<center><img  
src="http://www.danluan.org/files/u5219/131125145633_nguyen_thanh_chan_464x261_baomoi.com_.jpg"  
width="464" height="261"  
alt="131125145633_nguyen_thanh_chan_464x261_baomoi.com_.jpg" /></center>
<em><center>Ông Nguyễn Thanh Chấn đã phải chịu oan ức trong  
nhiều năm</center></em>
<strong>Trong vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn, ông này đã  
phải khai nhận một tội mà mình không hề phạm. Vậy ông  
Chấn có phải đã bị bức cung nhục hình hay không, và có câu  
hỏi là lấy đâu ra chứng cứ chứng minh hành vi bức cung nhục  
hình?</strong>
<strong>Quy định của luật</strong>
Hiện chưa có con số thống kê cụ thể nhưng có thể hình dung  
số lượng các vụ án có tình trạng bức cung nhục hình ở  
Việt Nam là vô cùng lớn. Số trường hợp bị nhục hình thì  
không dám chắc nhưng nạn bức cung có khả năng xảy ra ở 100%  
các vụ án.
Vấn nạn bức cung phổ biến lớn rộng như thế không phải do  
một vài sai phạm nghiệp vụ mà nó có nguyên nhân từ chính  
sự cho phép của luật. Điều này có vẻ vô lý, luật nào cho  
phép được bức cung? Nhưng sự thực đúng là như thế.
Bộ Luật Tố tụng Hình sự đã quy định nghiêm cấm mọi hình  
thức truy bức nhục hình, tức là chỉ chấp nhận những lời  
khai tự nguyện. Nếu bị cáo không tự nguyện khai báo thì  
thôi, không được sử dụng bất kỳ thủ pháp nghiệp vụ nào  
buộc người ta phải khai, vì luật cấm mọi hình thức truy  
bức.
Nhưng Bộ Luật Hình sự lại có điều luật xử phạt tù đối  
với hành vi từ chối khai báo, theo đó Điều 308 quy định về  
tội từ chối khai báo đã viết rằng: "Người nào từ chối  
khai báo hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính  
đáng thì có thể bị phạt tù từ ba tháng đến một năm".
Lý do chính đáng ở đây là gì? Để tự bảo vệ tính mệnh  
và tự do của mình có phải là một lý do chính đáng không?  
Trường hợp nào mà bị cáo chẳng có lý do chính đáng là tự  
bảo vệ mình? Như thế thì trường hợp nào bị cáo cũng phải  
có quyền từ chối khai báo chứ?
Tại sao bị cáo lại phải nói ra những điều mà nó chính là  
chứng cứ để người ta kết tội lại mình? Có ai là người  
tự nguyện trong việc này?
Dọa nạt bỏ tù người ta nếu không chịu tự nguyện khai báo,  
đó chẳng phải là một hình thức bức cung thì là gì?
Như thế, chính quy định của luật đã tạo ra tình trạng bức  
cung nhục hình. Quy định như thế đã tạo cho điều tra viên  
tính hợp pháp về mặt luật pháp để bức cung, và giải thoát  
cho họ mặc cảm tội lỗi về mặt đạo đức nếu có. Và đó  
là lý do vì sao vấn nạn bức cung phổ biến ở hầu như 100%  
các vụ án.
<strong>Vấn đề của năng lực</strong>
<center><img  
src="http://www.danluan.org/files/u5219/140108160829_duong_chi_dung_464x261_vnaafpgetty_nocredit.jpg"  
width="464" height="261"  
alt="140108160829_duong_chi_dung_464x261_vnaafpgetty_nocredit.jpg"  
/></center>
<em><center>Bí cáo Dương Chí Dũng cũng từng tố cáo  
trước Tòa mình bị bức cung</center></em>
Quy định của luật lệch lạc như thế không phải nhà làm  
luật không biết, mà họ có lý do để duy trì điểm mâu thuẫn  
vô lý đó.
Sự vô lý của luật thực ra là hệ quả phản ánh thực tế  
năng lực thực thi pháp luật của hệ thống tư pháp Việt Nam.  
Về mặt nghiệp vụ nếu không buộc được bị can khai báo thì  
điều tra viên không có đủ khả năng để xét đoán sự việc  
và điều tra nghi phạm.
Hoạt động điều tra là lần theo manh mối dấu vết tội  
phạm, mà muốn làm được điều này thì phải có khả năng  
xét đoán, ngoài ra cần có trang thiết bị máy móc hiện đại  
phục vụ cho công tác điều tra.
Nhưng ở Việt Nam thì cả hai vấn đề này đều thiếu, điều  
tra viên thì kém năng lực, thế mạnh chủ yếu dựa vào việc  
áp chế người khác, thể hiện qua việc bắt bớ giam cầm,  
bức cung nhục hình buộc phải khai nhận. Về mặt trang thiết  
bị máy móc thì có lẽ cũng còn thiếu sự đầu tư nhất  
định.
Vì tình hình thực tế như vậy cho nên khi soạn luật người ta  
đã lần lựa đưa vào hay bỏ ra các quy định như thế nào  
để phù hợp với năng lực thực tế của cơ quan điều tra.
Tức là nhà làm luật đã không được tự do thoải mái đứng  
hẳn về phía các chế định pháp lý văn minh tiến bộ.
Hệ quả là có những quy định luật mang tính nửa vời, vừa  
tỏ ra tiến bộ, nhưng xét kỹ lại là lổng hổng.
Tại sao luật không quy định bị cáo được quyền giữ im  
lặng và chỉ đồng ý khai báo khi có sự tham gia của luật sư  
bào chữa, như vậy sẽ đảm bảo tiệt nọc tình trạng bức  
cung nhục hình? Mà lại chỉ quy định nghiêm cấm mọi hình  
thức truy bức nhục hình, trong khi cả hai lối quy định cũng  
chỉ nhằm một mục đích là đảm bảo những lời khai phải  
là tự nguyện?
<div class="boxright200"><img  
src="http://www.danluan.org/files/u5219/120924103827_vietnam_court_gates_304x171_afp.jpg"  
width="304" height="171"  
alt="120924103827_vietnam_court_gates_304x171_afp.jpg" /><div  
class="textholder">Hệ thống tư pháp Việt Nam có nhiều lỗ  
hổng có thể bị lợi dụng?</div></div>Đây là một chế  
định pháp lý văn minh tiến bộ để bảo vệ các quyền tự do  
dân chủ của công dân, không thể không đưa vào luật. Nhưng  
các nhà làm luật đã sử dụng xảo thuật để vừa tỏ ra tôn  
trọng chân giá trị vừa tìm cách đáp ứng đòi hỏi thực tế  
của hoạt động điều tra trong khi giải thoát cho mình khỏi  
mặc cảm tội lỗi ở khâu làm luật.
Các nhà soạn luật hẳn đã tự biện minh rằng, chúng tôi đã  
quy định nghiêm cấm mọi hình thức bức cung nhục hình rồi,  
còn thực hiện như thế nào là do thực tế và đó là trách  
nhiệm của cơ quan điều tra.
Họ đã bỏ qua tình hình thực tế về điều kiện giam giữ  
người và quy trình làm việc không bị giám sát của cơ quan  
điều tra. Thực tế như vậy cộng hưởng với quy định lập  
lờ nửa vời của luật đã dẫn đến vấn nạn bức cung nhục  
hình phổ biến rộng khắp.
Cho nên vấn nạn bức cung nhục hình phải giải quyết ở khâu  
soạn luật chứ không chỉ giải quyết ở khâu thực thi pháp  
luật.
Các nhà soạn luật cũng tìm cách để xoa dịu hậu quả của  
tình trạng bức cung nhục hình bằng cách đưa vào chế định  
rằng nếu thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải sẽ được  
đánh giá là tình tiết giảm nhẹ để giảm mức án cho bị  
cáo.
Việc này cũng giúp lấp liếm đi tình trạng bức cung của cơ  
quan điều tra. Có những vụ án bị cáo ban đầu chối bay chối  
biến, sau khi bị bức cung nhục hình thì đã khai nhận hành vi  
phạm tội, đến khi xét xử lại được đánh giá là thành  
khẩn khai báo và được giảm án.
Biết bao nhiêu vụ án đã như vậy, nhưng chẳng mấy ai thắc  
mắc là vì đâu bị cáo thay đổi lời khai từ chối tội sang  
nhận tội.
<strong>Vấn đề niềm tin</strong>
<center><img  
src="http://www.danluan.org/files/u5219/140329175530_police_violence_464x261_motthegioi_nocredit.jpg"  
width="464" height="261"  
alt="140329175530_police_violence_464x261_motthegioi_nocredit.jpg"  
/></center>
<center><em>Ngô Thanh Kiều là nạn nhân của nạn bức cung  
nhục hìnhcủa công an</em></center>
Vấn nạn bức cung nhục hình không chỉ phản ánh năng lực  
trình độ của cán bộ điều tra mà nó còn phản ánh nhận  
thức lệch lạc của những người giải quyết án, bao gồm cả  
kiểm sát viên, thẩm phán, luật sư.
Ở Việt Nam lâu nay người ta đặt rất nặng vấn đề chứng  
cứ và yêu cầu việc xử án phải theo chứng cứ. Nhận thức  
này xem qua thì cho đó là lối làm việc khách quan khoa học  
đảm bảo tính chắc chắn và thực ra thì việc đòi hỏi phải  
có chứng cứ là tốt và đương nhiên.
Nhưng nó sẽ là sai lầm nếu coi chứng cứ là vấn đề duy  
nhất khi giải quyết một vụ án.
Trong vụ oan sai của ông Nguyễn Thanh Chấn, khi nêu ra vấn đề  
cần xử lý các điều tra viên về tội bức cung nhục hình thì  
có ý kiến thắc mắc là lấy đâu ra chứng cứ chứng minh  
việc bức cung nhục hình?
Đây thực ra là một nhận thức sai lệch nghiêm trọng của  
không chỉ người dân mà cả các chuyên gia về luật, mà từ  
đó góp phần tạo nên vấn nạn bức cung nhục hình.
Chúng ta biết rằng chứng cứ nhằm để chứng minh, chứng minh  
nhằm để thuyết phục, vậy nếu sự việc đã đủ sức  
thuyết phục rồi, sự thật đã hiển nhiên rồi thì không cần  
phải chứng minh nữa và không cần chứng cứ.
Ông Chấn nếu không bị bức cung nhục hình thì tại sao lại  
nhận một tội mà mình không hề phạm? Mà cái tội đó nào có  
nhẹ nhàng gì, nếu bố ông Chấn không phải là liệt sĩ nên  
ông Chấn được giảm án thì có lẽ ông đã bị tử hình  
rồi.
Việc ông Chấn bị bức cung nhục hình là điều không còn có  
thể tranh cãi nữa.
Mặc dù không hề có chứng cứ nhưng chúng ta có thể xác  
quyết bằng niềm tin.
<strong>Niềm tin nội tâm</strong>
<center><img  
src="http://www.danluan.org/files/u5219/140409051155_nguyen_thanh_thao_thanh_464x261_baomoi.com_.vn_.jpg"  
width="464" height="261"  
alt="140409051155_nguyen_thanh_thao_thanh_464x261_baomoi.com_.vn_.jpg"  
/></center>
<em><center>Nguyễn Thân Thảo Thành nhận mức án nhẹ trong  
vụ án làm chết Ngô Thanh Kiều</center></em>
Trong lĩnh vực tư pháp có một khái niệm là "niềm tin nội  
tâm". Niềm tin này là cơ sở xét đoán của mọi người tham  
gia vào hoạt động xét xử. Cả điều tra viên, kiểm sát viên,  
thẩm phán, luật sư đều phải dựa vào niềm tin nội tâm để  
xét đoán sự việc.
Bởi vì tất cả những người này dù thế nào đi nữa thì họ  
cũng không phải là bị cáo, họ không thể chắc chắn bị cáo  
có phải là hung thủ hay không. Cho nên khi quy kết buộc tội hay  
bào chữa gỡ tội chỉ có thể dựa vào niềm tin nội tâm.
Niềm tin nội tâm được tạo thành từ những hiểu biết về  
vụ án thông qua các tài liệu chứng cứ, qua nghiên cứu hiện  
trường, hồ sơ vụ án, thông tin về nhân thân bị cáo …
Ở Việt Nam lâu nay, khi xét xử người ta ít sử dụng đến  
niềm tin nội tâm, và khái niệm niềm tin nội tâm chỉ nằm  
gọn hạn hẹp trong các nghiên cứu về học thuật. Lý do có  
lẽ vì niềm tin là thành tố có tính tôn giáo trong khi chính  
thể hiện tại là vô thần.
Thay vì xét xử dựa vào niềm tin nội tâm trong đó chứng cứ  
chỉ là một thành tố tạo thành (ngoài chứng cứ còn cần  
trình độ kinh nghiệm để tạo nên niềm tin xét đoán), việc  
xét xử hiện nay đặt nặng vào chứng cứ, chứng cứ thế nào  
không quan trọng, miễn là phải có chứng cứ.
Nếu giải quyết án cứ phải có chứng cứ rõ ràng thì chỉ  
cần một người phán quyết là đủ, cần gì phải hội đồng  
nhiều người, và cũng chỉ cần một lần xét xử là được  
cần gì phải qua hai cấp?
Cái lối xét xử đặt nặng chứng cứ mà không dựa vào niềm  
tin nội tâm sẽ không lý giải được là dựa vào đâu mà  
người ta có thể tuyên án trong khi vụ án có cả chứng cứ  
kết tội và chứng cứ gỡ tội.
Vì nhận thức như thế nên trong lối làm việc người ta phải  
tìm ra bằng được chứng cứ. Luật cũng phụ họa cho việc  
này khi bỏ qua đòi hỏi về tính khách quan đã quy định lời  
khai của bị can cũng là chứng cứ.
Và khi gặp khó khăn trong các lối điều tra khác thì dễ dàng  
nhất là tiến hành bắt giam bức cung buộc bị can phải khai  
báo.
Đó là lý do vì sao tình trạng bức cung nhục hình tràn lan như  
hiện nay.
Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của  
luật sư Ngô Ngọc Trai, Giám đốc Công ty luật Công chính từ  
Hà Nội.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận  
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140727/luat-su-ngo-ngoc-trai-van-nan-buc-cung-nhuc-hinh-o-vn),  
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời  
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân  
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc  
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây  
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây  
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)  
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress  
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),  
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp  
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để  
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét