Bill Hayton - Hội chứng nhớ lầm của Trung Quốc

<strong><em>Cả nước đã được dạy sai, rằng người Trung
Quốc đã phát hiện và đặt tên các đảo ở biển Đông</em>
</strong>

Biển Đông là nơi mà tham vọng của Trung Quốc (TQ), nỗi âu lo
của châu Á và sức mạnh của Mỹ hội tụ nhau. Trong vùng
biển của mình, TQ đã từ bỏ mọi giả vờ về "trỗi dậy
hòa bình" để ngã về kiểu ngoại giao pháo hạm. Tàu cảnh
sát biển vũ trang của TQ đã đâm vào tàu của đối phương
Việt Nam, phong tỏa các tiền đồn của Philippines, ngăn trở
các tàu khảo sát dầu của Malaysia và doạ nạt các tàu
Indonesia đang bảo vệ ngư trường quốc gia. Đáp lại, tất cả
các nước này đang mua vũ khí nhiều hơn và cải thiện quan hệ
quân sự với chính phủ các nước khác, lo lắng với sự
quyết đoán ngày càng tăng của TQ – chủ yếu là Hoa Kỳ,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Australia.

Cội rể của tất cả các rắc rối này là điều mà Bắc Kinh
gọi là "yêu sách lịch sử không thể tranh cãi" chiếm tới
đến 80% biển Đông: chạy thẳng từ cảng Hồng Kông tới gần
sát bờ biển Borneo cách xa 1.500 km. Vấn đề với yêu sách này
là không có bằng chứng đáng tin cậy nào làm chỗ dựa cho nó.
Tuy nhiên, mẫu chuyện hư cấu lịch sử này đe dọa hòa bình
và an ninh ở châu Á và cung cấp sàn diễn cho một cuộc đấu
tranh giữa TQ và Mỹ với những tác động mang tính toàn cầu.
Dường như rất khó có thể tin rằng cuộc đối đầu tiềm
năng có tính huỷ diệt này lại có gốc rễ là tranh chấp về
những đảo rải rác gần như hoàn toàn không thể sinh sống
được.

Có hai nhóm "đảo" chính ở biển Đông. (Chỉ có một số
rất ít là đảo thực sự, phần lớn chỉ là rạn san hô, bãi
cát hoặc đá). Trong cụm phía bắc, quần đảo Hoàng Sa đang có
tranh chấp giữa TQ và Việt Nam. Ở phía nam quần đảo Trường
Sa rộng hơn nhiều do TQ, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines
đòi hỏi chủ quyền. Hầu hết những chỗ hoang vắng này đều
có tên tiếng Anh, thường do các tàu và các nhân viên trên tàu
vẽ ra bản đồ các đảo này tặng cho tên riêng. Richard Spratly
là một thuyền trưởng tàu săn cá voi đã phát hiện hòn đảo
có tên ông vào năm 1843, tàu HMS Iroquois cho tên của mình cho đá
Iroquois (bãi Amy Douglas) trong khi làm công việc khảo sát trong
thập niên 1920, và cứ thế tiếp tục…

Khi một ủy ban của chính phủ TQ lần đầu đặt tên tiếng
Trung cho các đảo vào năm 1935, mọi việc họ làm là dịch
hoặc phiên âm các tên tiếng Anh đang có. Ví dụ, ở quần
đảo Hoàng Sa, đá Antelope Reef (Hải Sâm) trở thành Lingyang
(羚羊: linh dương = antelope) và ở quần đảo Trường Sa, North
Danger Reef (đá Bắc) trở thành Beixian (北崄: bắc hiểm [nguy
hiểm phía bắc = north danger], đảo Spratly (Trường Sa đã trở
thành Si-ba-la-te-li – 斯普拉特利phiên âm tên tiếng
Anh)<strong>(1)</strong>. Uỷ ban TQ chỉ việc sao y các bản đồ,
các sai sót và mọi thứ của Anh. Các tên này sau đó được xem
xét chỉnh lại hai lần. Bãi cạn Scarborough, được đặt tên
theo tên một tàu của Anh vào năm 1748, được phiên âm là Si ka
bo lei jiao (斯卡伯勒礁 –Tư ca bá lặc tiều) vào năm 1935,
đổi tên thành Min'zhu Jiao (民主礁- Dân chủ tiều [đá Dân
chủ]) của nước THDQ vào năm 1947 và sau đó được CHNDTH đặt
tên ít nhạy cảm chính trị hơn là Huangyan (黄岩岛 – Hoàng
Nham [đá màu vàng]) vào năm 1983.

Hiện nay, chính quyền TQ dường như hoàn toàn không biết về
điều này. Việc biện hộ khuôn mẫu chính thức về chủ
quyền "không thể tranh cãi" của TQ đối với biển Đông
bắt đầu bằng cụm từ "người TQ là những người đầu
tiên phát hiện và đặt tên cho quần đảo Nam Sa". Trên thực
tế, "người TQ" chỉ sao chép các tên này từ người Anh.
Ngay cả từ "Nam Sa" (có nghĩa là "cát phía Nam") cũng đã
chạy vòng quanh trên bản đồ TQ. Năm 1935 tên này đã được
sử dụng để mô tả các khu vực biển cạn, được biết tên
tiếng Anh là "Macclesfield Bank" (lại theo tên một tàu khác
của Anh). Năm 1947, tên Nam Sa đã được chuyển về phía nam
trên bản đồ TQ để chỉ quần đảo Trường Sa.

Một cuộc xem xét đầy đủ mỗi biện minh mà phía TQ đưa ra
sẽ tốn nhiều trang giấy nhưng đủ để nói rằng chưa hề
thấy có bằng chứng khảo cổ học nào về việc có tàu TQ
chạy trên biển này trước thế kỷ 10. Cho đến thời điểm
đó, tất cả việc giao thương và khai thác đều do các tàu
thuyền Malaysia, Ấn Độ và Ả Rập thực hiện. Các tàu này có
thể, vào lúc này lúc khác, có chở khách TQ. Các chuyến đi
được bàn luận nhiều của các "đô đốc thái giám" TQ kể
cả Zheng He (Trịnh Hoà), kéo dài tổng cộng khoảng 30 năm, cho
đến thập niên 1430. Sau đó, mặc dù các thương nhân và ngư
dân chạy tàu thuyền tới lui vùng biển này, nhà nước TQ không
bao giờ đến các vùng biển sâu lần nào nữa cho mãi đến khi
chính phủ Quốc dân đảng được Mỹ và Anh tặng cho một số
tàu thuyền vào cuối Đệ Nhị Thế chiến.

Lần đầu tiên quan chức chính phủ TQ đặt chân lên một
đảo thuộc quần đảo Trường Sa là ngày 12 tháng 12 năm 1946,
vào thời điểm đó cả hai đế quốc Anh và Pháp đã đưa ra
các tuyên bố chủ quyền ở vùng biển này. Một phái đoàn TQ
cấp tỉnh đã đến quần đảo Hoàng Sa một vài thập niên
trước đó vào ngày 6 tháng 6 năm 1909, thực hiện điều có vẻ
như là một cuộc thị sát trong một ngày, nhờ hai thuyền
trưởng Đức mượn của hãng buôn Carlowitz dẫn đường. Nhiều
đối đầu quốc tế phát xuất từ tuyên bố đơn sơ này.

Đây là bức tranh toàn cảnh lịch sử hiện ra từ các nghiên
cứu độc lập tốt nhất. Nhưng khi nói điều này cho bất kỳ
người TQ nào nghe, thì họ sẽ phản ứng với sự ngờ vực.
Từ phòng học đến sảnh đường ngoại giao, một ký ức chính
thức về chủ quyền của TQ trên biển đã trở thành một
thực tế được xác lập. Làm sao mà một ý thức quốc gia về
quyền được hưởng đối với biển Đông lại phát triển
rất mạnh từ một nền móng lung lay như vậy?

Câu chuyện có thể bắt đầu với cuộc chiến tranh nha phiến
lần một vào năm 1840 và điều mà bây giờ người TQ gọi là
"thế kỷ quốc sỉ (thế kỷ nhục nước)" tiếp sau đó. TQ
rõ ràng gánh chịu đau thương dưới bàn tay của đế quốc
phương Tây và Nhật Bản. Hàng ngàn người bị giết, nhiều
thành phố đã bị thuộc địa hoá và chính phủ rơi vào vòng
nợ nần các ngân hàng quốc tế.

Nhà địa lý William Callahan và những người khác đã vạch ra
cách mà phe Quốc dân đảng (QDĐ) và Cộng sản, như là một
phần của cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị của
nước ngoài, đã cố tình gieo trồng một ý thức về vi phạm
lãnh thổ để động viên nhân dân như thế nào. Từ những năm
1900 trở đi, các nhà địa lý của TQ như Bai Meichu (Bạch Mi
Sơ), một trong những người sáng lập Hội Địa lý TQ, bắt
đầu vẽ các bản đồ cho công chúng TQ thấy các nước đế
quốc đã xâu xé lãnh thổ TQ tới mức nào.

Những "bản đồ quốc sỉ" này cho rằng lãnh thổ hợp lẽ
của TQ bao gồm tất cả các nước chư hầu trước kia đã
từng triều cống hoàng đế Trung Hoa. Các bản đồ này bao gồm
bán đảo Triều Tiên, nhiều vùng rộng lớn của Nga, Trung Á,
Hymalaya, và nhiều khu vực Đông Nam Á. Các đường được vẽ
trên các bản đồ để đối chiếu các khu vực rộng lớn của
đế quốc xưa với tình trạng teo lại của đất nước này.
Tai hại là sau khi ủy ban chính thức của TQ đổi tên các đảo
trên biển Đông vào năm 1935, một trong những đường này đã
được vẽ ra vòng quanh biển này. Đây là điều mà bây giờ
được gọi là đường "chữ U" hoặc "9 vạch" choán 80%
biển Đông và tất cả các đảo bên trong nó. Tai nạn bản
đồ đó, dựa trên việc đọc sai lịch sử Đông Nam Á, lại
là cơ sở cho yêu sách chủ quyền hiện tại của TQ.

TQ rõ ràng gánh chịu sự sỉ nhục dưới bàn tay của người
nước ngoài độc đoán nhưng nhà nước hiện đại nổi lên
từ đống đổ nát của nhà Thanh và các cuộc nội chiến sau
đó đã tìm thấy niềm an ủi trong những ghi nhớ sai lầm vốn
ít liên quan đến những gì thực sự xảy ra. Như bất kỳ
người nào đi xem triển lãm "Con đường hồi sinh" mới tại
Bảo tàng Quốc gia TQ ở quảng trường Thiên An Môn sẽ thấy
ra, hội chứng nhớ lầm này là một thành phần cốt lỏi trong
huyền thoại làm nên tính chính đáng của Đảng Cộng sản:
huyền thoại đảng cứu đất nước thoát khỏi sỉ nhục.

Các viện nghiên cứu và các ủy ban của chính phủ Quốc dân
Đảng trong nửa đầu thế kỷ 20 đã để lại Đảng Cộng
sản một "lịch sử chính thức" sai lầm có thể chứng minh
được. Chính điều này, chứ không phải là mối đe dọa của
đám đông theo chủ nghĩa dân tộc trên đường phố làm cho
tranh chấp Biển Đông rất khó giải quyết và nguy hiểm. Nhưng
nếu thừa nhận sự sai trái của nó, sẽ loại bỏ một nền
tảng cốt lỏi vị thế của Đảng trong đỉnh cao của xã hội
TQ.

Rủi thay, không có cách dễ dàng nào khác cho xung đột đang
tiếp diễn trên biển Đông. Không bên nào muốn kích động
một cuộc xung đột hoàn toàn nhưng không ai sẵn sàng giảm
bớt căng thẳng bằng cách điều chỉnh yêu sách lãnh thổ
phải chăng hơn. Một số quan chức TQ đã bí mật thừa nhận
sự vô lý về pháp lý của việc duy trì yêu sách "đường
chữ U" này. Nhưng cũng chính những quan chức này lại nói
rằng họ không thể chính thức điều chỉnh yêu sách này vì
những lý do chính trị (sự chỉ trích trong nước sẽ rất
lớn). Thế thì làm thế nào để có thể thuyết phục người
dân TQ có một cái nhìn khác về lịch sử biển Đông?

Có lẽ câu trả lời nằm ở Đài Loan. Các cơ hội cho một
cuộc tranh luận tự do hơn về lịch sử TQ ở Đài Loan lớn
hơn ở đại lục rất nhiều. Hiện đã có một số học giả
"bất đồng chính kiến" đang xem xét lại các khía cạnh
của lịch sử thế kỷ 20. Đài Loan cũng là nơi các văn thư
của THDQ, chính phủ vẽ nên "đường chữ U" lần đầu,
được lưu trữ. Một cuộc kiểm tra thấu đáo và mở rộng
quá trình lộn xộn mà theo đó đường này được vẽ ra có
thể thuyết phục những người làm ra dư luận phải xem xét
lại một số huyền thoại của Quốc dân Đảng mà từ lâu họ
đã tuyên bố như là chân lý trong kinh.

Có lẽ lý do mạnh nhất để bắt đầu tại Đài Loan là chính
quyền Bắc Kinh sợ rằng bất kỳ sự nhượng bộ nào họ có
thể đưa ra, sẽ bị lớn tiếng chỉ trích tại Đài Bắc. Nếu
nhà chức trách ở đó muốn xuống thang sự xung đột do việc
chép sử trên biển Đông, thì sẽ dễ dàng hơn nhiều để
chính quyền Bắc Kinh làm tương tự như vậy. Chìa khóa cho một
tương lai hòa bình ở châu Á nằm trong việc xem xét trung thực
và có tính phê phán quá khứ.

<em>Quyển sách <strong>The South China Sea and the struggle for power in
Asia</strong> (Biển Đông và cuộc đấu tranh giành quyền lực ở
châu Á) của Bill Hayton sẽ được Đại học Yale xuất bản vào
tháng 9</em>.

_______________

(1) Lưu ý rằng đối với âm R người Hoa thường chuyển thành
âm L (ví dụ: Roma –&gt; Luó Mă [La Mã], Rousseau–&gt; Lú Suō
[Lư Thoa]… mới thấy Si-pu-la-te-li [tư phổ lạp đặc lợi -
斯普拉特利] là phiên âm của S-p-ra-t-ly, hoặc Pai-la-su [phách
lạp tô - 柏拉苏] là Pa-ra-cel… Qua đó cũng thấy khi chuyển
thêm qua âm Hán Việt thì thường là cách biệt quá xa so với
âm gốc như mấy ví dụ vừa nêu




***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140712/bill-hayton-hoi-chung-nho-lam-cua-trung-quoc),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét