Giáo sư Trần Quốc Vượng - Mấy vấn đề về vua Gia Long (1)

<blockquote>Kính gởi Ban Biên tập Khoahocnet,

Đây là một tham luận của Cố GS Trần Quốc Vượng viết cho
một hội thảo về vua Gia Long tổ chức tại Thành phố Hồ Chí
Minh năm 1996. Do liên quan đến quan điểm chính trị nên hội
thảo này không tổ chức được, và bài viết này cho đến nay
được đăng lần nào.

Nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam rất thích bài viết này,
nhưng rất tiếc chuyên luận này chưa hề được công bố.

Bản thân tôi đã sưu tập được bài viết này từ hơn 15 năm
và ấp ủ nó được đăng chính thức để lưu trữ, nay xin
gởi Khoahocnet. Nếu Khoahocnet đăng tải thì chắc chắn đây là
lần đầu tiên được công bố.

Xin cảm ơn Ban Biên tập.

Nguyễn Anh Huy</blockquote>

<center> * * *</center>

<strong> GS TRẦN QUỐC VƯỢNG – MẤY VẤN ĐỀ VỀ VUA GIA
LONG</strong>

<strong>* PHẦN MỘT</strong>

0.1. Tôi không phải là một chuyên gia về lịch sử, đặc
biệt là về nhà Nguyễn, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng có những
nghĩ suy và thực ra là từ những năm giữa thập kỷ 70 cho
đến gần đây, đầu xuân Bính Tý 1996. Tôi vẫn thường qua
lại xứ Huế và viết dăm bẩy bài về vị thế địa – văn
hóa của xứ Huế và vai trò của các chúa Nguyễn, bắt đầu
từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613) đến các vua đầu nhà
Nguyễn, mở đầu là vua Gia Long (1802-1820) và kết thúc là vua
Bảo Đại (1925-1945).

Tôi đã nói và viết tản mạn nhiều vấn đề về xứ Đàng
Trong, về thời Nguyễn và nhà Nguyễn.

0.2. Ông Nguyễn Khoa Điềm – thuộc dòng họ Nguyễn Khoa nổi
danh từ các chúa Nguyễn mà bà nội ông (Đạm Phương Nữ Sĩ)
là cháu nội vua Minh Mạng, sinh ra thân phụ ông là nhà Mác-xít
và là một trong những người cộng sản đầu tiên, tức Hải
Triều Nguyễn Khoa Văn – đã từng phát biểu ở trường Đại
học viết văn Nguyễn Du trong dịp lễ khai giảng khóa 5
(1995-1998), rằng khi ông là tổng biên tập đầu tiên của Tạp
chí Sông Hương ở một thời chưa đổi mới lắm, ông đã cho
đăng bài của tôi về <em>"Xứ Huế và vị thế lịch sử
của Huế"</em> và đã cùng ban biên tập tạp chí ấy tặng
tôi giải thưởng đặc biệt cho bài viết này, mà khi ấy
người ta cho là một sự "xét lại" về mặt sử học. Bởi
trước đó, theo giới Sử – Văn – Triết – Mỹ chính thống
của Việt Nam, thì gần như là một sự "phủ định sạch
trơn" (table rase) về thời Nguyễn và nhà Nguyễn, trong khi đó
ở bài viết ấy và những bài tiếp theo, tôi cùng với các nhà
nghiên cứu Dân tộc – Xã hội – Mỹ học như Nguyễn Đức
Từ Chi, Trần Lâm Biền đã đề nghị một cách nhìn hơi khác,
tóm tắt lại là:

- Cần phân biệt thời Nguyễn, đời Nguyễn và nhà Nguyễn.

- Cần phân biệt thời các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn.

- Và trong các vua Nguyễn, cũng cần phân biệt các vua đầu
Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng (1820-1840) và các vua cuối Nguyễn
như Tự Đức (1848-1883); và ngay cả các vua Nguyễn sau Tự
Đức, cũng cần phân biệt những ông Đồng Khánh, Khải Định
với những ông vua yêu nước như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân.
Lại càng nên phân biệt chính trị triều Nguyễn và học
thuật, trước tác và mỹ thuật của nền Quốc học Nguyễn.
Có "cộng đồng" triều đình và có các "cá thể" vua –
quan nữa chứ!

1.0. Nay theo yêu cầu của Ban tổ chức Hội nghị về vua Gia
Long (1802-1820), tôi chỉ xin nói tóm tắt đôi điều mà tôi cảm
nhận được về Nguyễn Ánh – Gia Long.

1.1. Về Nguyễn Ánh: Nếu tôi nhớ không nhầm thì cuộc khởi
nghĩa Tây Sơn (mà những người theo lý thuyết Mác-xít thường
gọi là "Khởi nghĩa nông dân") bắt đầu xảy ra vào năm
1771, khi Nguyễn Huệ sau này trở thành vua Quang Trung vĩ đại
bấy giờ mới 18 tuổi, thì lúc đó Nguyễn Ánh còn kém Nguyễn
Huệ ít ra là 7 tuổi, nghĩa là mới chỉ một cậu bé con trên
10 tuổi, cháu của chúa Nguyễn Phước Thuần. Thế mà chính
"cậu bé" Nguyễn Ánh đó – sau khi chúa Nguyễn và gần như
hết thảy những nhân vật của dòng chúa đã bị họ Nguyễn
Tây Sơn thủ tiêu sạch trơn – đâu chỉ khoảng 14 tuổi, từ
xứ Huế, xứ Quảng chạy vô châu thổ sông Cửu Long và gần
như là đại diện duy nhất còn lại của dòng chúa Nguyễn, đã
trở thành vị Nguyên Soái chống lại phong trào Tây Sơn đang
dâng lên và lan tỏa trong toàn quốc từ Nam chí Bắc như triều
dâng thác đổ.

1.2. Tôi không bao giờ phủ định rằng phong trào Tây Sơn đã
có những công tích vĩ đại, ít nhất ở ba mặt sau đây:

- Ở Đàng Trong thì lật đổ "trào đình" của các chúa
Nguyễn rồi tiến ra Đàng Ngoài lật đổ "trào đình" của
các chúa Trịnh cùng với triều Lê – mà những ông vua Lê từ
quãng đầu thế kỷ XVII trên diễn trình lịch sử đã trở
thành những ông vua "bù nhìn", hay là các "con rối"
(puppet) trong tay các chúa Trịnh.

- Chiến thắng vĩ đại chống quân xâm lược Xiêm mà đỉnh
cao là trận Rạch Gầm – Xoài Mút ở Mỹ Tho (Tiền Giang) vào
cuối năm 1784 đầu 1785. Quân xâm lược Xiêm 5 vạn đã "sợ
Tây Sơn như sợ cọp" và chính là do lợi dụng việc Nguyễn
Ánh cậy nhờ mà định sang chiếm đoạt miền Nam. Nguyễn Ánh
mãi mãi mang tiếng xấu <em>"cõng rắn cắn gà nhà"</em>, cầu
ngoại viện để giải quyết vấn đề quốc sự.

- Đại chiến thắng chống vài chục vạn quân xâm lược Thanh
đầu xuân Kỷ Dậu 1789 – mà ông vua cuối cùng của nhà Lê là
Chiêu Thống đã cầu cứu. Và cũng như Nguyễn Ánh, ông vua Lê
ấy cũng mang một bộ mặt nhọ nhem trong lịch sử.

1.3. Nguyễn Ánh cùng Chiêu Thống càng lem luốc bao nhiêu trước
lịch sử thì hình ảnh Nguyễn Huệ – Bắc Bình Vương – Quang
Trung càng được xem là bộ mặt tỏa rạng và có một vai trò
lịch sử lớn lao bấy nhiêu trong lịch sử Việt Nam nửa cuối
thế kỷ XVIII.

Nhưng bảo rằng Huế – Phú Xuân là do vua Quang Trung xây dựng
thành một đô thị thủ đô thì theo tôi lại là một lối
viết quá đà! Huế, với thành Lồi ở Long Thọ bờ phải sông
Hương và thành Lý Châu – sau đổi là Hóa Châu ở lưu vực
sông Bồ đã trở nên một thị thành, một cảng thị (City-Port,
Nagara) – từ thời Chiêm Thành và sau đó thời Đại Việt
Huyền Trân nhà Trần (sau 1306) và sau đó nữa là Quãng Phước,
Kim Long thời chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên và Phú Xuân thời
chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1636-1648) và sau chót là Gia Long
– Minh Mạng (trước Gia Long, Phú Xuân vẫn chỉ là Làng Xã).

1.4. Tuy không phải là một nhà sử học chính tông, nhưng tôi
không bao giờ dám thể tất cho Nguyễn Ánh khi ông vì thế cùng
lực kiệt, đã qua giám mục Bá Đa Lộc (Evêque D'Adran) và
cậu bé tí hon hoàng tử Cảnh (lúc bấy giờ khoảng 6 tuổi) đi
cầu viện các thế lực phương Tây (nhất là Pháp), đã dám cho
vị giám mục người Pháp đó toàn quyền đại diện cho nước
Việt phương Nam ký với Pháp cái gọi Hiệp ước Versailles,
nhượng cho Pháp nào đảo Côn Lôn, nào cảng cửa Hàn… để
mong nước Pháp quân chủ cuối mùa (1787) cứu một nền quân
chủ cũng cuối mùa nốt của Đại Việt. Cho dù cái nước Pháp
quân chủ cuối mùa ấy đã không giúp đỡ gì được cho
Nguyễn Ánh và đã được / bị cuộc cách mạng 1789-1790 xóa
sổ khỏi lịch sử phương Tây, nhưng sao chăng nữa, việc đó
cũng tạo "tiền lệ" cho giới thực dân phương Tây mà
trước hết là Pháp cùng với vài thế lực Thiên chúa giáo
thân (Pro) thực dân can thiệp ngày càng sâu vào nội trị Việt
Nam, và dẫn tới việc mất nước của ta vào nửa cuối thế
kỷ XIX. Ký hiệp ước, hòa ước để nhượng địa rồi
<em>"mãi quốc cầu vinh"</em> là những thủ đoạn hèn hạ
của thực dân đầu mùa và quân chủ cuối mùa.

1.5. Tuy sự thật lịch sử cho tôi – và cho chúng ta – biết
rõ rằng những điều khoản của Hiệp ước Versailles ấy đã
không thực hiện và sau này, khi đại diện của chính phủ Pháp
đòi vua Gia Long thực hiện hiệp ước Versailles thì vua Gia Long
đã kiên quyết từ chối với lý do rất chính đáng là: nước
Pháp có thực hiện điều khoản nào của hiệp ước Versailles
đâu!

Trên đường từ Pháp về Pondichery (Ấn Độ), giám mục Bá Đa
Lộc chỉ tuyển được một số sĩ quan, kỹ sư, kẻ "phiêu
lưu" người Pháp và với một số rất ít kinh phí mua được
vài cái tàu bọc đồng – mà vua Quang Trung coi là những sự hù
dọa vớ vẩn – để mang về giúp Nguyễn Ánh. Cho nên theo tôi,
cố giáo sư Trần Đức Thảo và một số người khác đã viết
hơi quá đà, rằng sự viện trợ của Pháp là một trong những
nhân tố quan trọng nhất để tập đoàn Nguyễn Ánh đã đánh
bại phong trào triều đại Tây Sơn, từ Nguyễn Nhạc đến
Cảnh Thịnh – Bảo Hưng (1792-1802).

1.6. Như vậy, với những điều viết trên, là tôi đã có một
hàm ngôn rằng, sự thắng lợi của Nguyễn Ánh đối với
triều đại Tây Sơn chủ yếu là do <em>những nguyên nhân nội
sinh</em>, và đứng về mặt cá nhân tôi hay là của chúng ta
nhỉ, cũng đáng nên "khâm phục" dù "chút chút" –
Nguyễn Ánh – một người có cá tính mạnh, từ một cậu bé
con của một ông chúa bị giết hại trong tù, gần như đã
nhiều lúc không còn một mảnh giáp, không còn một tấc đất,
đã lấy lại được quyền bính trong cả nước Việt Nam từ
Lạng Sơn đến Cà Mau. Theo PGS Trần Lâm Biền, nền mỹ thuật
Việt Nam chỉ có những thi pháp kiến trúc chung từ xứ Lạng
đến Gia Định thành là từ Nguyễn Gia Long.

1.7. Cho nên, cũng không phải quá đáng lắm khi linh mục Nguyễn
Phương và một số nhà sử học nước ngoài khác – từ phe
XHCN (cũ) đến phe tư bản chủ nghĩa – cho rằng <em>Nguyễn Ánh
là người trên thực tế đã thống nhất đất nước</em> chứ
không phải là ông vua anh hùng Nguyễn Huệ – Quang Trung, mặc
dù ông vua anh hùng 3 lần vĩ đại này đã gạt bỏ những thế
lực quân chủ thối nát ở Đàng Trong, Đàng Ngoài và những
lực lượng ngoại xâm đứng đàng sau những quyền lực khốn
nạn ấy. Và như vậy, xét về mặt lịch sử khách quan là đã
góp phần rất lớn vào công cuộc thống nhất đất
nước<sup>(1)</sup>.

1.8. Không nói gì đến ông Nguyễn Lữ – là "thầy tu" hay
là "thầy võ" – không đủ nội lực để đối địch với
Nguyễn Ánh ở miền Nam, chỉ nói đến ông anh Nguyễn Nhạc
xuất thân "nậu nguồn" và ông em Hồ Thơm (Nguyễn Huệ)
thì, do sự chia rẽ ngay trong nội bộ gia đình, mà theo tôi
"ghê tởm" nhất là ông anh cả Nguyễn Nhạc đã vì sự
thỏa mãn nhỏ nhen được làm Trung ương Hoàng đế ở thành
Trà Bàn, rồi vì ghen tị và "chãnh chọe" với em sau vụ
Bắc Bình Vương "xóa hận sông Gianh" tiến ra Thăng Long, đã
vội vã ra Bắc kéo em về, rồi lại hãm hiếp cô em dâu – vợ
Nguyễn Huệ – tạo mối thù hận khôn nguôi và chiến tranh
giữa hai anh em, khiến dưới triều Tây Sơn có một ông hoàng
đế ở Quy Nhơn và một ông hoàng đế ở Phú Xuân. Vậy làm
sao có thể nói được là nước ta đã được thống nhất ngay
dưới thời Tây Sơn? Đó là một "lập trường giai cấp"
máy móc đang chuyện nọ (chống ngoại xâm) "xọ chuyện kia"
(chống quân chủ Nguyễn – Trịnh).

1.9. Ở đây có một vấn đề thuộc phương pháp luận sử
học cần được làm sáng tỏ là: Lịch sử bao giờ cũng có
một sự gián cách giữa lịch sử – thực tại (Histoire –
Réalité) và lịch sử nhận thức (Histoire – Conscience). Mà cái
lịch sử nhận thức thì luôn gắn liền với chủ quan nhà sử
học – nhưng trách nhiệm và bổn phận của nhà sử học chân
chính là luôn luôn cần cố gắng có cái nhìn khách quan đến
mức cao nhất. Mức cao nhất đó là như các nhà lãnh đạo
Cộng sản Việt Nam cuối thế kỷ XX nói: Hơn ai hết là nhà
sử học cần <em>"nhìn thẳng vào sự thật! "</em>, nói đúng
sự thật, và giải thích một cách khoa học cái sự thật khách
quan ấy. Vẫn theo tôi, "tâm thức tiểu nông" Việt Nam là
nền tảng tinh thần của nền "dân chủ làng xã", của sự
đồng dạng văn hóa (Cultural Identity) ở cấp văn hóa xóm làng
Đại Việt – Việt Nam một thời. Thống nhất rồi chia rẽ,
đó là "trách nhiệm lịch sử" của cấu trúc quân chủ
Phật giáo (Lý – Trần), rồi quân chủ Nho giáo (Lê –
Nguyễn). Lịch sử chính trị và lịch sử văn hóa, có cái CHUNG
và cũng có cái RIÊNG. Quy mọi thứ vào chính trị hay vào kinh
tế là cái nhìn (Point of view) đã "lỗi thời" (Over time) lâu
rồi, quá lâu rồi!

(còn tiếp)

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140711/giao-su-tran-quoc-vuong-may-van-de-ve-vua-gia-long),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét