Đỗ Lai Thúy - Chỉ có xã hội hóa và cá nhân hóa mới mang lại sự dân chủ

<em>(Bài phỏng vấn Phó giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Lai Thúy của báo
Văn Hóa Nghệ An)</em>

Phóng viên: Bây giờ là cuối năm 2013, có nghĩa là chúng ta đã
bước sang thế kỷ mới được 13 năm. Là người đã quan tâm
và có nhiều nghiên cứu về văn hóa, ông thấy văn hóa nước
nhà ta bây giờ có khác nhiều so với thập kỷ cuối của thế
kỷ trước?Sự khác biệt lớn nhất, quan trọng nhất là gì,
nó thể hiện như thế nào?

Đỗ Lai Thúy: Hỏi về văn hóa, hoặc thay đổi về văn hóa,
một cách chung chung thì rất khó trả lời. Vì thế, ở đây,
để trả lời câu hỏi của anh, tôi phải phân biệt hai thứ
văn hóa: một văn hóa ở cấp độ tổng thể và một văn hóa
ở cấp độ đời sống thường nhật. Về loại hình văn hóa
thứ nhất thì trước đây người ta không để ý, hoặc không
biết rằng có nó để mà để ý. Câu tuyên bố của một quan
chức văn hóa: "văn hóa phải phục vụ du lịch" là một minh
chứng. Những năm gần đây người ta bắt đầu nghiên cứu
nó.Ngành văn hóa học (theo cách gọi của Nga) hoặc nghiên cứu
văn hóa (theo cách gọi của Mỹ) được củng cố và đã có mã
ngành để đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ. Các công trình văn hóa
học đã được dịch và xuất bản nhiều hơn. Còn về văn hóa
đời sống hoặc đời sống văn hóa thì cũng đang có sự
chuyển dịch từ phạm vi nhà nước sang phạm vi xã hội, cả
ở bộ phận sản xuất văn hóa lẫn bộ phận hưởng thụ văn
hóa. Các xưởng phim tư nhân, các nhóm ca nhạc, các triển lãm
của các họa sĩ độc lập, đặc biệt là nghệ thuật trình
diễn và sắp đặt, các trang mạng cá nhân…ra đời và hoạt
động khá hiệu quả. Đây có lẽ là sự khác biệt tuy quan
trọng nhưng khó nhận ra giữa văn hóa Việt Nam bây giờ và văn
hóa Việt Nam thập kỷ cuối cùng của thế kỷ trước.

Phóng viên: Bản chất của sự thay đổi đó là gì? Tại sao có
sự thay đổi đó hay là động lực tạo nên sự thay đổi đó?
Nội lực hay là ngoại lực chiếm vị trí chủ công?

Đỗ Lai Thúy:Bản chất của sự thay đổi đó, theo tôi, là sự
dân chủ hóa. Việt Nam trước đây là xã hội của cộng đồng
và nhà nước. Để hiện đại hóa một đất nước như vậy
phải cùng lúc thực hiện hai quá trình tưởng như trái ngược
nhau, nhưng lại bổ sung cho nhau là xã hội hóa và cá nhân hóa.
Chỉ có xã hội hóa và cá nhân hóa mới mang lại sự dân chủ.
Và đến lượt nó, mới mang lại sự thay đổi văn hóa, nhất
là sự thay đổi văn hóa ở cấp độ tổng thể. Như vậy, sự
thay đổi văn hóa chủ yếu là do dân chủ, và dân chủ là một
sự vận động nội sinh. Như vậy nhân tố nội sinh rất quan
trọng. Tuy nhiên lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng ở một
vài trường hợp đặc biệt, yếu tố ngoại sinh còn quan trọng
hơn yếu tố nội sinh, vì cái đến từ bên ngoài thức tỉnh,
kích thích, nuôi lớn cái ở bên trong. Có điều cần nói thêm
là Cách mạng tháng Tám, rồi Đổi mới và Mở cửa trước
đây đã mang lại nhiều dân chủ, nhưng đó là dân chủ đám
đông, dân chủ vì/cho đám đông. Ngày nay, để sáng tạo văn
hóa cần phát triển một thứ dân chủ khác: dân chủ cá nhân.

Phóng viên: Sự thay đổi, sự vận động đó, theo ông có gì
không bình thường không?

Đỗ Lai Thúy: Sự vận động đó là bình thường, có thể nói
là đúng quy luật. Chỉ có sự không vận động, sự "ngoan
cố đứng im" mới là không bình thường.

Phóng viên: Hơn một thập kỷ đầu thế kỷ trước các bậc
tiền bối đã tạo cho nền văn hóa dân tộc một gia tốc lớn.
Đông kinh nghĩa thục và chữ Quốc ngữ đã làm thay đổi diện
mạo khí chất của văn hóa nước nhà. Và không chỉ là văn
hóa, mà rộng lớn hơn nhiều, đó là sự thức tỉnh của một
dân tộc. Còn hơn mười năm đầu của thế kỷ này, ông có
nghĩ là đã có một cuộc vận động lớn của văn hóa dân
tộc khi mà chúng ta có rất nhiều phong trào văn hóa, nhiều sự
kiện văn hóa rất rầm rộ? Lý do tại sao chúng ta chưa tạo ra
được một chuyển biến thực sự sâu sắc về văn hóa?

Đỗ Lai Thúy: Sự xâm lược của thực dân Pháp vào nước ta,
khiến chúng ta có sự tiếp xúc sâu với nền văn minh phương
Tây. Có thể nói, đây là sự va đập lớn của hai nền văn
minh/văn hóa Đông – Tây. Ý thức về văn hóa dân tộc mới
thức tỉnh, tự nhận diện. Trước đây các cụ đồ nhà ta
phấn đấu để văn hóa Việt Nam giống và ngang bằng với văn
hóa Trung Hoa. (Thậm chí giống Trung Hoa hơn Trung Hoa: Văn như
Siêu, Quát vô tiền Hán/ Thi đáo Tùng, tuy thất thịnh Đường).
Đối diện với phương Tây, văn hóa Việt Nam không chỉ tự khu
biệt với nó, mà còn khu biệt với cả các văn hóa đồng văn
Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật bản. Hơn nữa, bấy giờ vấn đề
cứu nước cứu dân gắn liền với vấn đề duy tân, mà
trước hết là duy tân văn hóa. Văn hóa vừa là phương tiện
vừa là mục đích của sự Đổi mới lần thứ nhất này. Đây
là sự thay đổi hệ hình văn hóa. Ngày nay, chúng ta có nhiều
phong trào văn hóa, nhiều sự kiện văn hóa nhưng lại không
thuộc về cấp độ văn hóa tổng thể, mà chỉ thuộc về cấp
độ văn hóa đời sống, mà là đời sống nhà nước, nên
không thể sánh được với hồi đầu thế kỷ XX.

Phóng viên: Có người nói, về phương diện Con người, văn hóa
của chúng ta đang thụt lùi. Ông bình luận gì về ý kiến này?

Đỗ Lai Thúy: Một câu hỏi như vậy thì khó có thể đưa ra
một câu trả lời dứt khoát, có hay không có. Nếu nhìn vào
cạnh khía văn hóa sinh hoạt ở đám đông, qua các hành vi ứng
xử, lời ăn tiếng nói, đạo đức cá thể, lợi ích
nhóm…thì có thể nói về phương diện Con người văn hóa của
chúng ta đang thoái hóa. Nhưng nếu nhìn rộng ra, ở cạnh khía
thời đại, qua một số cá nhân tiêu biểu cho tinh thần của
thời đại này thì, tôi nghĩ, không thể nói như vậy được.
Rõ ràng văn hóa của chúng ta vẫn đang tiến triển. Vấn đề
nằm ở chỗ làm sao nhân rộng được những yếu tố này. Xã
hội ta hiện nay vẫn chưa có một tầng lớp e'lite để thực
hiện nhiệm vụ trên.

Phóng viên: Mỗi thời đại cần có một hay những mô hình nhân
cách tương ứng với yêu cầu phát triển của thời đại đó.
Cách đây một trăm năm lịch sử đã sản sinh ra những lớp
người, hạng người ưu việt để đáp ứng nhu cầu của đất
nước. Bên cạnh các sĩ phu, đã bắt đầu xuất hiện, hình
thành tầng lớp trí thức trí thức tân học. Họ là chủ nhân
của vận động văn hóa dân tộc giai đoạn đó. Còn bây giờ
ông thấy sự xuất hiện của một thế hệ mới với những
phẩm chất mới đủ khả năng thúc đẩy tiến trình văn hóa
nước nhà? Họ là ai? Những phẩm chất nổi trội của họ là
gì?

Đỗ Lai Thúy: Mỗi thời đại văn hóa đều sản sinh ra một mô
hình nhân cách văn hóa thích ứng với sự phát triển của
thời đại đó. Tôi gọi đó là mẫu người văn hóa (1). Thời
đại văn hóa Phật giáo (Lý -Trần) đã tạo ra con người vô
ngã, thời đại văn hóa Nho giáo (Lê – Nguyễn) tạo ra con
người sĩ phu, như là các mẫu người văn hóa của xã hội
việt Nam truyền thống. Từ khi tiếp xúc với phương Tây, nhất
là nửa đầu thế kỷ XX, hình thành một mẫu người văn hóa
mới là con người trí thức tân/Tây học. Còn mẫu người văn
hóa ngày nay, trong thời buổi toàn cầu hóa, hay chí ít cũng theo
phương châm : {dù là} "hành động cục bộ, địa phương"
{nhưng hãy} "tư duy tổng thể, toàn cầu", thì vẫn là con
người trí thức, nhưng không kèm theo một định ngữ nào cả.
Người trí thức hiện nay, đúng hơn tầng lớp trí thức là
chủ/ khách thể của những vận động văn hóa. Chỉ họ mới
có khả năng thúc đẩy tiến trình văn hóa nước nhà. Họ có
cái nhìn thời đại, toàn cầu, có tư duy độc lập, tính chủ
động, sáng tạo, thiết tha với văn hóa dân tộc và biết xấu
hổ khi đất nước tụt hậu…

Phóng viên: Trong lịch sử, yếu tố bản địa của văn hóa
Việt Nam là Đông Nam Á nhưng về sau do vị trí địa chính trị
- văn hóa nên văn hóa chúng ta ngả sang không gian văn hóa Khổng
giáo. Rồi sau khi người Pháp đô hộ thì lại có nhiều yếu
tố văn hóa phương Tây. Còn bây giờ, đằng sau cái đa phương
của sự giao tiếp, giao đãi, văn hóa của chúng ta có đang là
ngoại biên của trung tâm nào? Và liệu văn hóa Việt có là
trung tâm của những ai? Chúng ta đã đủ sức hấp dẫn, khả
năng lan tỏa để trở thành một trung tâm của khu vực Đông
Nam Á?

Đỗ Lai Thúy: Văn hóa Việt Nam tự thân thuộc về văn hóa
Đông Nam Á. Nhưng ở miền Bắc và trên cả nước (từ năm
1802) qua quá trình tiếp xúc và tiếp biến văn hóa Trung Hoa,
chúng ta đã "chuyển vùng" sang văn hóa Đông Á với Trung
Quốc là trung tâm. Rồi khi tiếp xúc với người Pháp thì văn
hóa Việt Nam, với các vận động duy tân, Âu hóa, chúng ta lại
chuyển dần sang văn hóa phương Tây, tức lại chuyển vùng một
lần nữa, nhưng lần này không phải từ khu vực này sang khu
vực khác mà từ khu vực ra thế giới! Tuy vậy, ở giai đoạn
nào văn hóa Việt Nam cũng là văn hóa ngoại vi. Hoặc là ngoại
vi của trung tâm văn hóa Hán Nho giáo, hoặc là ngoại vi của
trung tâm văn hóa Ấn Độ (ở phần lãnh thổ phía Nam trước
năm 1802), hoặc là ngoại vi của trung tâm văn hóa phương Tây.
Nhưng từ Đổi mới 1986 đến nay, chúng ta chủ trương đa
phương hóa, làm bạn với tất cả các nước, và không
"tôn" một văn hóa cụ thể nào là trung tâm nữa. Có lẽ
những thất bại cay đắng của việc lấy mô hình này hay cái
mô hình làm khuôn mẫu đã làm cho văn hóa Việt Nam thay đổi
tư duy? Hay thời đại mới đã làm cho chúng ta có tư duy mới?
Nhưng không có một trung tâm cụ thể, hữu hình nào không có
nghĩa là văn hóa Việt Nam đã thoát được số phận của một
văn hóa ngoại vi. Ngược lại, chúng ta đang là ngoại vi của
cái văn hóa thế giới hiện đại… Khái niệm này giống như
khái niệm văn học thế giới mà thi hào Goethe đã đề xuất
trước đây, tuy trừu tượng nhưng mà có thực. Văn hóa thế
giới hiện đại thu hút tất cả tinh hoa của các nền văn hóa
dân tộc ở tất cả các địa phương khác nhau trên thế giới,
nhưng không phải như một con số cộng, mà đã được tinh
thần thời đại tinh luyện, tinh chế để trở thành một
chỉnh thể. Văn hóa Việt Nam, cũng như nhiều nền văn hóa
quốc gia khác, hiện còn đang là ngoại vi của trung tâm văn hóa
thế giới này. Sự phấn đấu của chúng ta là ngày càng tiến
dần đến trung tâm và khi nào tất cả các nền văn hóa ngoại
vi hòa nhập vào trung tâm thì sẽ không còn trung tâm và ngoại
vi nữa, chỉ còn duy nhất một văn hóa trái đất, văn hóa hành
tinh của chúng ta. Nhưng điều đó có thể là không tưởng, hay
còn rất lâu, rất lâu mới xảy ra. Nhiệm vụ trước mắt của
văn hóa Việt Nam là thu hẹp khoảng cách với trung tâm văn hóa
thế giới.

Phóng viên: Tại sao vậy thưa ông?

Đỗ Lai Thúy: Trong một cái nhìn như vậy thì, tôi nghĩ không
còn cần thiết đặt ra vấn đề liệu văn hóa Việt Nam có
đủ sức hấp dẫn, khả năng lan tỏa để trở thành một trung
tâm của khu vực Đông Nam Á nữa. Bởi lẽ, văn hóa của từng
nước Đông Nam Á cũng là ngoại vi của cái văn hóa thế giới
hiện đại kia, nên sự vận động của nó cũng sẽ hướng về
phía trung tâm ấy, chứ không phải một tiểu trung tâm (nếu
có) nào khác. Còn nếu cứ cố tình đặt ra vấn đề như vậy
thì tôi nghĩ là không thể. Văn hóa của các nước Đông Nam Á
là sự thống nhất trong đa dạng. Ngoài văn hóa gốc bản
địa, địa phương ra, trong quá trình lịch sử, nó còn tiếp
nhận nhiều văn hóa khác nhau, như văn hóa Ấn Độ (đến mức
gọi là các nước ngoại Ấn), văn hóa Hồi giáo, văn hóa
Khổng giáo, văn hóa phương Tây. Tóm lại, văn hóa Đông Nam Á
là một bức tranh khảm, hoặc một bức tranh ghép mảnh, nên
không thể có mảnh nào là trung tâm được, mặc dù văn hóa
Việt Nam có nhiều di sản được UNESCO công nhận, vinh danh.

Phóng viên: Xin đề cập và đề nghị ông trao đổi ý kiến có
tính chất nhận định của mình về tương lai của các di sản
văn hóa phi vật thể của chúng ta mà trong những năm vừa qua
đã được UNESCO công nhận, vinh danh. Liệu trong tương lai nó
sẽ tồn tại trong đời sống cộng đồng như thế nào? Hát
Xoan, Hát Quan họ, Ví – Dặm Nghệ Tĩnh, Cồng Chiêng Tây
Nguyên… chẳng hạn?

Đỗ Lai Túy: Quả thật chúng ta có nhiều di sản văn hóa phi
vật thể trở thành di sản văn hóa thế giới, ngoài di sản
văn hóa vật thể cung điện Huế, phố cổ Hội An, Phong Nha Kẻ
Bàng, như Cồng Chiêng Tây Nguyên, Hát Quan họ, Hát Xoan, Ví Dặm
Nghệ - Tĩnh, Nhạc cung đình Huế, Ca trù, Đờn ca tài
tử…Rồi còn nhiều hồ sơ dự tuyển nữa. Trước hiện
tượng này nhiều người nói đến phong trào "làm di sản",
mà chúng ta thì thường sống bằng phong trào, hoặc "hội
chứng di sản". Và xuất hiện một lòng tự hào thái quá,
thậm chí hoang tưởng về văn hóa Việt Nam. Chúng ta quên mất
rằng tinh thần mà UNESCO đưa ra để công nhận một di sản là
nhằm đẻ bảo vệ di sản ấy khỏi biến mất, chứ không hoàn
toàn là vì di sản ấy quá độc đáo. Bởi vậy, sau vinh quang
là trách nhiệm nặng nề. Làm sao để di sản còn tiếp tục
sống được khi chúng ta có thói quen lúc chưa được thì chăm
sóc nó, quan tâm hết mình đến nó, lúc được rồi thì bỏ
lửng để dồn sức làm hồ sơ cho cái khác? Rồi quan niệm sai
lầm về khai thác di sản, đưa di sản vào cuộc sống như cải
biên Quan họ, Hát Xoan…, nên chỉ sau một vài thế hệ là mất
gốc, mất nguyên bản, nghĩa là mất luôn giá trị của di sản.
Hơn nữa, các di sản phi vật thể ngày xưa tồn tại trong một
không gian nhất định, không gian ấy là một phần không thể
thiếu được của di sản thì nay đang dần biến mất.

Phóng viên: Tôi nghĩ, dẫu sao thì văn hóa đương đại của
chúng ta hiện nay cũng đang có rất nhiều vấn đề, nhiều
chuyện phải bàn bạc, trao đổi vì hình như lâu nay cách nhìn
nhận,nhận thức về nó vẫn nặng theo kiểu phong trào, có
nghĩa là chúng ta đề cao cái hình thức, cái biểu hiện bên
ngoài dễ thay đổi chứ không quan tâm nhiều đến bản chất,
đến giá trị của nền văn hóa. Từ nhận thức này đã chi
phối và quyết định cách hành/hoạt động văn hóa và các
lĩnh vực tinh thần.

Cảm ơn ông đã nhận lời làm khách của chúng tôi và có
những trao đổi sâu sắc, thiết thực và thú vị. Hy vọng
chúng ta sẽ có những cuộc trao đổi tương tự trong tương
lại gần.

<div class="rightalign"><strong>Phan Thắng</strong> thực hiện</div>

………………………………

(1). Xin đọc: Đỗ Lai Thúy, Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu
người văn hóa, Văn hóa thông tin H. 2005.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140720/do-lai-thuy-chi-co-xa-hoi-hoa-va-ca-nhan-hoa-moi-mang-lai-su-dan-chu),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét