nghiệp. Chiếm hữu tư nhân chuyển
vào hình thức mới, hình thức chiếm hữu cổ phiếu. Vào nửa
sau thế kỷ 20, nhiều nhà kinh tế cho rằng yếu tố này đã
dịch chuyển tới một giới hạn mới, giới hạn của CNTB nhân
dân trên nền cổ phần hóa phát triển cao độ.
Từ nhận định trên, cùng sự phát triển của hệ thống chính
trị "dân chủ nghị viện" đã xuất hiện khả năng mới,
khả năng đấu tranh bằng con đường hòa bình, không còn phải
đập tan toàn bộ di sản của CNTB xây dựng xã hội từ A đến
Z, mà có thể kế thừa và phát triển. Đây là ý tưởng rất
cơ bản của Mác và Ăng-ghen vào những năm cuối đời. Mác
mất năm 1883. Ăng-ghen tiếp nhận di sản này và thành lập
Đảng Xã Hội Dân Chủ (đệ nhị quốc tế vào năm 1889) và
chỉ đạo các Đảng Xã Hội Dân Chủ theo hướng này. Kausky
Berstein, Plekhanow, Rosa Luxamburg chỉ là những người kế tục và
phát triển ý tưởng này. Suốt hơn 1 thế kỷ các Đảng Xã
Hội Dân Chủ đã triển khai hướng đi này và đạt thành tựu
cực kỳ xuất sắc: đã cải tạo CNTB theo hướng "nhân
đạo" hơn, năng động hơn, làm cho CNTB vẫn thích nghi được
với thời đại.
Ngày 6/3/1895, trước khi mất 5 tháng (Ăng-ghen mất 5/8/1895), trong
lời nói đầu cuốn "Đấu tranh giai cấp ở Pháp", Ăng-ghen
đã viết "Lịch sử chứng tỏ chúng ta đang mắc sai lầm. Quan
điểm của chúng ta hồi đó chỉ là một ảo tưởng. Lịch sử
còn làm được nhiều hơn, không những xóa bỏ những mê muội
của chúng ta hồi đó mà còn thay đổi điều kiện đấu tranh
của giai cấp vô sản, phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã
lỗi thời về mọi mặt."
Sau cuộc khủng hoảng lần thứ hai 1929-1933, CNTB lại có sự
thay đổi lớn. Năm 1936 xuất hiện lý thuyết Keynes (một trong 4
nhà kinh tế lỗi lạc nhất mọi thời đại: Adam Smith, Ricardo,
Karl Marx, Keynes) với học thuyết nổi tiếng "kích cầu nuôi
dưỡng cung" thực chất là gì? CNTB đã không còn là tư bản
tự do cạnh tranh nữa, đã xuất hiện vai trò điều tiết của
nhà nước với những cơ chế mới. Có thể tóm tắt 3 đặc
điểm cơ chế mới:
<ul><li>Nhà nước đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc
nắm lấy công cụ cực mạnh, tài chính, tiền tệ để ổn
định nền kinh tế. Sự tăng cường vai trò các ngân hàng, sự
xuất hiện các ngân hàng IMF, WB, ADB v.v… tham gia tích cực quá
trình điều tiết kinh tế trên quy mô toàn cầu giúp CNTB ổn
định được cục diện kinh tế một thời gian dài (80
năm).</li>
<li>Sự xuất hiện của các xí nghiệp công rất năng động và
linh hoạt, một bảo đảm giữ thế ổn định cho kinh tế và
xã hội. Nếu quan sát khách quan thì trong tổng GDP của các
nước tư bản phát triển tỉ lệ xí nghiệp công là vào
khoảng từ 15 đến 20%.</li>
<li>Với sự phát triển kỳ diệu của trí tuệ, kinh tế trí
thức ra đời và làm thay đổi cơ cấu xã hội. Tỉ lệ công
nhân cổ xanh tức là lực lượng lao động chủ yếu của CNTB
sơ khai đã giảm rất đáng kể chỉ còn từ 5% đến 10% trong
tổng lao động xã hội và chỉ đóng vai trò ngoại vi sản
xuất. Lao động kỹ thuật với trí thức cao đã trở thành
lực lượng lao động chủ chốt của xã hội mới, với vai trò
tăng lên rất đáng kể của các học giả. Có học giả đánh
giá với kinh tế trí thức phát triển và chi phối nền sản
xuất thì động lực chủ yếu của xã hội, yếu tố chủ yếu
thúc đẩy tiến hóa là "lao động bác học". Cơ cấu giai
cấp đa dạng hơn, phức tạp hơn, xuất hiện các nhóm lợi ích
cực kỳ đa dạng.</li></ul>
Về chính trị và xã hội cũng xuất hiện những yếu tố rất
mới, có thể lưu ý hai yếu tố cơ bản: một là hình thức
dân chủ trực tiếp. Người dân được tạo điều kiện có
tiếng nói trực tiếp quyết định thực sự tới những vấn
đề lớn nhất của quốc gia. Hai là vai trò ngày càng quan
trọng của xã hội dân sự, của các tổ chức phi chính phủ.
Có dấu hiệu các tổ chức đa dạng phi chính phủ là hình
thức tự quản của xã hội tương lai, nó có thể thay thế
phần nào chức năng của nhà nước, làm cho các tổ chức
quyền lực của nhà nước gần với nhân dân, buộc phải tôn
trọng tiếng nói của nhân dân hơn, đồng thời nó cũng đóng
góp thiết thực ngăn chặn quá trình tha hóa của bộ máy quyền
lực.
Xã hội các nước tư bản chủ nghĩa đã trở nên năng động
hơn, sôi động hơn, đa dạng hơn, với sự thừa nhận tồn
tại những ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Sự tôn
trọng những ý kiến độc lập làm cho tính chất mở của xã
hội rõ nét hơn. Việc thừa nhận sự phát triển nhiều màu
sắc, tính độc lập của tư duy đã tạo động lực cho sự
phát triển của tư duy. Nhiều ý tưởng mới, nhiều khái niệm,
nhiều phạm trù mới, nhiều lý thuyết mới xuất hiện làm cho
trí quyển (noosphere) cực kỳ sôi động. Chất lượng tư duy
loài người đang dịch chuyển tới một trình độ cao hơn. Tôi
muốn nói TBCN mới đã có công giải phóng tư duy con người,
báo hiệu đã xuất hiện những yếu tố mới của một nền
văn minh mới, văn minh trí tuệ đang được thai nghén sẽ phát
triển trở thành xu thế nền tảng của sự tiến hóa mới của
nhân loại. CNTB mới đã sáng tạo nên một hệ thống giáo dục
hiện đại với nền tảng triết lý mới, một vườn ươm tài
năng mới cực kỳ hiệu quả. Nó đã sở hữu đến 90% trong
số 200 trung tâm giáo dục chất lượng nhất. Nó gần như độc
quyền sáng tạo các giải thưởng khoa học (giải Nobel) và
giải thưởng toán học (Giải thưởng Field).
CNTB mới cũng đạt nhiều thành tựu trong việc dịch chuyển xã
hội sang một xã hội với ý thức trách nhiệm xã hội sâu
hơn, cao hơn, như tổ chức Liên Hợp Quốc và các tổ chức
phụ thuộc của nó với chức năng góp phần có hiệu lực vào
sự tiến hóa chung của nhân loại, kiềm chế các quyền lực
ích kỷ cản trở bước tiến của nhân loại.
CNTB hiện đại cũng đã giải quyết thành công ở mức độ
nhất định mâu thuẫn giai cấp, làm dịu bớt cái không khí
căng thẳng giữa giai cấp công nhân và CNTB, làm cho thành thị
và nông thôn gần gủi nhau hơn, dần dần xóa bỏ ranh giới
công nhân và nông dân, thu hẹp khoảng cách giữa lao động chân
tay và trí óc, gia tăng tính chất nhân đạo của xã hội.
Tất nhiên cũng còn vô vàn cái bất lực, cái tiêu cực. Số
phận con người cực kỳ bấp bênh, sự phân hóa giàu nghèo,
sự đối lập giữa một bên là xa hoa vô độ, một bên là
nghèo đói túng thiếu. Điều kiện sống của con người trở
nên đặc biệt khó khăn hơn, nhiều mối đe dọa cuộc sống
trên mọi bình diện, sự ích kỷ và thiếu trách nhiệm của
những thế lực quyền lực v.v… sự vô cảm của những kẻ
điên khùng có thể gây mọi tai họa cho nhân loại bất kỳ lúc
nào.
Tôi xin phép được chú thích tuyên ngôn năm 1965 của CNTB hiện
đại:
Năm 1965, đại diện các nước tư bản phát triển nhất đã
tập hợp nhau lại tại thành phố Philadelphia (Mỹ) họp đại
hội CNTB thế giới, ra tuyên ngôn: Tiếp thu kinh nghiệm nhân dân
làm chủ của CNXH thực hiện CNTB phúc lợi suốt đời (đảm
bảo cuộc sống của người dân từ khi sinh ra cho đến khi
chết.) Tiếp thu kinh nghiệm kế họach hóa XHCN, thực hiện CNTB
kế hoạch có sự can thiệp của nhà nước (Biện Hồng Đăng
"Phương lược vận doanh tư bản" – Nhà xuất bản cải
cách, báo in 1997 trang 227, bản tiếng Hoa).
Ngày 3/6/2000, tại hội nghị cấp cao ở Béclin (có Tony Blair
nguyên thủ tướng Anh, đại diện Công Đảng Anh và nguyên
tổng thống Mỹ Clinton tham dự), Công báo hội nghị nêu:
"Chúng tôi tin rằng kinh tế thị trường phải kết hợp trách
nhiệm xã hội từ đó tạo ra kinh tế tăng trưởng, công ăn
việc làm đầy đủ và sự ổn định lâu dài, còn nhà nước
trên phương diện kinh tế vĩ mô phải duy trì ổn định, ủng
hộ các biện pháp tài vụ công kiện toàn, kiên quyết ngăn
chặn lạm phát, nhà nước cũng phải thúc đẩy thị trường
tiền tệ ổn định, nâng cao độ minh bạch và đề xướng
cạnh tranh công bằng (trích trong Con đường thứ ba và nước
Anh mới, nhà xuất bản Phương Đông bản in lần thứ 1, tiếng
Hoa, 12.2001, trang 290-291).
Cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây (bắt đầu từ 2008) gây
tai họa cho nhân loại trên toàn bộ mọi bình diện của cuộc
sống, đặc biệt cho những người nghèo, các nước chậm phát
triển. Nhưng tôi vẫn tin rằng nhân loại nói chung và CNTB hiện
đại nói riêng rồi cũng sẽ ra khỏi được khủng hoảng tuy
phải chịu một tổn thất kinh khủng, chưa từng thấy, rồi
cũng sẽ sáng tạo được một lý thuyết mới ở tầm cao hơn,
sáng tạo được cơ chế mới ở mọi nơi, mọi khu vực cũng
như trên toàn cầu mở đầu cho một chu kỳ mới phát triển
năng động hơn.
CNTB hiện đại đã và sẽ suy yếu hơn, cấu trúc sẽ có sự
thay đổi, bố trí lực lượng sẽ thay đổi, cường quốc
mạnh nhất đã và sẽ suy yếu, cục diện đa trung tâm đang
xuất hiện, các thế lực mới đang xuất hiện, vị trí của
các nước đang phát triển sẽ ngày càng được khẳng định,
đặc biệt là vị trí của Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin, ASEAN
(trong đó có Việt Nam). Nhưng có một điều cần ghi nhận: CNTB
sẽ biết cách thích ứng, nó chưa tan vỡ, nó vẫn là một chủ
thể chi phối quá trình phát triển và tiến hóa của nhân
loại, chưa xảy ra quá trình tan rã cuối cùng. Giai cấp công
nhân chưa sẵn sàng và không đủ lực lượng để tự mình
đánh đổ CNTB bằng một đòn quyết định cuối cùng khai tử
CNTB thực hiện sự quá độ sang CNXH (mô hình Lê Nin) mà là
Hợp tác, đấu tranh, kiềm chế, kế thừa và phát triển.
<strong>Vấn đề thứ hai:</strong>
a/ Có thể xây dựng CNXH không trải qua giai đoạn phát triển
TBCH? Trả lời của lịch sử: CNTB vẫn còn có tác dụng thúc
đẩy lịch sử. Phải thừa nhận yếu tố tư bản là cần
thiết. Việc thừa nhận vai trò sở hữu tư nhân, vai trò đa
sở hữu, vai trò của các doanh nghiệp tư bản dưới các hình
thức khác nhau, thậm chí cả vai trò công ty xuyên quốc gia tư
nhân là cần thiết, rất cần thiết, có thể nói đóng cả vai
trò là lực lượng xung kích để cạnh tranh trên thị trường
nội địa và thị trường quốc tế. Việc Đảng ta mở cửa
mời các công ty xuyên quốc gia, các tập đoàn tài chính xuyên
quốc gia, việc Đảng ta chủ trương đổi mới sớm gia nhập
WTO, thực hiện sự liên kết với khối ASEAN, thực hiện hội
nhập quốc tế, việc bắt tay đối tác chiến lược với Ấn
Độ, Nhật Bản v.v… là chính sách hoàn toàn đúng đắn và
sáng tạo của Đảng ta. Đây là sự dịch chuyển có tính
chiến lược lâu dài chứ không phải là chiến thuật tạm lùi
một bước. Chiến lược này còn phát triển các hình thức
bắt tay với các nước tư bản hiện đại, các tập đoàn tư
bản mạnh nhất, còn rộng mở nữa, tất nhiên vẫn phải nằm
trong quỹ đạo chúng ta kiểm soát được.
Nói tóm lại, yếu tố TBCN thâm nhập vào cơ thể kinh tế của
chúng ta, đã là một bộ phận cực kỳ quan trọng, tạo động
lực phát triển của Việt Nam.
b/ Có phải thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB
sang CNXH theo học thuyết Lênin (mô hình Xô viết)?
Phải có sự tìm tòi mới, thực tế và khoa học.
Tôi khẳng định có sự dịch chuyểnt ừ CNTB vào tương lai theo
hướng xã hội tiến bộ hơn, giàu có hơn, nhân đạo hơn, bền
vững hơn là điều đang xảy ra và sẽ phải xảy ra. Song nó đa
dạng, không có một hình thức duy nhất. Mô hình CNXH kiểu Xô
viết qua thực nghiệm đã thất bại. Nếu có mô hình cái gọi
là CNXH thì sẽ có màu sắc khác, không thể là mô hình lấy
đấu tranh giai cấp làm động lực, lấy công hữu là hình
thức sở hữu chi phối, lấy chuyên chính vô sản làm hình
thức quản lý duy nhất… Nhân loại trong đó có Việt Nam đang
tìm tòi, cần tổng kết, rút ra kết luận một cách sáng tạo.
Đó là cái đòi hỏi đề án này phải trả lời. Bên cạnh mô
hình XHCN kiểu mới, nhân loại đang tìm tòi qua nhiều mô hình
đa dạng, rất khác nhau, như mô hình Thụy Điển, mô hình các
nước Bắc Âu, môi hình Ôxtrâylia, mô hình Đức, mô hình các
nước NIC châu Á . . . Có thể nói tất cả còn đang tìm tòi
theo hướng có nhiều con đường dẫn tới tương lai, rộng rãi
thênh thang, chứ không phải là chỉ có một con đường hẹp,
duy nhất.
Chúng ta có quyền thử nghiệm con đường của chúng ta. Các dân
tộc khác cũng đang tìm con đường của họ. Phải thừa nhận
tính đa dạng của sự tồn tại, phát triển và tiến hóa.
Không nên vội vã tuyên bố chúng ta đã thành công trong việc
sáng tạo xã hội XHCN tương lai rồi, và kết luận đó là mô
hình chuẩn mực, có tính chung cho cả nhân loại. Và có ai đó
nghĩ theo kiểu khác thì bị lên án là "xét lại" "diễn
tiến hòa bình".
Còn một vấn đề khác: Có mô hình chủ nghĩa cộng sản như
Mác nghĩ không. Tôi nghĩ không có và không thể có mô hình
cuối cùng như Mác dự báo vì 3 lý do đơn giản: Trái đất,
nơi con người đang sinh sống đang bị dồn vào trạng thái vô
cùng khốn đốn. Ở thế kỷ thứ 19, người ta nghĩ rằng tiềm
lực trái đất là vô tận, con người có thể thoải mái khai
thác một cách vô tư. Nhưng than ôi, nền văn minh công nghiệp
mới xuất hiện chưa lâu lắm, mới vài thế kỷ thôi đặc
biệt một thế kỷ gần đây đã làm cho trái đất cạn kiệt.
Ít nhất loài người đang đối mặt với sự "bất mãn"
của thiên nhiên. Các dạng năng lượng cổ điển chỉ có thể
thỏa mãn loài người vào khoảng 50 năm nữa thôi. Xuất hiện
nguy cơ thiếu nước ngọt trầm trọng. Giới khoa học dự báo
vào giữa thế kỷ ít nhất 50% nhân loại thiếu nước ngọt.
Một dự báo khác, trái đất không nuôi nổi 12 tỷ con người.
Khủng hoảng lương thực sẽ xuất hiện nghiêm trọng vào giữa
và đặc biệt vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ
này. Cũng xuất hiện sự cạn kiệt hầu hết các nguyên liệu
do trái đất cung cấp vào cuối thế kỷ này. Giới học giả
cũng dự báo rằng toàn bộ trái đất đã và sẽ bị ô nhiễm
nặng nề. Trái đất đang nóng lên, sinh quyển đang bị tổn
thất nặng nề. Sự mất cân bằng giữa sự phá phách vô ý
thức và có ý thức của con người qua quá trình công nghiệp
hóa cổ điển đã vượt qua giới hạn khả năng tự điều
chỉnh của trái đất, đang đe dọa sự tồn vong của loài
người.
Người ta cũng đã cảnh báo loài người đang đứng trước
thảm họa các căn bệnh rất mới đang xuất hiện, đến một
lúc nào đó có thể bùng nổ các loại vi khuẩn mới nằm ngoài
kiểm soát của con người. Đã xuất hiện những yếu tố lạ
đe dọa… sự sống của loài người. Giới học giả đã phát
hiện dấu hiện sự "bất tuân thượng lệnh": cấp trên ra
lệnh, cấp dưới ì ra của cái gọi là phái mạnh. Trong 147
nhiễm sắc thể Y đã mất trên 2/3 chỉ còn lại 45.
Tóm lại, loài người đã phạm sai lầm lớn, rất lớn. Nền
văn minh công nghiệp đã có công tạo nên sự phát triển lực
lượng sản xuất kỳ diệu nhưng cũng đã phạm một tội ác
đe dọa sự tồn tại của loài người. Con người hiện đại
có những như cầu không ai có thể dự báo được, mà điều
kiện thỏa mãn nhu cầu thì mỗi ngày một thu hẹp.
Giả thiết, tôi giả thiết thôi, nếu loài người thực hiện
được phương châm làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu thì
làm gì còn động lực nữa.
Đứng về mặt xã hội, con người phức tạp lắm, phức tạp
hơn ta nghĩ rất nhiều. Không thể "thuần hóa" được như
Mác nghĩ. Không thể có xã hội không nhà nước, không áp bức,
không bóc lột, xã hội lý tưởng như Mác nghĩ. Chúng ta phải
bằng lòng với thực tế xã hội sẽ tiến bộ với những ưu
điểm mới, những tố chất mới, giàu có hơn, nhân đạo hơn,
nhân văn hơn, trí tuệ hơn cùng với những khuyết tật thích
ứng, những bất công đã và đang nảy sinh và sẽ nảy sinh,
rồi lại chuyển sang một trình độ khác cao hơn với những
bất công mới. Không có xã hội lý tưởng, và cũng có thể xã
hội sẽ tiến hóa ngược, một hiện tượng bất thường nào
đó xuất hiện có thể kéo lùi nền văn minh trở lại, chưa
biết đến đâu. Muốn có tương lai, các thế hệ sau phải
giải bài toán này một cách liên tục với tinh thần sáng tạo
mới. Lao động sáng tạo ra xã hội mới gian khổ lắm, lâu dài
vô tận và không bao giờ chấm dứt. Tương lai là "terra
incognita", nghĩa là một vùng đất hoang mà! Không có một lý
thuyết nào đủ sức khám phá tương lai một lần.
<strong>Vấn đề lớn thứ ba.</strong> Mục tiêu xây dựng ở
Việt Nam: xã hội dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ văn minh của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, chính xác.
Nếu cần thì điều chỉnh chữ dân chủ lên trên chữ công
bằng.
Tuy nhiên, đây chỉ là khẩu hiệu, lời hứa, chưa là hiện
thực. Vấn đề là trong mỗi giai đọan lịch sử nhất định
nó phải được thể hiện qua một hệ thống mục tiêu cụ
thể, thực tế, khả thi, bằng những chương trình hành động
với những kết quả thiết thực, có sức thuyết phục.
Tôi xin lưu ý , tất cả các thế lực cầm quyền mọi thời
đại ở bất cứ quốc gia nào cũng đều có tuyên ngôn (ở
những dạng khác nhau) hứa với đồng bào của họ bằng
những "đại ngôn" cực kỳ hấp dẫn. Vấn đề là phải xem
hiệu quả của những chính sách cụ thể.
Tôi hy vọng bản báo cáo kế hoạch phát triển 20 năm của
chính phủ sẽ làm sáng tỏ vấn đề gai góc này.
Trong quá trình thực hiện sự dịch chuyển vào tương lai đang
xuất hiện 4 con ngựa chiến thời đại như những công cụ
dẫn dắt hành động của tất cả các quốc gia hiện hữu ta
cần tham khảo.
<em><strong>Công cụ thứ nhất</strong></em>. Kinh tế thị trường
quốc tế hóa, hiện đại hóa, một phương thức duy nhất hiện
nay. Con ngựa rất hay, nhưng rất đỏng đảnh nhiều tật, đã
mang lại sự phát triển chưa từng có trong lịch sử, nhưng
cũng mang lại biết bao tai họa, chưa thể lường hết được.
XHCN đã thể nghiệm một phương thức khác, phương thức kinh
tế kế hoạch hóa dựa trên sở hữu công để loại bỏ con
ngựa bất kham kinh tế thị trường nhưng không thành công, lại
phải trở lại kinh tế thị trường và sáng tạo thuật cưỡi
mới hiện đại và hiệu quả hơn.
Có mấy vấn đề có tính cách nguyên tắc, tôi xin phép được
lưu ý:
- Nền kinh tế thị trường nào cũng phải dựa trên nền tảng
giải phóng sức sản xuất con người. Phải thừa nhận chế
độ sở hữu tư nhân, thừa nhận nghiêm túc, lâu dài. Sự
xuất hiện sở hữu tư nhân là nền tảng của kinh tế thị
trường. Với tất cả chiều sâu và tính toàn diện của nó,
cùng kết hợp với nó là chế độ sở hữu công. Cần xác
định mối quan hệ hỗ tương của hai hình thức sở hữu này
nhằm bổ sung cho nhau và không lấn sân nhau. Phải tôn trọng
sự thật lịch sử là sở hữu công đã là nòng cốt của nền
kinh tế nước nhà mấy chục năm qua, phải cải tạo theo
hướng thích hợp thị trường song quyết không thể thực hiện
sự chuyển giao tài sản công cho tư nhân theo kiểu dâng không
để một số người thực hiện sự cướp đoạt tài sản
công. Cần xây dựng các tập đoàn kinh tế nhà nước mạnh làm
chỗ dựa cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và
hội nhập quốc tế ở một số ngành, then chốt. Tuy nhiên cũng
phải thừa nhận tính thiếu hiệu quả của xí nghiệp công
để có chính sách khuyến khích tư nhân phát triển thành những
tập đoàn lớn xuyên quốc gia.
- Ý thứ hai: muốn kinh tế hàng hóa vận hành tốt phải thực
hiện hàng hóa hóa nền kinh tế, xây dựng các thị trường
hoàn chỉnh, hết sức lưu ý thị trường đất đai, vấn đề
rất nhạy cảm.
– Ý thứ ba: Nói kinh tế hàng hóa là nói tự do cạnh tranh
chống độc quyền. Nếu dung túng cho sự độc quyền thì nền
kinh tế sẽ biến dạng ngay.
Kinh tế thị trường có ưu điểm là động lực phát triển
song có rất nhiều khuyết tật, cần sự quản lý một nhà
nước trong sạch và thông minh. Đây là nét phát triển mới
của kinh tế thị trường hiện đại. Nếu bộ máy nhà nước
tham nhũng tiêu cực, quan liêu hạch sách, cửa quyền và dốt
nát thì là một tai họa, kinh tế thị trường biến tướng
ngay.
Tôi nhấn mạnh tính trong sáng và tính trí tuệ. Đề nghị các
đồng chí quan tâm xử lý sự non kém thiếu kiến thức điều
hành.
Nều kinh tế thị trường của ta khác với nhiều nước NIC –
như Xinhgapo, Hồng Công… Các nền kinh tế này hoàn toàn hướng
ra ngoài. Nền kinh tế thị trường Việt Nam có mục tiêu
hướng ra ngoài vừa phải, còn phải ra sức xây dựng thị
trường nội địa để bảo đảm tính bền chắc. Sự hình
thành tầng lớp trung lưu là cơ sở để nuôi dưỡng thị
trường nội địa làm cho nó có sức sống, là điều kiện
sống còn của nền kinh tế.
Cần hết sức chú ý xây dựng thị trường nông thôn
- thị trường bao quát gần 2/3 nhân lực Việt Nam. Đây cũng là
một đặc điểm Việt Nam. Nếu coi nhẹ bỏ rơi thị trường
nông thôn sẽ gặp tai họa không lường được.
Đi đôi xây dựng kinh tế thị trường phải có
chiến lược hiệu quả thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu,
hiện đại hóa cơ cấu. Trong một thời gian không xa phải thực
hiện sự dịch chuyển sang cơ cấu mới, cơ cấu nông nghiệp,
dịch vụ kết hợp nông nghiệp, lấy công nghiệp và dịch vụ
làm nền tảng. Từng bước đưa tỉ lệ kinh tế trí thức tăng
dần đến giữa thế kỷ tỉ lệ kinh tế trí thức phải là
động lực chính thúc đẩy kinh tế.
Phải có một chiến lược có hiệu quả khắc phục
tình trạng cơ sở hạ tầng quá yếu, đặc biệt cơ sở hạ
tầng giao thông, điện lực, thông tin, dịch vụ, một hạ tầng
chất lượng lao động, đặc biệt lao động quản lý, một
thế hệ các giám đốc hiện đại, các chuyên gia kinh tế hiện
đại, các học giả kinh tế hiện đại, v.v…
Bên cạnh Viên nghiên cứu cần thành lập Viện chống
khủng hoảng. Đã chơi con bài kinh tế thị trường thì việc
đối phó với khủng hoảng là tất yếu. Phải có một cơ chế
thích ứng đặc biệt, cơ chế đủ sức cảm nhận thông minh
với thị trường nhất là trên lĩnh vực tài chính ngân hang,
thị trường chứng khoán v.,. v… và chủ động dự kiến các
giải pháp đối phó hữu hiệu.
Và ý kiến cuối cùng của tôi là cần xây dựng một
nền văn hóa kinh tế thị trường, nâng cao chất lượng đặc
biệt lớp trẻ với kinh tế thị trường hiện đại.
<em><strong>Công cụ thứ hai</strong></em>: Dân chủ hóa
xã hội, thực chất là xây dựng xã hội dân sự, hay còn gọi
xã hội công dân nhà nước pháp quyền.
Dân chủ hóa xã hội là một xu thế xuyên suốt cả
quá trình tồn tại và tiến hóa của nhân loại. Nó vừa là
phương pháp hành động vừa là mục tiêu tối thượng của
một xã hội tiến bộ . Nhân loại đã đạt được những
thành tựu đáng kể. Thành tựu lớn nhất là từ xã hội thần
dân của phong kiến loài người đã thực hiện được bước
nhảy vọt sang xã hội công dân nhà nước pháp quyền, với 2
đặc trưng, người dân đã bước vào kỷ nguyên mới, ở mức
độ nhất định được làm chủ đất nước với tuyên ngôn
nổi tiếng: người ta sinh ra ai cũng có quyền tự do. Tự do là
quyền thiêng liêng nhất, quyền bẩm sinh, không phụ thuộc vào
sự ban phát của bất cứ thế lực chính trị nào. Song thực
tế không phải như vậy. Người có quyền lực bao giờ cũng
lạm dụng quyền lực, cho nên loài người sáng tạo nguyên lý
mới "tam quyền phân lập" theo hướng quyền lực giám sát
quyền lực để ngăn chặn quá trình tha hóa bộ máy quyền
lực. Nhưng người cộng sản phê phán đó là một trò chơi
giả dối, người lao động không có quyền chiếm hữu tư liệu
sản xuất thì làm gì có quyền dân chủ, nguyên nhân tha hóa con
người chính là ở chỗ CNTB đã chiếm hữu tư liệu sản xuất
và họ thực hành chiến lược tập trung quyền lực trong tay
giai cấp công nhân, thực chất trong tay đảng cộng sản, tổ
chức đại diện quyền lực của giai cấp công nhân thực hành
chuyên chính vô sản coi như phương tiện để giải phóng con
người triệt để hơn. Dân chủ XHCN về thực chất cao hơn
gấp triệu làn dân chủ tư sản. Nhưng trên thực tế qua quá
trình cầm quyền với hình thức quản lý chuyên chính vô sản,
với nguyên tắc tập trung dân chủ, xã hội chưa bao giờ
được hưởng quyền dân chủ đích thực và lý do đơn giản,
thế lực kẻ thù còn lớn, đấu tranh giai cấp giữa giai cấp
công nhân, các dân tộc bị áp bức với CNTB rất khốc liệt.
Các thế lực thù địch rất dễ lợi dụng dân chủ để thực
hiện lật đổ chính quyền chuyên chính vô sản và trên thực
tế, chúng ta chỉ thực hiện được một phần cương lĩnh của
Mác là tự do cho cá nhân là cơ sở của tự do xã hội. Tự do
của xã hội quyết định tự do của cá nhân. Hầu hết các
đảng viên có lương tâm và trí tuệ đều băn khoăn về hiện
tượng này. Tôi có dịp làm việc với các đồng chí tiền
bối thuộc lớp trước tôi, trước khi qua đời đều "di
chúc" lại băn khoăn này như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng,
như ủy viên bộ chính trị Tố Hữu, như cố thủ tướng Võ
Văn Kiệt v..v.. thậm chí có đồng chí nói (Tố Hữu): Bảo ơi,
có lẽ phải làm lại cuộc cách mạng.
Qua tiếp xúc với hầu hết các đồng chí lão thành
cách mạng còn sống cũng như hầu hết các học giả có tiếng
của nước ta, tất cả đều băn khoăn về cái không khí
"thiếu dân chủ" của xã hội ta.
Vấn đề là ở chỗ ta hứa nếu xã hội XHCN chuyển
sang giai đoạn cao hơn, giai đoạn CNCS, xã hội sẽ được
hưởng đầy đủ mọi quyền dân chủ ở mức cao nhất vì lúc
đó nhà nước sẽ biến mất. Song con người lại rất thực
tế, họ muốn hưởng các quyền dân chủ đích thực ngay trong
cuộc đời của họ. Bi kịch là ở chỗ này.
Vấn đề hết sức phức tạp và tế nhị, nhạy
cảm. Mong rằng Hội đồng lý luận tổ chức một cuộc hội
thảo chuyên đề, hội thảo nội bộ để có thể nói thật
được những băn khoăn và tìm giải pháp cho một chiến lược
dân chủ hóa sinh hoạt xã hội đích thực hiệu quả.
Tôi xin phép lưu ý dân chủ hóa xã hội là một
nguyện vọng chính đáng của nhân dân, của đảng viên. Phải
có giải pháp hữu hiệu có sức thuyết phục mới ổn định
được long dân. Nếu xã hội vẫn cảm nhận theo kiểu riêng
của mình họ cảm thấy áp lực chuyên chế nặng nề lắm thì
không thể tránh được những biến động xấu, rất xấu có
thể xảy ra bất cứ lúc nào.
<em><strong>Công cụ thứ ba</strong></em>: Sự hội nhập
toàn diện theo tinh thần: Dựa vào nhau mà tồn tại và phát
triển. Liên kết với nhau để cùng nhau giải quyết các vấn
đề phát sinh trong cuộc sống thực tế, xử lý các mối quan
hệ theo tinh thần tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích toàn cục và
vì lợi ích của mỗi nước, cùng nhau chung sức giải quyết
các thảm họa có thể đe dọa sự tồn tại và phát triển
của nhân loại.
Có rất nhiều vấn đề trong quá trình toàn cầu hóa
và hội nhập nhất thể hóa vì vị trí mỗi nước, tiềm lục
mỗi quốc gia, mỗi khu vực khác nhau, lợi ích khác nhau, chiến
lược khác nhau.
Cần xây dựng một chiến lược hội nhập để giành
chủ động. Cần nhanh chóng tổng kết kinh nghiệm, xây dựng
một môn khoa học hội nhập để hướng dẫn mọi thành viên
xã hội hành động hiệu quả nhất. Cần hoàn thiện luật pháp
cho phù hợp với luật pháp quốc tế. Trong mỗi lĩnh vực phải
đầu tư một đội ngũ chuyên gia có tầm cỡ, giữ vai trò tham
mưu hướng dẫn hành động của cộng đồng. Trong một số
lĩnh vực quan trọng nếu cần phải có những hình thức tổ
chức linh hoạt để nghiên cứu giành chủ động. Nên nghiên
cứu hình thành một nội dung hiện đại hóa con người Việt
Nam phù hợp với quá trình hội nhập. Đưa các nội dung đó
vào các trường đại học cao đẳng dạy nghề v..v.. Mỗi ngành
cũng cần nghiên cứu những nét riêng biệt của ngành để bồi
dưỡng cán bộ, công nhân, viên chức của ngành. Nói tóm lại
phải hiện đại hóa con người Việt Nam, đặc biệt lớp trẻ
để hội nhập cuộc chủ động, sáng tạo.
Tôi xin góp ý một số vấn đề cụ thể. Ngoài việc
hội nhập vào dòng thương mại quốc tế hóa, hiện đại hóa
đã có cơ quan chuyên trách, cần chỉ đạo tốt mấy việc:
- Xây dựng một chiến lược hội nhập với ASEAN. Việt Nam
cần rất chủ động xây dựng ASEAN lớn mạnh, mức độ liên
kết mỗi gian đoạn cụ thể chặt chẽ hơn, bao quát hơn để
tạo một thế chung. Một ASEAN lớn mạnh, liên kết chặt chẽ
là một đảm bảo chiến lược cực kỳ thuận lợi để tạo
cho tất cả các quốc gia trong khu vực một thế và l ực mới
để giành chủ động trong mọi tình hình phức tạp và tế
nhị. Từ nay đến giữa thế kỷ ASEAN phải trở thành một
trong 10 thế lực in dấu ấn đậm nét vào quá trình tiến hóa
của nhân loại.
- Cần có một chiến lược hữu hiệu tranh thủ 3 triệu Việt
kiều gắn bó với tổ quốc, sử dụng hiệu quả mọi tiềm
năng, đặc biệt tiềm năng trí tuệ vào sự nghiệp xây dựng
đất nước và chỗ dựa cực kỳ quan trọng của tổ quốc
trong quá trình chúng ta thâm nhập vào các thị trường quốc
tế. Phải có chiến lược mở rộng sự dịch chuyển lực
lượng lao động Việt Nam sang các địa bàn trên khắp thế
giới để xây dựng những thế lực kinh tế Việt Nam trên các
địa bàn khắp thế giời, đặc biệt chú trọng châu Phi, Trung
Cận Đông, Ôxtrâylia, Nga, châu Mỹ Latinh và ngay tại nước Mỹ
.. để hỗ trợ kết hợp với nội địa tạo một bộ mặt
mới hoàn toàn về chất. Tôi hình dung Việt Nam vào giữa thế
kỷ sẽ khác xa hiện nay.
Tôi cũng xin phép lưu ý cần xây dựng một chiến lược để
người Việt Nam thâm nhập vào các tổ chức quốc tế để mở
rộng ảnh hưỏng Việt Nam v..v.. Việt Nam cần có những căn
cứ kinh tế, khoa học kỹ thuật, chính trị đông đảo ở hải
ngoại để phối hợp với trong nước.
<em><strong>Công cụ thứ tư</strong></em>: Đã có dấu hiệu loài
người đang dịch chuyển sang nền văn minh mới, văn minh trí
tuệ hay còn gọi là văn minh hậu công nghiệp, văn minh tin học
v..v, với 2 đặc điểm:
a/ Con người được giải phóng ở trình độ cao, được tạo
điều kiện đứng giữa dòng thác trí tuệ hiện đại đang nở
như hoa trong cuộc chinh phục mới sự hiểu biết ở cấp độ
cao hơn. Đã xuất hiện và đang xuất hiện những ý tưởng
mới, những khái niệm mới, những phạm trù mới liên kết
lại thành những mầm mống của nhiều lý thuyết mới, vườn
ươm của các phương pháp, công nghệ mới.
Cần tạo điều kiện cho các học giả, các chính
khách chiến lược, và đội ngũ tư vấn của họ làm quen với
những thành tựu này để nâng cao chất lượng của những công
trình khoa học, nâng cao chất lượng của các quyết sách dẫn
dắt sự đi lên của đất nước.
Rất cần và muôn ngàn lần cần tạo điều kiện cho
lớp trẻ tiếp cận cái dòng tư duy thời đại này để họ
trưởng thành trở thành những học giả trẻ mang lại một
luồng gió mới cho đất nước. Phải cài họ vào những
trường đại học hàng đầu thế giới, đặc biệt giai đoạn
họ làm luận án tiến sĩ phải tư vấn cho họ tìm được
những giáo sư đang đi lên, tiêu biểu xu thế của tương lai.
Nếu tiếp cận được những học giả này sẽ mở được con
đường vào tương lai khoa học sáng sủa nhất.
b/ Đó là lịch sử đòi hỏi sự phát triển ý thức
trách nhiệm xã hội của con người, trách nhiệm với cộng
đồng nhân loại, trách nhiệm với tương lai. Người ta hy vọng
loài người sáng tạo được những công trình góp phần nâng
cao ý thức nhân văn, tính nhân đạo trong xử lý mối quan hệ
giữa con người với con người, luôn mang lại sự lành mạnh
cho con người và từng bước triệt tiêu, vô hiệu hóa cái ác.
Có thể còn có một vấn đề khác tôi muốn lưu ý,
đó là làm thế nào để cải tạo được phương pháp tư duy
cực kỳ lạc hậu trong xã hội Việt Nam hiện nay, đầy rẫy
mơ hồ, sai lạc, thành kiến, thiếu thông minh, những tập tục,
thói quen lạc hậu đang chi phối xã hội ta. Có điều xin tâm
sự, cái thành kiến, các lạc hậu lại đang chi phối cả các
học giả, các học giả có vị trí lớn được xã hội kính
trong. Đó là tính nịnh bợ, sự dối trá, tính hư danh, tính
ích kỹ, cái lạc hậu, cái xấu xí đó nó đã thâm nhập mọi
ngõ ngách của xã hội.
Việc dẫn dắt dân tộc đứng giữa dòng sự dịch
chuyển vào quỹ đạo của nền văn minh nó quan trọng thực
sự. Đó là con đường đi tắt ngắn nhất vào tương lai. Trí
thức hóa một dân tộc, trí thức hóa lớp trẻ quả là một
nhu cầu cách mạng nhất.
Trong những năm trước mắt chiến lược này phải
được thể hiện tập trung nhiều vào những mặt sau:
Hiện đại hóa các trường đại học, xây dựng một
số trường đại học có chất lượng trung bình trên thế
giới rồi tiến lên xây dựng một số trường có chất lượng
cao hơn có thể vào nửa sau thế kỷ. Cần cải tiến khâu đào
tạo tiến sĩ, tạo nên những học giả đích thực, phải kiên
quyết chấm dứt cái hư danh, nó sẽ hủy hoại cả một tiềm
lực trí tuệ của đất nước và dẫn dắt vào cõi tối tăm.
Cần có chính sách kiên quyết loại bỏ những sự
dối trá, thiết lập trật tự mới trong hàng ngũ các học
giả, tầng lớp được vinh danh là giáo sư, tiến sĩ. Chỉ cần
ít nhưng tinh. Có thiết lập trật tự mới thì mới có thể có
tương lai. Nếu nuôi dưỡng cái giả dối, để cái giả dối
chi phối thì mọi tai họa có thể xảy ra.
Tóm lại đó là 4 con ngựa chiến đang xuất hiện và
chi phôi sự sống và tiến hóa của nhân loại. Trong 4 con ngựa
này khó cười nhất là con ngựa dân chủ hóa xã hội, không
phải vì thiếu hiểi biết – nhân loại đã tích lũy được
rất nhiều kiến thức bổ ích, mà là vì nói rất "tế
nhị" và "nhạy cảm". Tôi có cảm giác tuy chúng ta đã
đạt được một số thành tích nhất định, nhưng chưa đủ
quyết tâm, chưa đủ tự tin cần thiết dám nhảy lên lưng
ngựa. Nếu không dám cưỡi cũng như cưỡi thiếu bản lĩnh,
tôi ngại sớm muộn sẽ gặp phải tai họa không lường
được. Xã hội có giữ được thế ổn định bền vững hay
sẽ bùng phát bùng nổ cũng tùy thuộc một phần lớn vào bản
lĩnh cưỡi con ngựa này của chúng ta. Hy vọng Hội đồng lý
luận có những đột phá, kết luận xác đáng.
Tất cả các quốc gia đều phải tham gia xây dựng
một khoa học và nghệ thuật cưỡi những con ngựa trên để
tiến cùng thời đại tạo cho quốc gia mình những điều kiện
thuận lợi nhất tiến về tương lai và cùng góp phần thúc
đẩy nhân loại tiến hóa sáng tạo ra những hình thức sống
và phát triển tốt nhất.
Việt Nam không nằm ngoài lề. Giải quyết bài toán
chủ động phát triển tức là phải giải bài toán "thuật
cưỡi lên 4 con ngựa chiến" này để dẫn dắt cả dân tộc
mình, khỏi động một cuộc tiến công mạnh mẽ nhất, sôi
động nhất chưa hề có trong lịch sử sáng tạo tương lai
Việt Nam sánh vai cùng các cường quốc 5 châu như Bác Hồ mong
muốn.
<strong>Vấn đề thứ tư, Vấn đề học thuyết
Mác-Lênin</strong>
Cần phân biệt Mác và Lênin
Về Mác: Mác là nhân vật có vị trí đặc biệt trong
lịch sử tư duy loài người. Các học giả có thẩm quyền
đánh giá: Mác là một trong 16 cái đầu ưu việt nhất mọi
thời đại. Nếu cần chắt lọc 3 cái đầu đặc sắc nhất
thì Mác và Anhxtanh là 2 trong 3 cái đầu ấy. Học thuyết Mác
cũng như tất cả các học thuyết chân chính khác đều là học
thuyết mở, học thuyết sống, nghĩa là nó cần luôn luôn
được bổ sung bằng những luận điểm mới khái quát từ
thực tiễn mới, qua các chu kỳ vận động của lịch sử trên
cơ sở những thành quả mới của tư duy loài người. Học
thuyết Mác cũng như tất cả các học thuyết khác chỉ là một
bậc thang của trí tuệ và không thể là bậc thang cuối cùng.
Nếu là bậc thang cuối cùng có nghĩa là tiến hóa ngừng trệ
hoàn toàn, tư duy ngừng trệ hoàn toàn, hay nói một cách khác
Tư duy đã chết rồi Tối tăm sẽ thế chỗ cho Sáng tạo.
Người ta sẽ hỏi Lênin: Ngài học được ở Mác cái
gì, Lênin trả lời "Nói cho cùng đó là phương pháp luận".
Theo tôi kể cả phương pháp luận tức chủ nghĩa duy vật biện
chứng cũng cần bổ sung nhiều luận điểm mới. Phương pháp
của Mác đã đạt trình độ cao, rất cao song nó vẫn là một
sản phẩm lịch sử.
Về Lênin: Về Lênin thì khác. Lênin có rất nhiều
trước tác có giá trị, được đánh giá cao cần tham khảo song
cũng có một số luận điểm cần điều chỉnh. Lịch sử đã
chứng minh những khuyết tật ấy. Ít nhất cũng cần chú ý 3
luận điểm cần điều chỉnh:
Một là luận điểm về sự tan rã tức thì của chủ
nghĩa tư bản.
Hai là luận điểm về cách mạng bạo lực. Dùng bạo
lực đập tan bộ máy thống trị của giai cấp tư sản, thiết
lập chuyên chính vô sản, quét sạch mọi tàn dư của chủ
nghĩa tư bản, quét sạch chế độ tư hữu, tiến hành triệt
để cuộc đấu tranh toàn diện với hệ tư tưởng tư sản,
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa hoàn toàn mới từ A
đến Z.
Ba là luận điểm về điều kiện các nước chậm phát triển
có thể xây dựng CNXH không cần thông qua giai đoạn phát triển
TBCH. Về cuối đời Lênin cũng đã điều chỉnh tư duy về
luận điểm này ở mức độ nhất định khi đưa ra chính sách
Kinh tế mới. Nhưng tiếc rằng những người kế tục sự
nghiệp Lênin lại kết luận khi đó chỉ là sách lược lùi
bước tạm thời và chấm dứt rất sớm chính sách này.
Hệ quả là sự ra đời mô hình "chủ nghĩa xã hội
Xôviết" mà nhiều học giả ngày nay phê phán là về bản
chất nó là một thứ chủ nghĩa xã hội không tưởng biến
tướng hay CNXH bạo lực, trại lính v.v… một thứ CNXH mà nhân
loại phải trả giá bằng sự tàn sát hàng chục triệu người
ở Liên bang Xô viết và Trung Quốc (có con số thống kê chính
thức công bố gần đây là vào khoảng gần 100 triệu người)
và một chế độ xã hội thiếu thốn nghèo khổ. Sự phê phán
trên là quá khe khắt song không phải không có yếu tố hợp lý.
May thay xuất hiện phong trào cải cách và đổi mới, một thử
nghiệm mà nhân loại đang gởi gắm kỳ vọng có thể sáng tạo
một mô hình CNXH mới về chất có sức thuyết phục. Tôi xin
nhắc lại "nhân loại hy vọng thôi", còn rất nhiều việc
phải làm, phải thử nghiệm, phải tổng kết mới dần dần
tạo ra được những yếu tố tích cực để tạo sự dịch
chuyển vào một mô hình mong muốn của nhân loại… Có thể
thành công song cũng rất có thể mắc phải tư duy duy ý chí
một lần nữa, rất có thể sa vào vũng bùn của chủ nghĩa
ngụy biện (sophisme) hay chủ nghĩa ngộ biện (paralogisme).
Không ít học giả trên thế giới và trong nước, những học
giả chân chính, đích thực đã cảnh báo: "Đã có những dấu
hiệu đổi mới, cải cách đang trượt dài sang không phải CNTB
hiện đại mà là sang CNTB 'xấu xí', CNTB sơ khai với những
đặc trưng cực kỳ man rợ, trong đó có 2 đặc trưng đáng chú
ý:
Xuất hiện một luồng cực mạnh kinh tế ngầm lộng hành, chi
phối sự vận động của xã hội với sự móc ngoặc của 2
thế lực đen: thế lực chủ nghĩa mafia ngoài xã hội, thế
lực đen của những phần tử thoái hóa biến chất trong bộ
máy cầm quyền. Và một bộ máy công quyền hư hỏng, vô cảm,
tham nhũng, quan liêu, hách dịch, thiếu chuyên nghiệp, ít hiểu
biết, xa rời nhân dân, dị ứng dân chủ…
Tuy không phải toàn bộ bức tranh là như vậy, song đó là một
thực tế tồn tại thực sự ở ngành này ngành khác, cấp này
cấp khác, lúc này lúc khác, đang hủy hoại bản chất nhà
nước cách mạng của dân, vì dân, do dân. Biện pháp khắc
phục chưa tới giới hạn có thể chặn đứng được xu thế
này. Hệ quả khó lường, có thể làm biến dạng cả bản
chất chế độ.
Sự dối trá, thói hư danh, tính ích kỷ thu vén cá nhân đang chi
phối triết lý sống của xã hội. Tất cả những cái tiêu
cực này đang kích thích sự bùng nổ xã hội cả trên bình
diện ý thức gắn bó với Đảng, với chế độ và cả trên
bình diện hành vi ứng xử xã hội. Hãy cảnh giác!
Kết luận là phải tiếp thu một cách sáng tạo, sáng tạo và
sáng tạo. Phải có ý thức tiếp thu khoa học với tinh thần
phê phán chặt chẽ, chắt lọc cái tinh hoa nhất và độc lập
sáng tạo. Kiên quyết từ bỏ phương pháp tư duy duy ý chí xa
rời thực tiễn, xa rời khoa học. Nhân loại còn đang tìm tòi,
đang thử nghiệm, đang sáng tạo. Chưa xuất hiện định hình
một mô hình đích thực nào dẫn dắt nhân loại vào tương lai.
Phải mạnh bạo đột phá, có gan đột phá, có bản lĩnh đột
phá, song hãy bình tĩnh, thận trọng, chớ nên kết luận vội
vã, kiểu áp đặt kiêu ngạo, mù quáng. Lịch sử rất nghiêm
khắc. Phải trưởng thành và luôn luôn luôn tỉnh táo, năng
động, thông minh, nghiêm túc, có trách nhiệm cao. Hội đồng lý
luận đang được Đảng giao một trách nhiệm cực kỳ to lớn,
nặng nề, mang tính lịch sử, tạo một bước ngoặt định
hướng tư duy cho Đảng và xã hội. Mong các đồng chí ý thức
sâu sắc sứ mạng này, tôi gửi gắm hy vọng, với tất cả
thiện chí tôi mong muốn các đồng chí thành công.
Nếu Đảng cộng sản Việt Nam chủ trì sáng tạo đuợc lý
thuyết mới dẫn dắt dân tộc bắt đầu từ Đại họi 11 sắp
tới thì đó là một cống hiến vô giá, vai trò lãnh đạo của
Đảng sẽ bất diệt. Đảng đã và mãi mãi là một Đảng của
lương tâm và trí tuệ ở tầm cao hơn hợp xu thế thời đại
hơn.
Đó là tất cả những gì tôi muốn tâm sự.
Hà Nội ngày 30/6/2009
<div class="special_quote"><h2>Wikipedia: Đặng Quốc Bảo</h2>
Ông sinh ra tại làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam
Định.
Ông từng giữ các chức vụ: Hiệu trưởng trường Đại học
Kỹ thuật Quân sự (1968-1976), Bí thư thứ nhất Trung ương
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Thứ trưởng Bộ Đại
học và Trung học chuyên nghiệp.
Tại Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
4 (năm 1976), ông được bầu là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam và được bổ nhiệm chức
Trưởng ban Khoa giáo Trung ương Đảng.
Ông được phong: phó giáo sư, thiếu tướng.
Hiện nay, ông nghỉ hưu tại Hà Nội, chủ tịch Quỹ bảo trợ
Tài năng trẻ Kỹ thuật quân sự Việt Nam. </div>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4725), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét