Nguyễn Thế Duyên - Thoát trung hay thoát cái bóng của chính mình?

<blockquote><strong>Vài lời mở đầu</strong>

Tôi biết khi bài này được đưa lên tôi sẽ bị ném đá tơi
bời. Cũng đúng thôi! Khi mà cả dân tộc đang bừng bừng tức
giận, tâm lý bài trung đang dâng lên đến cực điểm vì cái
dàn khoan 981 đang khoan thẳng vào cái ý chí tự tôn của cả
dân tộc mà một tiếng nói lạc điệu cất lên thì quả là
một điều nguy hiểm. Vì vây tôi phải đợi cho đến tận bây
giờ khi cái không khí bài trung đang có phần lắng dịu mới
dám đăng bài viết này mặc dù bài viết được viết trong
thời điểm phong trào "Thoát Trung" đang ở đỉnh điểm của
nó. Tuy vậy, tôi biết, sẽ vẫn có những phản ứng gay gắt
nhưng xin mọi người hãy bình tĩnh và suy nghĩ những điều tôi
đã từng nung nấu và cùng nhau mạn đàm một cách bình tĩnh,
không thiên kiến để chúng ta có thể rút ra được những bài
học bổ ích cho chính chúng ta.

Xin chân thành cám ơn tất cả mọi người đã đọc.

<strong>Nguyễn Thế Duyên</strong></blockquote>


Khi Trung Quốc mang dàn khoan Hải Dương 981 ngang nhiên khoan
thẳng vào lòng tự tôn dân tộc của chúng ta thì một phong
trào "Thoát Trung" đã được những trí thức Việt phát
động. Một tâm lý bầy đàn nở rộ và chúng ta kêu gọi thoát
trung ở mọi lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa thậm chí
đến cả tiêu dùng người ta cũng kêu gọi "Thoát Trung".

Nhưng nếu bình tĩnh, chúng ta tự đặt ra câu hỏi "Sao lại
là thoát trung?" Đúng là từ chính trị, văn hóa, kinh tế,
đến tiêu dùng đâu đâu chúng ta cũng thấy bóng dáng của Trung
Quốc nhưng thử hỏi:

Về chính trị: Có phải Trung Quốc chạy sang bắt chúng ta
phải theo con đường xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc? Câu
trả lời là không phải. Chính đảng Cộng Sản Việt Nam tự
chọn con đường này.

Về kinh tế: Có phải Trung Quốc bắt ta phải mua thiết bị,
máy móc của Trung Quốc nếu không họ sẽ đánh hay cấm vận
chúng ta? Câu trả lời cũng là không phải. Chúng ta tự nguyện
mua hàng hóa, máy móc của họ.

- Về văn hóa: Có phải Trung Quốc bắt ta phải chiếu những
bộ phim của họ sản xuất hay phải dịch những cuốn tiểu
thuyết, những bộ dã sử của họ? Câu trả lời vẫn là không
phải.

Họ chẳng cưỡng ép gì chúng ta cả. Tất cả đều là chúng
ta tự nguyện vậy thì chúng ta cần phải "Thoát Trung" hay
cần thoát khỏi "Cái bóng" Của chính chúng ta?

Đâu mới là cái gốc của vấn đề?

Mỗi một dân tộc do đặc điểm địa lý, đặc thù lịch
sử, nó tạo ra một tập quán sinh hoạt. Chính từ tập quán
sinh hoạt ấy nó lại tạo thành một hình thái văn hóa và rồi
chính cái hình thái văn hóa này nó lại tạo ra một hình thái
ý thức của riêng dân tộc đó.

Các nước phươg tây đi theo hướng "<span
class="underlined-text">Duy Lý</span>". Cái duy lý luôn đặt ra cho
giới trí thức của họ một câu hỏi "Tại sao?" Và vì đi
trả lời cho câu hỏi "Tại sao" ấy mà nền khoa học và
công nghệ của các nước phương tây phát triển một cách nhanh
chóng. Hệ quả tất yếu của nó là nền triết học của họ
trở nên sáng sủa mạch lạc, ý thức dân chủ cũng vì thế mà
bén rễ rất sớm trong các nước phươg tây

Ngược lại, các nước phương Đông lại đi theo hướng
"<span class="underlined-text">Duy Tâm</span>" (Từ duy tâm tôi dùng
ở đây không theo cái nghĩa thông thường mà ta vẫn hiểu).
Hướng duy tâm không nhằm trả lời câu hỏi tại sao mà lại
đi trả lời câu hỏi "Như thế nào". Như vũ trụ được
hình thành như thế nào. Chính để trả lời câu hỏi đó mà
thuyết âm dương và ngũ hành đã ra đời.

Hệ quả tất yếu của cai hướng "Duy tâm" là hệ thống
triết học phươg đông rối rắm, phức tạp không chặt chẽ
kéo theo hệ thống tư tưởng cũng phức tạp nhưng nó lại làm
cho nền văn hóa trở nên đa dạng chính nhờ sự rối rắm đó.
Tư tưởng dân chủ trong xã hội bị kìm hãm.

Chúng ta không ngạc nhiên khi mà mặc dù nền văn minh phương
Đông đã có từ rất sớm. Những thành tựu kĩ thuật như
đúc, làm giấy, thuốc súng được phát minh rất sớm ở
phương đông, nhưng rồi rất nhanh chóng, nền văn minh phươg
tây đã bỏ xa những nước phương đông.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta chẳng giống ai, một mình một
hướng Chúng ta theo hướng "Duy ngã".

Có lẽ do đặc điểm về địa lý đã dẫn chúng ta đi theo
hướng này. Địa hình nước ta không đồng nhất, bị chia cắt
bởi nhiều sông suối, đầm lầy đan xen lại mưa nhiều. Địa
hình đồng nhất là điều cực kì quan trọng vì chỉ cần một
loại phương tiện giao thông là con người có thể đi lại
khắp mọi nơi. Chúng ta thì không vậy, chỉ cần đi vài chục
cây số thậm chí là không đến chúng ta đã phải thay đổi
phương tiện. Chính vì vậy nền văn hóa của chúng ta là một
nền văn hóa làng xã khép kín. Làng xã của chúng ta lại rất
nhỏ bé. Mỗi làng, thôn chỉ độ dăm chục nóc nhà đông nhất
là đơn vị hàng trăm, tôi cho rằng có lẽ làng, thôn chúng ta
ngày xưa không có làng nào có đến đơn vị nghìn nóc nhà..

Địa hình bị chia cắt, nên nền nông nghiệp của chúng ta
không thể trở thành một nền sản xuất hàng hóa mà chỉ là
một nền sản xuất nhỏ, manh mún theo kiểu tự cung, tự cấp
và hệ quả của nó là thươg mại của nước ta gần như không
có. Điều đó lại dẫn đến một hệ quả cực kì xấu, làm
cho sự chia cắt, cô lập càng tăng lên do là giao thông không
phát triển. Đường xá được hình thành chủ yếu do nhu cầu
của thươg mại. Không có thươg mại nên giao thông không phát
triển kéo theo những đô thị lớn không thể hình thành. Đến
tận thế kỉ thứ XVI mà nước ta mới chỉ duy nhất có kẻ
sặt và kinh thành Thăng Long. Còn Hội An thì mãi tận sau này khi
chúa Nguyễn vào khai phá miền nam nó mới được hình thành.

Đô thị có tính quyết định cho việc phát triển kinh tế,
văn hóa và học thuật. Đó là nơi của cải được tích tụ
lại với số lượng lớn. Điều đó sẽ ảnh hưởng lớn
đến kiến trúc. Nó cho ta hiểu tại sao các công trình kiến
trúc của chúng ta nhỏ bé và không tinh xảo. Sẽ chẳng làm
được điều gì khi không có tiền. Đô thị còn là nơi hội
tụ giới tinh hoa của một dân tộc. Tại đó họ có điều
kiện để trao đổi, nghiên cứu. Sự trao đổi giữa các bậc
trí giả làm kiến thức tích luỹ tăng theo cấp số chứ không
tăng theo một phép cộngđơn thuầnnhư khi giớ trí thức bị xé
lẻ. Thiếu vắng các đô thị lớn, giớ trí thức của chúng ta
mất đi điều kiện cần của sáng tạo

Cũng vì điều đó mà giới trí thức Việt Nam cũng bị xé
nhỏ mỗi người có một góc trời riêng của mình. Sự giao lưu
về học thuật gần như không tồn tại. Tất cả những điều
kể trên làm nảy sinh tư tưởng "Duy ngã" trong người Việt.
Tình trạng cát cứ cả trong chính trị lẫn trong văn hóa làm
cho chính quyền trung ương không thật sự mạnh. Nên nhớ ngay
tại thời Trần, có lẽ là thời huy hoàng nhất trong lịch sử,
quân đội vẫn gồm những đạo quân của các hương binh
được các chủ đất chiêu mộ. Mạn Đà Bắc nằm trong tay các
tù trưởng của các dân tộc thiểu số và nhà vua phải gả
cả con gái mình cho những tù trưởng ấy để cầu thân, mua
chuộc.

Hình như ở Việt Nam không có một làng nào có đến hai ông
đồ cùng một lúc chứ đừng nói đến có hai ông tiến sỹ.
và thế là cái tư tưởng "Duy ngã độc tôn" cứ bén rễ,
ăn sâu vào trong não trạng của người Việt chúng ta.

Có một câu chuyện kể rằng: Một hôm Ngọc Hoàng đang ngồi
đánh cờ thì nghe thấy tiếng ầm ỹ ở cửa Thiên môn bền sai
Thiên Lôi ra xem có chuyện gì. Thiên Lôi đi một lúc rồi về
bẩm với Ngọc Hoàng.

- Có một bọn người trần kéo nhau lên thiên đình để kiện.

Ngọc Hoàng liền hỏi:

- Bọn ấy là người nước nào?

- Bẩm Ngọc Hoàng đó là bọn người Việt Nam.

- Thế thì cứ kệ chúng nó. Chỉ một lúc nữa là bọn chúng
nó sẽ tự tan.

Nói rồi cứ điềm nhiên ngồi đánh cờ như không có việc gì
xảy ra. Quả nhiên chỉ một lúc sau tiếng ầm ỹ ở bên ngoài
thiên môn lặng hẳn. Ngạc nhiên, Thiên Lôi bèn hỏi Ngọc
Hoàng.

- Bẩm Ngọc Hoàng sao người lại biết bọn chúng sẽ tự tan?

Ngọc Hoàng vuốt râu cười trả lời:

- Bọn người Việt chẳng thằng nào phục thằng nào. Thằng
nào cũng coi mình là nhất thì làm sao có thể chọn ra được
thằng thủ lĩnh. Rắn mà không có đầu thì làm được chuyện
gì.

Tất nhiên đây chỉ là một câu chuyện tiếu lâm nhưng nó đã
phản ánh được rất rõ đặc điểm nổi bật của người
Việt chúng ta. Cứ nhìn vào hội nhà báo độc lập thì rõ,
mới ra đời chưa được hai tháng mà nội bộ đã lục đục.

Một hệ quả tất yếu của tư tưởng "Duy ngã" ấy là lớp
trí thức người Việt hình như ai cũng mắc bệnh "Chê" và
gần đây nó biến tướng thành bệnh "Chửi". Chê tuốt,
chửi tuốt. Sự phủ định người khác chính là sự khẳng
định chính mình. Khẳng định cái "Duy ngã" của mình. Thực
ra, sự phê phán, tranh luận đúng sai là một điều bình
thường trong học thuật cần phải khuyến khích. Nhưng giới
trí thức Việt thì khác. Với họ, không phải là trao đổi mà
là phủ nhận. Trong một bài viết được đưa ra có những ý
đúng và cũng có những ý chưa đúng. Những ý kiến đúng chúng
ta cần công nhận và nhưng ý chưa đúng chúng ta cần tranh
biện, trao đổi với một lời lẽ ôn tồn, một lập luận
chắn chắn.

Nhưng không! Họ phủ nhận tuốt và chửi với những lời lẽ
rất vô văn hóa.

Thời Đường, thơ, ai hơn đuộc Lý Bạch? Thôi Hạo có là gì
so với Lý Bạch? Nên nhớ nếu xếp mười nhà thơ Đường nổi
tiếng nhất sẽ không có Thôi Hạo. Thế nhưng khi đọc Hoàng
hạc lâu của Thôi Hạo Lý bạch đã thốt lên:

<strong>Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc,</strong>

<strong>Thôi-Hạo đề thi tại thượng đầu.</strong>

(Trước mắt có cảnh nói không được,

Thôi-Hạo đề thơ ở trên đầu).

Hãy chú ý đến ba từ cuối "Tại thượng đầu" chứ không
phải là "Tại thượng lầu".

Cái "Duy ngã" làm cho giới trí thức việt là những người
kiêu ngạo nhất thế giới và bạc nhược cũng nhất thế
giới. Họ bạc nhược vì chính họ cũng không tin những điều
họ viết là đúng và họ rất tránh tranh luận vì tranh luận
nếu lòi ra cái sai của mình sẽ làm cho cái "Duy ngã" của
họ bị tổn thương.

<em>Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chỗ xôn xao</em>

Khi bất đắc chí, giới trí thức việt thường tìm con
đường ở ẩn. Cái ở ẩn của trí thức Việt nó lại không
nằm trong cái nghĩa « Vô vi » siêu thoát của đạo giáo mà
chính là thể hiện một sự đầu hàng bạc nhược. Chúng ta
cần nhắc đến Trương Nghi khi há mồm ra hỏi vợ. « Lưỡi
của ta có còn không? » Hoặc phải nhớ đến Khổng tử đi
khắp nơi để truyền bá học thuyết của mình dù cho cả đời
ông không được trọng dụng. Phải có được niềm tin sắt
đá vào điều mình đã nghĩ ra thì họ mới có được cái dũng
khí như vậy. Sự bạc nhược của giớ trí thức việt cội
nguồn của nó nằm trong chính cái: « Duy ngã » Của chính họ.

Nhân nhắc đến khổng tử, tôi muốn kể với mọi người
cuộc gặp gỡ giữa Khổng tử và Lão tử. Hai bậc hiền nhân
này ngược nhau như nước với lửa. Một người chủ trương
cai trị đất nước bằng những phép tắc (Lễ) ngược lại
người kia lại chủ trương loại bỏ những phép tắc mà thuận
theo tự nhiên (Đạo). Thế nhưng sau cuộc gặp, Khổng tử bảo
với môn sinh rằng:

Loài chim ta biết nó bay được, loài cá ta biết nó lội
được, loài thú ta biết nó chạy được. Chạy thì ta dùng
lưới để bẫy, lội thì ta dùng câu để bắt, bay thì ta dùng
tên để bắn. Còn loài rồng cưỡi gió mây ở trên trời thì
ta không sao biết được. Nay ta đã được gặp Lão Tử – ông
ấy như con rồng vậy.

Các bạn thấy đấy! Họ không phủ nhận nhau, không những
thế họ còn rất tôn trọng nhau mặc dù họ không công nhận
nhau.

Các nhà nghiên cứu thường dung cụm từ tâm lý "Tiểu nông
,lúa nước" để lý giải về những cái chậm phát triển
của chúng ta nhưng họ không chỉ ra cái gì là gốc rễ dẫn
đến điều đó. Tôi cho rằng gốc rễ nằm ở cái tâm lý
"Duy ngã". Làm mình nổi bật trước com mắt của một vài
chục hộ gia đình là điều khá dễ dàng. Làm mình nổi bất
trước con mắt của hàng trăm hộ gia đình thì khó hơn rất
nhiều nhưng cũng vẫn có thể làm được nhưng làm mình nổi
bật trước hàng nghìn hoặc vài nghìn hộ gia đình thì là
điều không thể. Chính vì vậy mà người Việt luôn có tâm lý
"Đầu gà còn hơn đươi voi" Mà thậm chí tôi thấy không
phải là đầu gà nữa mà chỉ cần là đầu con kiến. Cái tâm
lý này ảnh hưởng nặng nề đến những người lãnh đạo
đất nước. Người ta không bao giờ sử dụng người tài giỏi
hơn mình.

Người Việt ta không thiếu người tài. Ngay từ năm 1967 Kim
Ngọc đã đưa ra mô hình khoán 10, nghĩa là trước cải cách
"Mèo trắng, mèo đen" của Đặng Tiểu Bình một chục năm,
nhưng ông đã bị ban lãnh đạo đảng vô hiệu hóa. Kim ngọc
không sai nhưng cái "Duy ngã" của ba lãnh đạo đảng lại
đúng để rồi hai mươi năm sau chúng ta lại bê nguyên cái
điều Kim ngọc đề ra ấy từ Trung Quốc về áp dụng tại
việt nam.

Cũng cần phải kể ra đây một câu chuyện khác đã được
đăng trên báo chí chính thống. Một giáo sư, tiến sỹ y khoa
từ mỹ nghỉ hưu về việt nam làm từ thiện (nghĩa là không
nhận lươg) nhưng không một bệnh viện nào ở việt nam tiếp
nhận.

Đến đây lại cần phải kể lại câu chuyện của Hàn Tín.

Khi Hàn Tín bị bắt, Hán Cao Tổ hỏi Hàn Tín

- Như ta có thể cầm được bao nhiêu quân?

Hàn Tín trả lời.

- Bệ hạ cùng lắm chỉ cầm nổi một trăm vạn quân.

- Thế còn ngươi?

Hán Cao Tổ hỏi. Hàn Tín trả lời.

- Hạ thần thì càng nhiều quân càng tốt.

- Thế sao nhà ngươi vẫn bị ta bắt?

- Bệ hạ không có tài cầm quân nhưng lại có tài thống lĩnh
các tướng.

Tôi kể ra mấy mẩu chuyện này là để mọi người có thể
lí giải được tại sao ta với Trung quốc cùng chung một hình
thái xã hội chủ nghĩa. Trung quốc chỉ mở cửa trước ta có
gần một chục năm thế nhưng những thành tựu mà trung quốc
đạt được lại vuột xa chúng ta khoảng ba bốn mươi năm. Vì
giới tinh hoa của Trung Quốc dám dùng người tài hơn mình.

Luôn luôn song hành cùng với cái "Duy ngã" chính là tính háo
danh và sỹ hão của giới tinh hoa người Việt.

Ca dao xưa từng nhạo báng:

<em>Ra đường mũ áo nghênh ngang
Về nhà hỏi vợ cám rang đâu mày? </em>

Thế nhưng người Việt vẫn luôn:

<em>"Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp" </em>

Cái bệnh sỹ hão ấy khiến cho giớ tinh hoa Việt có xu hướng
khép kín không muốn trao đổi về mặt học thuật mà ta biết
rằng tri thức là một sự kế thừa và tiếp nối liên tục
từ người này sang người khác, từ đời này sang đời khác
chính điều đó làm cho tri thức việt là những mảng rời rạc
với một cái tầm 'Lùn tịt". Thử kiểm điểm lại trong
nền văn hóa và minh triết của chúng ta, chúng ta đã sang tạo
nên cái gì có tiếng tăm? Câu trả lời là không có gì. Tất
cả chúng ta đều bê ở bên ngoài mang về xào xáo thêm dấm
thêm ớt rồi còn có khi nhận xằng đó là của chúng ta. Một
hình thức tự sướng. Thế nên mới có cái chuyện ngược
đời mấy ông tiến sỹ giáo sư chỉ ngồi phán láo còn làm ra
những máy móc nông nghiệp lại là mấy anh hai lúa không được
học hành.

Những người nêu ra thuyết "Thoát Trung" thường lấy ví
dụ về thời Minh Trị Thiên Hoàng của Nhật Bản để làm một
minh chứng cho luận thuyết của mình. Họ cho rằng cứ thoát
Trung là mọi việc sẽ tốt lên. Điều đó không thực sự là
chính xác.

Chúng ta nên nhớ trước thời Minh Trị, nước Nhật là một
quốc gia phong kiến lạc hậu. Dưới sự thống trị của Mạc
phủ, nước nhật đã bế quan tỏa cảng trong suốt 300 năm.
Dưới áp lực về quân sự của các đế quốc phươg tây mà
đi đầu là Mĩ, Nhật Bản đã bược phải mở cửa tạo điều
kiện cho những thành phần ủng hộ mối quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa trong nước nhật vùng dậy lật đổ Mạc phủ.
Và, mở ra một thời kì mới, thời kì phát triển theo hướng
tư bản chủ nghĩa ra đời. Vậy gốc rễ của vấn đề không
phải vì "Thoát Trung" mà nước Nhật phát triển như ngày
nay. Mà đây là cuộc cách mạng tư bản chủ nghĩa tại Nhật.
Có ba vấn đề lớn chúng ta cần rõ tại thời kì này của
nước Nhật để từ đó nhìn lại phong trào "Thoát Trung"
của chúng ta hiện nay

Một là - Tại thời kì minh trị thiên hoàng toàn bộ ban lãnh
đạo đất nước đã bị thay đổi. Đây là yếu tố quyết
định. Thay đổi hẳn một tư duy chỉ có một cách duy nhất là
thay đổi con người. Nếu còn giữ nguyên ban lãnh đạo cũ thì
sẽ không bao giờ có được những cải cách triệt để mà
chỉ là những cái cách nhỏ giọt nhằm xoa dịu đi những bức
xúc của quần chúng hơn là sự nhận thức ra vấn đề.

Thứ hai — Sau khi Mạc Phủ bị lật đổ vấn đề "Thoát
Trung" không được đặt ra. Minh Trị Thiên Hoàng bản chất là
một cuộc cách mạng tư bản chủ nghĩa vậy hiển nhiên nó
không thể theo Trung Quốc một đất nước đang ở trong giai
đoạn phong kiến (Nhà Thanh)

Thứ ba – Thế giới tại thời kì đó chưa phải là môt thế
giới phẳng phụ thuộc lẫn nhau một cách sâu sắc như bây
giờ

Chúng ta là một nước nhỏ nằm cạnh một người khổng lồ
đầy dã tâm. Mà bất cứ một nước lớn nào (Kể cả Mĩ)
lại có thể để yên cho cái sân sau nhà mình nổi loạn. Ucraina
cũng là một bài học đáng để chúng ta suy ngẫm.

Phải nói rằng người Việt ta không có thói quen dân chủ, nhà
nước cũng vậy, những nhà dân chủ hiện nay cũng vậy và cả
dân chúng của chúng ta cũng vậy. (Nói ra điều này tôi dễ bị
ăn chửi lắm). Nhưng cứ bình tĩnh nhìn lại gia đình mình,
nhìn lại các các nhóm xã hội mà mình đang tham gia (Còn nhà
nước thì khỏi phải nói) mọi người sẽ thấy ngay điều tôi
nói thể hiện rất rõ trong những hành vi nho nhỏ mà chúng ta
ứng xử hàng ngày.

Tuy vậy, ý thức dân chủ đang nổi lên một cách mạnh mẽ
trong xã hội nhưng để đạt được một xã hội dân chủ
thực sự thì nó còn cần thời gian.

Phải nói rằng không bao giờ có được một nhà nước dân
chủ trong một xã hội không có thói quen dân chủ. Nếu có thì
cái dân chủ ấy chỉ là một cái bánh vẽ. Và ngược lại
trong một xã hội có thói quen dân chủ thì không có một nhà
nước độc tài nào có thể tồn tại. Vậy nên song song với
cái đòi hỏi dân chủ, chính chúng ta phải tự cải tạo chính
mình.

Không phải là "Thoát Trung" hay không "Thoát Trung" mà
phải thoát chính cái bóng của mình

Vậy nên chúng ta cần tỉnh táo. Yêu nước bằng một trái tim
bỏng cháy nhưng lại phải bằng một cái đầu lạnh lùng.
Đừng để tình cảm che mờ lý trí.

Nên chăng chúng ta chỉ nên đòi hỏi ở nhà nước những
điều có thể còn những điều chúng ta biết chắc là chưa
thể thì ta nên chờ đợi.

Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh nhưng chân lý thuộc về thời
gian. Không nên tự mình làm suy yếu chính mình.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140924/nguyen-the-duyen-thoat-trung-hay-thoat-cai-bong-cua-chinh-minh),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét