The New York Times phỏng vấn Lyle J. Goldstein: Thực Lực Quân Sự Của Trung Quốc Và Việt Nam

<center><img src="https://www.danluan.org/files/u1/sub03/thuclucquansu.jpg"
width="592" height="389" alt="thuclucquansu.jpg" /></center>

<center><em>Photo: Credit Agence France-Presse — Getty Images</em></center>

Khi bất đồng giữa Trung Quốc và Việt Nam về biển Đông
[nguyên văn: biển Hoa Nam] gia tăng, một vấn đề quan trọng là
quân lực Việt Nam đã nổi danh từ nhiều thập niên trước
đây về sự kiên cường và về binh pháp du kích, nay đã đạt
đến chuẩn mực nào. Trong hai tháng vừa qua, các chiến hạm
của hai Lực Lượng Hải Giám Hoa Việt đã tranh dành nhau về
một giàn khoang dầu tiền tỷ của Trung Quốc mà Việt Nam cho
là Trung Quốc đơn phương áp đặt trên lãnh hải của mình.
(Trung Quốc nói đây thuộc về lãnh hải của Trung Quốc). Các
chiến hạm của hai nước gầm gừ nhau trong khoảng cách, và
đôi khi Trung Quốc gởi các chiến đấu cơ thuộc không lực
đến gần giàn khoang để phô trương bảo vệ cơ sở.

Giáo Sư Lyle J. Goldstein, China Maritime Studies Institute thuộc Naval
War College tại Rhode Island là người có thẩm quyền chuyên môn
để khảo sát khả năng quân sự của Trung Quốc và Việt Nam.
Hai quân đội đã hợp tác nhau tại Việt Nam để đánh đổ
Pháp trong thập niên 1950 và đánh bại Mỹ trong chiến tranh
Việt Nam. Năm 1979, Trung Quốc xâm lăng Việt Nam mà Đặng Tiểu
Bình nói là để dạy cho Việt Nam một bài học về việc xâm
chiếm Kampuchia, và Trung Quốc triệt thoái trong không hơn một
tháng với tổn thất nặng nề. Kinh nghiệm nhục nhã này thúc
đẩy Trung Quốc bắt đầu hiện đại hoá các lực lượng vũ
trang của mình.

Giáo sư Goldstein thông thạo Hoa ngữ và Nga ngữ. Ông tốt
nghiệp trường John Hopkins School of International Studies về ngành
Nghiên Cưú Chiến Lược với học vị M. A. Trong thời gian làm
luận án tiến sĩ tại Princeton, ông chuyên khảo cứu về Trung
Quốc và có theo học tại Beijing City College. Ông gia nhập Naval
War College vào năm 2001 và giúp thành lập China Maritime Studies
Institute vào năm 2006 mà ông là Giám Đốc đầu tiên cho đến
năm 2011. Học viện này thành lập để chuyên khảo cứu cho
Hải Quân Hoa Kỳ về sự lớn mạnh của Hải Quân Trung Quốc.
Năm 2012 Giáo sư Goldstein, một nhà nghiên cứu say mê các các
tạp chí quân sự của Trung Quốc, làm việc cho đề án "Research
on Chinese Military Assessments of Selected East Asian Regional Powers". Ông
nhận ra rằng Trung Quốc coi thường Hải Quân Việt Nam nhưng
lại nể trọng đặc biệt đối với Không Lực Việt Nam. (Janes
Perley)


<center>* * *</center>

<strong>Hỏi:</strong> Việt Nam dường như muốn tìm một đường
lối để duy trì mức độ độc lập với Trung Quốc và Hoa
Kỳ. Việc này xảy ra như thế nào trong lĩnh vực quân sự?

<strong>Đáp:</strong> Việt Nam là một đất nước có truyền
thông mạnh về quân sự. Hiển nhiên, chính sách ngoại giao
đương đại và chiến lược quân sự bị ảnh hưởng nặng
nề bởi lịch sử hiện đại của Việt Nam như là "kẻ sát
nhân khổng lồ". Việt Nam thành công trong việc loại thực dân
Pháp trong những năm 1950, rồi đánh bại Mỹ (1965-73) và cuối
cùng quyết liệt với Trung Quốc trong chiến tranh biên giới
ngắn ngủi nhưng đẩm máu (1979). Lịch sử dường như đã làm
thấm nhuần Việt Nam với niềm tin phát triển một đường
lối độc lập hơn là chính sách ngoại giao. Việc này dường
như thúc đẩy Việt Nam đầu tư nặng nề về quốc phòng -
chuyển hướng chủ yếu về người đối tác truyền thống là
Liên Xô trong nỗ lực này. Không giống như một vài nước khác
của Đông Nan Á (thí dụ như Phi Luật Tân) Việt Nam không có
khuynh hướng lơ đễnh quốc phòng. Một mặt, chiến lược hứa
hẹn nhất của Việt Nam đối chọi vơí Trung Quốc là hy vọng
rằng Việt Nam có đủ sức ngăn chận, trong khi đồng thời theo
đuổi chính sách ngoại giao để giải quyết các tranh chấp.

<strong>Hỏi:</strong> Ông đã làm nhiều nghiên cưú về việc
người Trung Quốc nhìn như thế nào về Việt Nam và về các
lực lượng vũ trang của Việt Nam. Người Trung Quốc có nể
trọng quân đội Việt Nam không? Họ có còn giữ lại những
kỷ niệm tệ hại trong trận chiến chống Việt Nam vào năm 1979
không? Hiện nay Trung Quốc mạnh hơn nhiều, họ nghĩ gì về
khả năng quốc phòng của Việt Nam?

<strong>Đáp:</strong> Trung Quốc theo dõi rất chặt chẽ về khả
năng quốc phòng của Viêt Nam đang tăng lên. Điều thú vị là
trong một mức độ nào đó cả Bắc Kinh và Hà Nội đã dựa
vào vũ khí của Liên Xô - tàu ngầm, khu trục hạm và hộ tống
hạm, cũng như không lực - nhằm gia tăng nỗ lực hiện đại
hoá quốc phòng. Dường như kinh nghiệm chung này là nguồn tin
giúp cho Trung Quốc nhiều hơn để nhận định tổng quát về
khả năng quân sự của Việt Nam. Điều mỉa mai trong sự kiện
này là cả hai có cùng những loại vũ khí và chiến lược mà
Trung Quốc có thể, về phương diện giả thuyết, điều động
để chống Nhật hoặc Hoa Kỳ trong bất kỳ xung đột vũ trang
nào, thì cũng có thể được Việt Nam dùng để chống Trung
Quốc.

Mặt khác, Trung Quốc cũng hiểu rằng vũ khí nhập từ Liên xô
không nhất thiết là một tình trạng lý tưởng, bởi vì nó có
thể dẫn đến một điều không thể tránh được là có những
lầm lạc trầm trọng và người ta thường thấy ngay cả trong
việc huấn luyện và bảo trì. Tại nạn nghiêm trọng gần đây
tại Ấn Độ, liên hệ đến tàu ngầm chạy bằng dầu Diesel
loại Kilo nhập từ Liên Xô, đã minh chứng những nguy hiểm
liên quan. Về điểm này, so với Trung Quốc, Việt Nam có độc
lập nhiều hơn về vũ khí và khả năng chuyên môn quốc phòng
của Liên Xô. Trung Quốc có thể dựa nhiều hơn về khả năng
quân sự từ bản địa.

Trong khi cuộc chiến 1979 không là một đề tài chủ yếu của
các cuộc thảo luận công khai và nghiên cưú tại Trung Quốc,
thì dường như Trung Quốc kiêng nể đặc biệt Việt Nam về
sự thành thạo chiến đấu toàn diện. Tuy nhiên, những nhà
nghiên cứu quân sự Trung Quốc chỉ ra những yếu kém khác nhau
trong chiến lược phát tirển quân sự của Việt Nam. Họ ghi
nhận đặc biệt nhất là tàu ngầm có thể là một lực ép
chính về nỗ lực của Việt Nam, nhưng các nhà phân tích Trung
Quốc nhận định là Việt Nam thiếu trầm trọng về kinh
nghiệm chủ yếu trong việc điều hành những hệ thống vũ khí
phức tạp không thể tưởng nổi. Một sự yếu kém khả dĩ
khác trong khả năng phòng vệ của Việt Nam mà các nhà phân
tích Trung Quốc xác định được là các vấn đề thuộc về
kiểm tra, xác định mục tiêu và phương cách chiến đấu.
Dường như có một cảm tưởng chung cho là Trung Quốc có thể
chiếm ưu thế trong bất cứ một trận đụng độ có vũ trang
nào, dựa theo điểm mà giới quân sự Trung Quốc tham chiếu
gọi là "mô hình 3.14". Mô hình này được đề cập tới trong
trận đụng độ vào ngày 14.3.1988 tại quần đảo Trường Sa
mà một chiến hạm nhỏ của Hải Quân Trung Quốc nhận chìm
vài tàu chiến của Việt Nam trong một cuộc giao tranh nhỏ nhưng
quyết liệt.

<strong>Hỏi:</strong> Việt Nam đã mua sáu tàu ngầm loại Kilo
của Liên Xô. Tại sao họ chọn loại tàu này? Liệu Việt Nam
sẽ có đoàn thủy thủ đuợc huấn luyện đầy đủ để
điều khiển không? Các tàu này có hoàn toàn phù hợp với nhu
cầu của Việt Nam không?

<strong>Đáp:</strong> Một vài nhà phân tích hải quân đồng ý
là tàu ngầm là một loại tàu chủ yếu cho bất cứ hải quân
hiện đại nào. Trong khi những loại tàu nổi trên mặt càng
dễ bị tổn thương hơn do việc phát hiện từ xa và do trận
đánh chính xác, tàu ngầm hoàn toàn có khả năng sinh tồn bởi
vì việc săn tìm tàu ngầm có những khó khăn cố hữu. Tàu
ngầm có khả năng tác chiến hoàn toàn độc lập, nhưng mang
tới những cú đánh chết nguời với phóng ngư lôi hoặc là
với tên lửa của tuần dương hạm chống chiến hạm (antiship
cruise missile, ASCM).

Loại tàu ngầm Kilo của Liên Xô chạy bằng dầu Diesel là một
mặt hàng xuất khẩu phổ biến khắp thế giới, kể cả cho
hải quân Trung Quốc và Ấn Độ. Theo giới Hải Quân Hoa Kỳ
thì tàu ngầm được coi trọng, vì là một loại vũ khí chống
trả kinh khiếp, không phải bởi vì nó chỉ được ước tính
bằng tín hiệu truyền âm, làm cho việc phát hiện cực kỳ khó
khăn, mà còn bởi vì hiệu năng của các hệ thống vũ khí
được trang bị kết hợp, thí dụ như loại Klub S-ASCM, nó có
tầm bắn đầy ấn tượng, tốc độ nhanh hơn tiếng động và
huy động thiết bị trung ương. Hiển nhiên, những vũ khí này
tăng thêm khả năng quốc phòng của Việt Nam một cách đáng
kể. Sau cùng, từ lâu Việt Nam thể hiện là có khả năng sử
dụng hữu hiệu lực lượng bộ binh, nhưng khả năng về không
quân, đặc biệt vể hải quân còn bị hạn chế, ít nhất là
đến thời điểm này.

Hơn nữa, từ lâu các nhà phân tích hải quân nghiên cứu là
Trung Quốc cực kỳ yếu kém trong binh pháp chống tàu ngầm. Vì
thế mà có thể nói rằng Hà Nội tìm thấy điểm yếu của
Trung Quốc mà họ đang tìm cách tận dụng. Tuy nhiên, phải nói
là hiện nay Hải Quân Trung Quốc ý thức được điểm yếu kém
này còn trong nhiều năm và tận tình nỗ lực trong một trận
tuyến quy mô hơn để cải thiện khả năng binh pháp chống tàu
ngầm, thí dụ như bằng cách họ huy động một số lượng
lớn các loại hộ tống hạm nhỏ, mới và có khả năng trong
hai năm qua.

Như đã ghi nhận bên trên, có nhiều quan ngại chủ yếu trong
khía cạnh huấn luyện và bảo trì liên hệ đến việc mua tàu
ngầm. Điều này có lẽ đúng khi những hệ thống kiểm soát
tác chiến hiện đại cho phép những đoàn thủy thủ tương
đối thiếu kinh nghiệm thành đạt những kết quả chiến đấu
nhất định. Nhưng cũng không thể nghi ngờ rằng điều động
những lực lượng tàu ngầm là phức tạp nhất trong bất cứ
quân lực nào, do đó để xây dựng những lực lượng thực
sự có khả năng và tin cậy dường như không phải tính bằng
một vài năm, mà là nhiều thập niên.

<strong>Hỏi:</strong> Nếu như hiện nay có xung đột quân sự
giữa Trung Quốc và Việt Nam, ai sẽ thắng?

<strong>Đáp:</strong> Trong hầu hết mọi kịch bản có thể nhận
thức được thì Trung Quốc dường như sẽ thắng. Việt Nam đã
có nhiều đầu tư sáng suốt như đã mô tả ở trên và có
thể gây tổn thất cho Hải Quân và Không Quân Trung Quốc. Trung
Quốc hiện đang tham gia vào tiến trình hiện đại hoá cấp
tốc cho quân đội trong hai thập niên và đang gặt hái thành
quả. Trong khi đang chuẩn bị cho những kịch bản xung đột có
thể dính líu với Hoa Kỳ và hoặc với Nhật Bản, Trung Quốc
đã xây dựng những lực lượng được trang bị hoàn chỉnh và
huấn luyện chu đáo. Trong những lĩnh vực còn khó khăn của
tàu ngầm, binh sĩ trên mặt biển và những lực lựơng tấn
công chớp nhoáng, Trung Quốc có thể dựa vào một số ưu thế
đáng kể và có thể cho phép Trung Quốc thắng thế dù phải
chịu tổn thất.

Chắc một điều là có một vài mức độ thi đua quân sự mà
Hà Nội có thể đạt ưu tiên. Thí dụ như Trung Quốc không
hoàn toàn mạnh trong phạm vi tiếp tế nguyên nhiên vật liệu
trên không, để mà Việt Nam có thể đua tài về ưu thế không
quân, đặc biệt nhất là trong những khu vực biển Đông
[nguyên văn: biển Hoa Nam] cách quá xa không phận Trung Quốc. Hơn
nữa, ở trong một tình trạng nghiêm trọng, Hà Nội có thể
nghiên cứu leo thang đụng độ trên biển lan rộng trở thành
xung đột trên mặt đất rộng lớn hơn trong vùng biên giới,
bởi vì các lực lượng bộ binh Việt Nam có thể đối đầu
ngang tầm với các lực luợng bộ binh Trung Quốc. Tuy nhiên, đó
sẽ là bước đi ban đầu nguy hiểm, bởi vì Hà Nội tương
đối gần biên giới Trung Quốc. Hơn thế, Trung Quốc cũng có
khả năng nhất định để dùng cho việc leo thang. Thí dụ, Trung
Quốc có thể làm suy yếu các cuộc không tập, tấn công bằng
tên lửa chống lại các căn cứ hảì quân và không quân Việt
Nam.

Nhìn chung, phải nói rằng tiên đoán kết quả quân sự có
tiếng là khó và thế giới đã không chứng kiến một cuộc
hải chiến hiện đại đích thực kể từ xung đột tại
Falkland năm 1982. Vì thế, phân tích trên đây cần được
nghiệm xét với tất cả sự cẩn trọng

<strong>Hỏi:</strong> Ted Osius, vị đại sứ kế nhiệm tại Việt
Nam đang chờ Thượng viện chuẩn nhận. Ông trình bày tại
buổi điều trần là hiện nay có thể là thời điểm cho phép
Hoa Kỳ giải toả các cấm vận vũ khí. Liệu nói "cho phép có
thể" là lịch sự quá không, và thực ra Lầu Năm Góc có sẳn
sàng bán cho Việt Nam chưa? Ông nghĩ gì nếu Hoa Kỳ phải bán
cho Việt Nam không, nếu cấm vận được giải toả?

<strong>Đáp:</strong> Theo thiển ý, Hoa Kỳ phải cẩn trọng việc
bán vũ khí cho Việt Nam. Trong khi thương vụ này có thể có vài
giá trị nhỏ và biểu tượng cho việc ngăn chận, nhưng mối
lợi này có thể dễ dàng tạo giá trị nhiều hơn do tiềm năng
thúc đẩy leo thang xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam. Cùng
một cách này, Hoa Kỳ sẽ phản ứng cực kỳ bất lợi đối
với việc bán vũ khí cho châu Mỹ La tinh, thí dụ như cho Cuba
hay Venezuela, Bắc Kinh hiểu những thương vụ này là một phần
trong nỗ lực của Washington trong việc đẩy mạnh ngăn chận
Trung Quốc. Làm như thế dường như Washington không những sẽ
khích động xung đôt giữa Trung Quốc và Việt Nam, mà còn gây
tác hại cho mối quan hệ Trung Quốc và Hoa Kỳ đã căng thẳng.

Trong khi đối với đồng minh khác, thí dụ như Nhật Bản hay
với Phi Luật Tân, Hoa Kỳ đã có những thoả ước lâu đời
về quốc phòng liên hệ đến việc mua vũ khí và thao diễn
huấn luyện hỗn hợp từ nhiều thập niên, mối quan hệ như
thế đối với Việt Nam đang còn trong giai đoạn khởi đầu.
Một vài hình thức chung thí dụ như hải giám có thể đem lại
nhiều hữu ích cho quân lực Việt Nam, đây là chuyện khả thi.
Tuy nhiên, Hà Nội sẽ đối đầu thách thức khó khăn khi cố
kết hợp hệ thống của Hoa Kỳ cho phù hợp với công xưởng
vũ khí quan trọng mà Việt Nam đã mua của Liên Xô. Việc này
đặt ra thách thức chính về kỹ thuật.


<center><img src="https://www.danluan.org/files/u1/sub03/kerry_tandung.jpg"
width="592" height="389" alt="kerry_tandung.jpg" /></center>
<center><em>Photo: Credit Brian Snyder/Reuters</em></center>

<strong>Hỏi:</strong> Ngoại Trưởng Hoa Kỳ John Kerry thông báo có
18 triệu cho Việt Nam trong vấn đề an ninh hàng hải trong tháng
Chạp vừa qua. Viện trợ này sẽ dùng vào mục tiêu gi?

<strong>Đáp:</strong> Còn nhiều vấn đề chưa rõ, nhưng theo
thông tin khả dụng cho biết là những qũy này có thể sử
dụng để mua tàu tuần tiểu trang bị nhỏ theo loại đã từng
chống Trung Quốc trong trận đụng độ tại quần đảo Hoàng Sa
từ tháng năm. Cũng nên ghi nhận thêm là Việt Nam kết ước
trong một chương trình đào tạo tấn công để cố ngang tầm
với lực lượng hải giám mở rộng của Trung Quốc, những qũy
này có thể giúp những nỗ lực này. Nhật Bản dường như
đang đóng vai trò trong nỗ lực này nhằm nâng cấp những lực
lượng hải giám của Việt Nam.

Nhưng qũy này có thể dùng để nâng cấp những điểm yếu
trong trang bị của Việt Nam, thí dụ như đối với trang bị lá
chắn phòng ngự và thiết bị truyền tin. Tuy nhiên, số tiền
nhỏ này có thể đựơc xem đúng hơn là có tính tượng trưng.
Thí dụ như môt loại mẩu tàu khổ trung bình, thuộc lực
lượng hải giám của Hoa Kỳ hiện nay (loại Sentinel) khoảng 141
feet, giá trên 80 triệu cho cho từng chiếc, vì thế mà số
lượng viện trợ sẽ khó mà quyết định trong cuộc tranh đua
về hàng hải giữa Bắc Kinh và Hà Nội.

<strong>Hỏi:</strong> Ông nghĩ trong những năm sắp đến Việt Nam
sẽ đối phó với Trung Quốc ra sao, kẻ cựu thù và đôi khi là
bạn?

<strong>Đáp:</strong> Việt Nam và Trung Quốc có những mối quan
hệ thông qua một loạt các loại chủ đề, mà người ta có
thể chờ đợi nơi các lân quốc khổng lồ. Nhưng ưu điểm
thuộc về kinh tế và văn hóa xã hội trong sự kết hợp sâu xa
giữa hai nước là hiển nhiên. Thực vậy, cường độ của các
mối tương tác này, cho dù chỉ ở trình độ văn hoá hay giữa
các giới chức cao cấp giữa hai đảng, có lẽ ít được
tường thuật ở phương Tây. Tuy nhiên, trong một số vấn đề
nhạy cảm nhất giữa Bắc Kinh và Hà Nội vẫn còn có một
khuynh hướng theo một chính sách tạo nên một tình trạng nguy
hiểm, đó là chuyện cũng đã thể hiện rõ nhưng thật đáng
tiếc.

Một sách lược ngoại giao gây lo âu này có tiềm năng dẫn
đến một tình trạng lọt ra ngoài vòng kiểm soát, nó đã
thể hiện rõ cho cả hai phiá trong các vụ động loạn hồi
tháng năm tại Việt Nam. Những vụ động loạn làm tổn thương
hai phía, hy vọng là nó giúp cho lãnh đạo hai nước nhớ lại
điểm tiên quyết phải đạt đến là thoả hiệp cho những
vấn đề nhạy cảm trong vùng biển Hoa Nam. Trong chiều hướng
này, Washington cần phải giữ quyền lợi to lớn hơn của mình.
Quyền lợi này gắn bó mật thiết và bất biến đối với
mối quan hệ ổn cố và toàn diện giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Trong việc thương thảo với Hà Nội, Washington phải tránh lọt
vào bẩy xập của một "loại hội chứng thành bạn xấu",
thúc đẩy Hà Nội thiếu cân nhắc khẩn trương lao vào con
đường đối đầu với Bắc Kinh mà Hà Nội không thể hy vọng
thắng. Thực vậy, Hà Nội sẽ xem xét nghiêm túc vận mệnh
gần đây của Ukraine để so sánh những tình huống tương tự
một cách nào đó.

Thay vì chuẩn bị cho một cuộc xung đột vũ trang, Việt Nam
cần sử dụng một sách lược ngoại giao sinh động để tìm ra
một thoả ước tạm thời với siêu cường phương bắc đang
trổi dậy. Chắc một điều, đây là một tiến trình khó khăn
và nguy hiểm, nhưng nó sẽ đảm bảo tốt nhất về thịnh
vượng và an ninh lâu dài cho Việt Nam trong tình lân quốc có
khó khăn.

<strong>Nguyên tác:</strong> Q. and A.: Lyle Goldstein on China and the
Vietnamese Military by Jane Perlez, July 5, 2014, The New York Times.
http://sinosphere.blogs.nytimes.com/2014/07/05/q-and-a-lyle-goldstein-on-china-and-the-vietnamese
military/?emc=edit_tnt_20140705&nlid=15975&tntemail0=y

Tựa đề bản dịch là của người dịch.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140715/the-new-york-times-phong-van-lyle-j-goldstein-thuc-luc-quan-su-cua-trung-quoc-va),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét