Hiến pháp đã đi vào lịch sử nhân loại theo nhiều cách thức
khác nhau. Nó đã từng được ban hành bởi một vị vua, được
tuyên bố sau khi một lãnh thổ bị chinh phục, hay được
truyền lại thông qua các lãnh tụ tôn giáo như khi tiên tri Moses
dẫn lại Mười Điều Răn và luật pháp từ lời Chúa Trời
đến người Do Thái. Hoặc hiến pháp cũng từng được làm ra
bởi duy nhất một người, như khi Solon – một luật gia thông
thái thành Athens – đã viết nên bản hiến pháp mới cho công
dân La Mã vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. Có hiến pháp
không ở dạng thành văn mà được tập hợp từ nhiều tập
quán lâu đời và phán quyết của quan tòa, như hệ thống
"thông luật" (common law) của Anh quốc. Hay thông dụng và
gần gũi với chính trị hiện đại hơn cả là cách thức làm
hiến pháp thông qua một nhóm làm việc có chức năng đại
diện.
Dù bằng cách thức lập nên như thế nào, hầu hết các hiến
pháp đều không tồn tại lâu theo thời gian. Gần như toàn bộ
những bản hiến pháp ra đời ở châu Âu sau Chiến tranh thế
giới thứ 1 đều sụp đổ khi Thế chiến thứ 2 kết thúc –
trong chưa đầy một phần tư thế kỷ. Nhiều hiến pháp mới
hơn ra đời ở châu Âu, châu Á và châu Phi sau năm 1945 cũng
không thể trụ vững hoặc thật sự phát huy tác dụng đến
thời điểm hiện tại.
Chính vì vậy mà Hiến pháp Hoa Kỳ vẫn thường được nhắc
đến như một trong những công trình có giá trị và sức ảnh
hưởng lớn trong văn minh nhân loại. Chính thức có hiệu lực
vào năm 1789, Hiến pháp 1787 vẫn tiếp tục là "đạo luật
mẹ" trên đất Mỹ cho đến ngày nay. Tựa như một cây lớn
được nuôi dưỡng bởi những tinh túy hấp thụ từ lòng đất
qua nhiều năm, Hiến pháp Hoa Kỳ bén rễ từ những tinh hoa
được chắt lọc xuyên suốt lịch sử triết học, chính trị,
pháp lý, đạo đức và tập quán xã hội qua nhiều thời kỳ
của nhiều quốc gia. Tiếng Anh Pháp Lý cùng độc giả tìm
hiểu những nguyên tắc nền tảng đã giúp bản Hiến pháp này
đứng vững và có sức sống đến hôm nay.
<div class="boxcenter500"><img
src="http://luatkhoa.org/wp-content/uploads/2014/12/us-constitution-1024x731.jpg"
width="1024"><div class="textholder">Bản gốc của Hiến pháp Mỹ
hiện đang được trưng bày tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia
Hoa Kỳ và được bảo vệ nghiêm ngặt. Ảnh:
beforeitsnews.com</div></div>
<strong>Chủ quyền nhân dân</strong>
Chủ quyền nhân dân <em><strong>(popular sovereignty)</strong> </em>là
nền tảng cho việc hình thành nên Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Ngay
từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 những người lập quốc đã
khẳng định nhà nước chính danh phải là các chính thể
"được lập ra trong nhân dân và tiếp nhận những quyền lực
chính đáng từ sự đồng thuận của nhân dân"
<em><strong>("are instituted among Men, deriving their just powers from the
consent of the governed").</strong></em>
Tiếp nối tinh thần đó, Hiến pháp 1787 một lần nữa trịnh
trọng nhắc lại nguyên tắc chủ quyền nhân dân trong Lời mở
đầu <strong><em>(Preamble</em><em>)</em></strong>: "Chúng tôi, nhân
dân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ… quyết định xây dựng Hiến
pháp này cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ" <em><strong>("We the people
of the United States… do ordain and establish this Constitution for the
United States of America").</strong></em>
Đi sâu hơn vào Hiến pháp Mỹ, nguyên tắc chủ quyền nhân dân
biểu hiện ở Điều VII <em><strong>(Article VII)</strong></em> với
quy định phải có ít nhất 9 tiểu bang thông qua dự thảo Hiến
pháp để nó trở thành luật tối cao trên toàn lãnh thổ. Cũng
vì quy định này mà James Madison cùng những người ủng hộ
thể chế Liên bang, the Federalists, đã phải mất gần 1 năm vận
động và thuyết phục những người còn hoài nghi hoặc chống
đối <em><strong>(anti-Federalists)</strong></em> trước khi New
Hampshire trở thành bang thứ 9 phê chuẩn dự thảo Hiến pháp
vào ngày 21/6/1788.
Nguyên tắc chủ quyền nhân dân cũng được thể hiện tại
Điều V khi quy định Hiến pháp chỉ được sửa đổi, bổ sung
thông qua các dân biểu đại diện. Cụ thể, đề xuất sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp <em><strong>(proposed amendment)</strong></em>
chỉ được chấp thuận sau khi có hai phần ba số phiếu ủng
hộ ở mỗi viện của Quốc hội hoặc tại một hội nghị
sửa đổi hiến pháp <strong><em>(</em><em>constitutional
convention)</em></strong> do Quốc hội tổ chức. Ở mức độ đòi
hỏi cao hơn, đề xuất sửa đổi chỉ được thông qua để
trở thành tu chính án <em><strong>(amendment)</strong></em> khi có
được sự chấp thuận của nghị viện cấp tiểu bang tại ba
phần tư trên tổng số bang toàn nước Mỹ, hoặc chấp thuận
của các hội nghị sửa đổi hiến pháp tổ chức tại ba phần
tư trên tổng số các tiểu bang.
Cuối cùng, popular sovereignty được tìm thấy trong quy định
Quốc hội <em><strong>(Congress)</strong></em> phải được người
dân bầu lên trực tiếp, cụ thể ở Điều I liên quan đến
Hạ viện <em><strong>(House of Representatives)</strong></em> và Tu
chính án thứ 17 sửa đổi cách thức bầu cử Thượng nghị sĩ
<em><strong>(Senator)</strong></em> từ hình thức gián tiếp thông qua
nghị viện bang sang bầu cử trực tiếp bởi cử tri.
Qua Tuyên ngôn Độc lập 1776 và Hiến pháp 1787, Hoa Kỳ là
quốc gia tiên phong cho việc lấy chủ quyền toàn dân là nền
tảng hình thành đất nước cũng như xây dựng nhà nước. Ban
đầu là một hiện tượng lạ trong bức tranh chính trị thế
giới cuối thế kỷ 18, giờ đây nguyên tắc này đã trở thành
tiêu chuẩn toàn cầu khi xem xét tính chính danh của các chính
thể. Không một quốc gia nào được xem là dân chủ mặc cho
những lời tuyên bố ra sao nếu như hiến pháp của nó không ghi
nhận chủ quyền nhân dân hoặc nguyên tắc này không được
cụ thể hóa qua các chế định và hiện thực hóa trong sinh
hoạt chính trị.
<strong>Phân quyền – Kiểm soát và Đối trọng </strong>
Một trong những "tử huyệt" của Hiến chương Liên hợp
bang <em><strong>(Articles of Confederation)</strong></em> nằm ở chỗ
nó không trao cho nhà nước Liên hợp bang quyền hạn tách bạch
lẫn tính cưỡng chế cần có ở một bộ máy trung ương. Quốc
hội là cơ quan duy nhất của nhà nước Liên hợp bang, với
những thẩm quyền có được, cơ quan này hầu hết đều chia
sẻ cùng chính quyền các tiểu bang. Do mỗi bang có chủ quyền
độc lập nên Quốc hội không thể áp đặt ý chí lên chính
quyền bang khi có sự xung đột thẩm quyền.
Hiến pháp 1787 – Hiến pháp hiện hành của Hoa Kỳ – đã
khắc phục hạn chế này bằng cách kiến tạo một nhà nước
trung ương sở hữu quyền lực tối cao. Đồng thời, để khắc
phục xu hướng lạm quyền và tha hóa khi mọi quyền lực tập
trung <em><strong>(concentration of powers)</strong></em> vào một thực
thể từ những bài học trong quá khứ, Hiến pháp 1787 chia nhà
nước trung ương thành 3
bộ phận gồm Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Ba cơ quan này
đại diện cho ba nhánh quyền lực nhà nước với thẩm quyền
tuyệt đối trên toàn lãnh thổ quốc gia nhưng chỉ trong phạm
vi ứng với chức năng của chúng. Từ nguyên tắc Phân
quyền<em><strong> (Separation of powers)</strong></em>, Hiến pháp Hoa
Kỳ đặt Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp ở địa vị pháp lý
lẫn chính trị ngang bằng và độc lập.
Cụ thể, Điều I Hiến pháp tạo ra nhánh lập pháp
<em><strong>(legislative branch)</strong></em> với chức năng làm luật
<em><strong>(law-making)</strong></em> có hiệu lực trên toàn nước
Mỹ. Điều II trao cho nhánh hành pháp <em><strong>(executive
branch)</strong></em> trách nhiệm bảo vệ và phục vụ xã hội
dựa trên thẩm quyền thực thi luật pháp<em><strong> (law
enforcement)</strong></em>. Điều III quy định chức năng giải
thích luật<em><strong> (interpretation of laws)</strong></em> thuộc về
nhánh tư pháp <em><strong>(judicial branch)</strong></em>; đồng thời
xuất phát từ truyền thống án lệ <em><strong>(case
law)</strong></em> thừa hưởng từ Anh Quốc, tòa án cũng có
quyền làm luật thông qua các phán quyết trong những vụ việc
mà luật ban hành bởi Quốc hội không quy định rõ ràng hoặc
chưa điều chỉnh.
Tuy nhiên, việc chuyên môn hóa công quyền và phân chia trách
nhiệm đối với cơ quan nhà nước chỉ là một nửa của
nguyên tắc Phân quyền. Khi trao cho ba nhánh lập pháp, hành pháp,
tư pháp địa vị ngang bằng và độc lập, mục đích của
những bậc tiền nhân đã viết nên Hiến pháp Mỹ nhằm đảm
bảo mỗi trong các cơ quan có đủ năng lực để thực hiện
quyền kiểm soát hoạt động của hai cơ quan còn lại, qua đó
hạn chế quyền lực của chúng, tránh tình trạng tập trung
quyền lực vào một cơ quan. Đây là cơ chế Kiềm soát và
Đối trọng <em><strong>(checks and balances)</strong></em>, hạt nhân
của nguyên tắc Phân quyền.
Hơn 2 thế kỷ qua hệ thống tam quyền phân lập trong bộ máy
nhà nước Mỹ đã hoạt động hiệu quả và ổn định. Dẫu
vậy, từ năm 1789 đến nay cũng đã có không ít câu hỏi nảy
sinh liên quan đến vấn đề ranh giới thẩm quyền khi Hiến
pháp không nói rõ. Chẳng hạn:
- Điều II quy định Tổng thống có quyền "đề cử và bổ
nhiệm các công chức chính phủ theo sự tham vấn và đồng
thuận đa số của Thượng viện <em><strong>(advice and consent of
the Senate)</strong></em>". Tuy nhiên Hiến pháp không trao quyền
cách chức các vị trí này cho Tổng thống. Như vậy Tổng
thống có quyền cho thôi đảm nhiệm chức vụ đối với một
viên chức hành pháp mà không qua "sự tham vấn và đồng
thuận" của Thượng viện hay không?
- Điều III quy định tòa án liên bang có quyền xét xử vụ
việc thuộc phạm vi điều chỉnh của luật liên bang. Tuy nhiên,
Hiến pháp lại không nêu cụ thể liệu các tòa này có quyền
tuyên hủy bỏ một đạo luật liên bang trong trường hợp nó
xung đột với quy định của Hiến pháp. Vậy điều đó có
nghĩa tòa liên bang không có quyền giám sát tư pháp<em><strong>
(judicial review)</strong></em>?
Các ví dụ trên chỉ là hai trong những khoảng trống trong
Hiến pháp Mỹ, mà kết cuộc đã dẫn đến các tranh chấp pháp
lý ở tòa án. Và đó cũng là lúc chức năng làm luật bằng
các án lệ của nhánh Tư pháp phát huy tác dụng. Ở thí dụ
thứ nhất, qua hai bản án Humprhey's Executor v. United States (1935)
và Morrison v. Olson (1988), Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ
<em><strong>(U.S Supreme Court)</strong></em> đã xác định quyền sa
thải các viên chức có bản chất công việc thuần hành pháp
thuộc về Tổng thống, còn với các chức vụ mang một phần
chức năng lập pháp <em><strong>(quasi-legislative)</strong> </em>hoặc
một phần chức năng tư pháp
<em><strong>(quasi-judicial)</strong></em>, quyền sa thải thuộc về
Quốc hội theo các điều kiện luật định. Ở thí dụ thứ
hai, tuy quyền giám sát tư pháp không được nhắc đến trong
Hiến pháp 1787 nhưng vào năm 1803, Tối cao Pháp viện đã chính
thức xác lập thẩm quyền trên cho tất cả các tòa thuộc hệ
thống tòa án liên bang trong bản án mang tính lịch sử Marbury v.
Madison; đồng thời qua phán quyết trong vụ United States v. Butler
(1963), một định nghĩa chi tiết cho quyền giám sát tư pháp
cũng được bổ sung bởi Tối cao Pháp viện.
Như vậy, có thể thấy thông qua việc thực hiện chức năng
giải thích luật được Hiến pháp trao, trong hoạt động xét
xử, nhánh Tư pháp thuộc nhà nước liên bang Hoa Kỳ còn đóng
vai trò bổ sung và hoàn thiện cho Hiến pháp nước này. Hay nói
cách khác, các phán quyết của Tối cao Pháp viện về các vấn
đề thuộc Hiến pháp cũng trở thành một phần Hiến pháp.
_________________
<em>(Bài viết được tham khảo từ trang annenbergclassroom.org và
bài viết ""Mô hình giám sát chính quyền bằng tư pháp ở
Mỹ" của tác giả Đặng Minh Tuấn, lược dịch từ cuốn
"Constitutional Law for a Changing America: Institutional Powers and
Constraints" (2001) của Lee Epstein & Thomas J. Walker)</em>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141218/truong-tu-minh-5-nguyen-tac-nen-tang-lam-nen-hien-phap-hoa-ky-phan-1),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét