Nguyễn Hữu Liêm - Cám dỗ Việt Nam

Tự trong mỗi người Việt đang ở Âu Mỹ, hay ở trong nước,
đồng lúc có hai nước Việt Nam. Một Việt Nam cho mệnh lệnh
lý tưởng, và một Việt Nam trong thực tế đang là. Trên ngọn
sóng điạ chấn từ thời đại nhiều xoay chuyển, từng chúng
ta đều mang hai năng lực tình cảm giằng xé nhau: Giữa cái ta
và tổ quốc, giữa tình cảm và lý trí, giữa lịch sử và dự
phóng tương lai.

Một ngày đó, trước khi lên đường đi Việt Nam, tôi ngồi
trong phòng vắng để đọc lại "<em>The Temptation of the West</em>,"
(Niềm cám dỗ phương Tây) (1926) của André Malraux. Từ một lá
thư giả tưởng bởi một người Á đông mang tên Ling gởi cho
một người Âu châu tên A. D., ông đã viết rằng, người Âu
châu mang ý chí "đem vũ trụ đến cho con người"; còn người Á
đông thì ngược lại, muốn "cống hiến chính mình cho vũ
trụ." Người Tây chỉ muốn thông hiểu vũ trụ bằng ý chí
nhân cách hóa không gian thành ra một đối tượng vật thể
hữu hạn; người Đông thì muốn chính nhân cách mình biến
mất vào hư không nhằm khai sáng cái chiều sâu vô cùng của
vạn vật.(*)

Khi văn minh Tây phương đã thâm nhiễm thế giới, người Việt
không còn là một biệt lệ bên ngoài. Đang ở Tây phương nhìn
về quê mẹ, Việt Nam đối với tôi như là một vũ trụ tinh
thần lớn cho mình, đồng lúc cũng như bao người Á đông khác,
tôi muốn dâng hiến chính mình về cho quê cha, đất tổ. Trong
khi đó, tôi hình dung ra tôi đang ở trong nước, thì cứ như là
người Âu, muốn đem thế giới Tây phương về cho Việt Nam.
Mỗi tâm hồn Việt, bất cứ ở đâu, đều nằm trong hai luồng
tâm thức đầy mâu thuẫn và ngược chiều cho một tình yêu
lớn đối với đất nước. Tâm hồn Việt Nam vẫn chứa đầy
một nỗi băn khoăn của chính mình trước cái vũ trụ quốc gia
bao la, không thế tách rời và thoát ra được khi nhìn về đất
nước. Chúng ta mang một ám ảnh lớn từ lịch sử chỉ vì có
lẽ chúng ta bị hoang tưởng về những khả thể quá lớn cho
tương lai? Từ trong hai năng lực của vũ trụ và cá nhân, của
quốc nội và hải ngoại, người Việt như tôi không thể ngồi
yên. Ta vẫn loay hoay nhảy nhót trong một điệu nhạc khích
động phát thanh từ một khối nội tâm đầy dằn vặt. Thảm
kịch của Việt Nam khởi đi từ nỗi bất an thường trực này.

Anh chàng Ling của Malraux viết tiếp: Điều mà người Âu châu
không hiểu người Á châu là ở chỗ rằng, với dân Á đông,
tình cảm và trí thức cả hai là một. Khi chúng tôi suy nghĩ
và hành động, chúng tôi là một hệ quả từ cảm tính. Trong
khi đó, người Tây Âu phân chia tình cảm ra khỏi lý trí và
bị chia hai. Vì vậy, có thể rằng người Âu châu đã đánh
mất cái hồn nhiên thống nhất trong tình với lý; còn dân Á
đông, dù đã bị Tây phương hóa gần như toàn triệt, vẫn còn
có ít nhiều hạnh phúc trong tình cảm của mình - vì đối với
họ thì thế gian này chỉ là một biển lớn của cảm xúc từ
chính ta mà thôi. Trong đó, người Việt như tôi chỉ biết có
một điều: Rằng ngay cả vũ trụ kia cũng có thể bị chối
từ, nhưng chắc chắn rằng nỗi đau của ta là không thể phủ
bác. Không có hạnh phúc nào nguyên sơ bằng niềm vui thú trong
nỗi đau hồn nhiên, cho dù nó có đúng hay sai, cho dù bản sắc
tình cảm đó là bùn đất ô nhiễm hay là kim cương trong sáng.
Có phải chúng ta, dân Á Đông, mà người Việt là một phần,
là một đơn vị quần chúng duy tình cảm, một tập thể trẻ
thơ hồn nhiên, dễ thương và cần được nhẹ nhàng, ưu ái
chăm sóc mong chờ ngày lớn dậy?

Theo Ling, "Niềm hưng phấn của chúng tôi không bị tuỳ thuộc
vào một tiêu chuẩn nào" (Our exaltation is not dependent upon a
reference). Nó là một sức mạnh nguyên sơ vượt qua giá trị
hay mục tiêu trong không và thời gian. Nó muốn cống hiến cái
ta, chủ thể của cảm tính, về cho khách quan - như rằng mỗi
cá nhân chỉ là một chủ thể cần phải được hy sinh và phủ
định nhằm làm cho vũ trụ thêm huy hoàng. Ta là một phần gỗ
nhỏ cho ngọn lửa phải được cháy cao để cho thế gian
được sáng. Cái mất của ta chính là cái tồn tại và ý
nghĩa cho ta. Mỗi lần sinh đẻ, mỗi lần sáng tạo là mỗi
lần ta đánh mất chính ta vào trong đứa con mới chào đời.
Đau thương, từ đó, là ý chí sáng thế. Nó chính là một
bản hùng ca mang ít nhiều tính chất điên loạn và hoang dã
của một vũ trụ hỗn độn từ khi nó mới ra lò.

A. D. trả lời Ling rằng, ôi chao là cái lạ lùng của dân Á
Đông: "Quý vị ưu ái với tổ tiên đã khuất nhiều hơn là
mang tinh thần tôn trọng phụ nữ đang ở bên mình." Khi quý
vị đã có giáo dục, lý tính chỉ trở nên một công cụ cho
tình cảm, mà những tình cảm này lại chỉ đặt căn cứ trên
và chỉ hướng về những đối thể trừu tượng vượt qua con
người đặc thù và thế gian thực hữu. Đàn ông Việt Nam có
thể hy sinh cho tổ quốc với bao nhiêu gian truân, bao nhiêu
xương máu; nhưng họ không thể mang tình yêu đó để chăm sóc
trọn vẹn cho cộng đồng và người thân của mình trong một
tình cảm vô ngã và không ích kỷ. Và đó chính là cái lỗ
thủng to lớn của đàn ông Á đông: Vũ trụ tuyệt đối mà
họ muốn hiến dâng cũng chỉ là một dự phóng đầy tình cảm
ngã mạn cho những cảm xúc đầy niên thiếu. Họ không cần
đến cái gần thực tế. Họ muốn chết cho cái xa. Cái bên
ta, vợ con, gia đình, cộng đồng thực hữu, chỉ là những gì
cần phải bị phủ nhận. Vì thế, nếu không trưởng thành
nhanh chóng cho kịp với thời đại, họ sẽ phải chết chìm
trong cái dự phóng thuần trừu tượng về một vũ trụ duy tình
cảm. "Ngay cả những lý thuyết hào nhoáng nhất về cái chết
cũng vẫn chỉ là một câu trả lời cho sự yếu đuối của
mình," A. D. viết.

Tâm hồn Việt Nam vẫn còn như kẻ say ngủ đêm đêm tìm ra
sông vắng vang tiếng gọi đò đánh thức làng xóm về cho nỗi
tủi thân bi đát của mình. Họ, Malraux viết tiếp, cứ như là
một "cuộc tìm" - mà khi ý chí "tìm tòi càng cao độ thì giá
trị cho mục tiêu tìm kiếm lại càng suy giảm." Vì khi một
anh nông dân đã mất nhà, nay là vô gia cư, vô tổ quốc, "cuộc
tìm" của hắn đã trở thành một "căn nhà cho nỗi oan khiên" -
một "ngôi nhà cho hữu thể" được xây đắp bằng cường độ
tình cảm về quá khứ nhân danh những dự phóng về tương lai
trong chiếc bóng bi ai của chính thân xác mình. Từ một tình
yêu đầy khát khao, đầy nhạy cảm cho tổ quốc, cho đồng
bào, chúng ta lại vô tình đẩy chúng ta vào thân phận của
một kẻ điên cuồng mà đã đến khi, hắn cảm thấy chán
chường và mệt mỏi với tình cảm thuần dự phóng và ảo
giác. Tình yêu trong sáng nay đã trở nên một vũng lầy buồn
nôn - mà ngay cả khi mặt trời đang lên cao nhất ở giữa trưa
chính ngọ, ta cũng không thể nào nhìn thấy bóng mình thể
hiện trong một hiện hữu đầy tiêu cực.

Trong âm hưởng đó, A. D. mơ hồ cảnh cáo, "Hãy coi chừng!
Người Á đông chúng bây chắc rồi sẽ lây cái bệnh của
người Tây Âu chúng tao: Thứ bệnh lý thù ghét và chán
chường chính mình." Khi lý tưởng trở thành một thể dạng
tình cảm mơ hồ, khi trí thức theo đuổi những mục tiêu nặng
trừu tượng và vô thực chất, cá nhân sẽ trở nên trống
rỗng. Khi đó, văn minh Tây phương sẽ tràn vào để chất
đầy một ý chí mới - một ý chí thuần cảm giác khích động
để tìm quên thực tại tinh hoa của ngã thể chắc nịch này.
Bạn có bao giờ quen thân với một thi sĩ tiếng Việt? Nếu
hắn không là một thằng điên thì phải là một kẻ rất là
thực dụng. Malraux, nếu đọc rộng và sâu hơn, đã gián tiếp
nói trước như vậy.

Tôi mơ hồ đọc Malraux như là những giòng chữ được viết
về một mẫu người Việt Nam vào đầu thế kỷ 21 này, dù là
ở hải ngoại hay là trong nước. Một cách tự do và mở rộng
ra, tôi thấy Malraux đã nói rằng tất cả chúng ta đang chỉ là
một phần trên một ngọn sóng quay cuồng thuần cảm tính bị
khích động bởi cơn điạ chấn từ biển sâu xô đẩy không
biết về đâu và cho mục đích nào. Hay nói theo Schopenhauer,
từng cá thể Việt chỉ là một biến cố từ năng lực vũ
trụ vô cùng và vô thức mù loạn mà hắn không chủ động hay
kiểm soát được. Nó giống như là những thể hiện trên
vầng trán và lông mày của thanh thiếu niên Việt Nam: Tình cảm
thì chưa khuấy động mà nét nhăn nhó đã viết lên đầy khuôn
mặt. Chúng ta chưa dấu được cảm xúc để xây đắp một
hình dáng nhân cách và ngoại hình thanh thản, trầm tĩnh. Bao
nhiêu năng lực nội tại đã biến thành những nét mực tràn
màu sắc viết nhoè lên trên khung cửa hẹp của những linh hồn
chân chất. Và khi nét mực đã phai theo nhiệt độ của cảm
xúc, tâm hồn của họ đã không còn điện lực nhằm thắp
sáng suy tư. Sự phí phạm kinh hoàng của lịch sử Việt Nam
bắt đầu bằng sự phung phí năng lực theo những làn sóng tình
cảm quá nhiệt thành ở nơi từng cá thể khi đối diện với
đời thường.

Từ 1926, Malraux, qua Ling và A. D., đã tiên đoán rằng Trung Hoa
rồi sẽ chết khi Khổng giáo không còn là nội dung chính cho
văn hóa Tàu. "Trung Hoa đang lay lất như là một lâu đài cổ
đại lớn đang sắp bị sụp đổ, và niềm bi phẩn của nó
không phải có từ sự bất định hay mâu thuẫn, mà là từ
gánh nặng của một trần nhà đang rung chuyển." Và Malraux đã
đúng. Hãy nhìn lại gần 100 năm qua, khi đã bị kiệt sức
văn hóa, người Tàu đi vào cơn khủng hoảng tâm thức. Họ
đành mang tình cảm ái quốc để vác về nhà một cơn ác mộng
khác nhằm thay thế cho khoảng trống siêu hình của mình. Đó
là văn minh Tây phương qua hai vế đối nghịch nhưng cùng một
bản chất: Chủ nghĩa Marx và tư bản thuần vật chất. "That's
it, boy. China is dead!" Văn minh Trung Hoa đã chết theo những
giòng sông đầy hóa chất dưới một bầu trời đầy khí
độc. Và đó có thể sẽ là số phận Việt Nam. Tôi sợ
rằng Việt Nam chắc rồi sẽ chết - như là Trung Hoa đã.

"Cám dỗ Việt Nam" nay đã trở nên một ý chí đi tìm tử lộ.
Như Ling đã viết cho A. D. những lời cuối, "Có thể rằng Trung
Hoa (hay Việt Nam) sẽ lại được sáng tạo, tự làm mới lên,
ngay cả khi mà chúng ta không hiểu gì về nó cả. Liệu rằng
nó sẽ bị rung chuyển từ một cơn địa chấn tình cảm còn to
lớn hơn bao lần trong quá khứ? Mạnh mẽ hơn là tiếng thần
chú của những tiên tri thời trước, cái âm thanh huỷ diệt
đầy cuồng nộ đang cuốn hút lấy Á châu … Các nhà buôn
sẽ còn bán, còn mua, và con sông Châu ngọc sẽ phản chiếu ánh
sao mờ trong cái chết yên lành… Ta phải biết nói gì hơn cho
bạn đây?..."

Nguyễn Hữu Liêm
__________

(*) Anh ngữ:
Between Western and Eastern intellect I sense above all a difference of
direction, almost of aim. The former desires to construct a plan of the
universe and give it an intelligible form; that is, to establish between the
unknown and the known a relation capable of bringing to light things which
have been obscure. It wants to subordinate the universe, and find in this
desire a pride that becomes greater the more intellect seems to dominate the
universe. Its cosmos is a coherent myth. The Eastern mind, on the other
hand, gives no value to man himself; it contrives to find, in the flow of the
universe, the thoughts which permit it to break its human bonds. The first
wants to bring the universe to man; the second offers man up to the
universe...(pp. 85-86)



***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20150101/nguyen-huu-liem-cam-do-viet-nam),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét