Bảo tồn môi sinh: Cuộc chiến tranh giữa hai thế giới

Nói đến môi sinh là chúng ta nghĩ ngay đến những những bản
tin xấu. Các nhà sinh vật học bảo rằng chúng ta đang ở vào
thời kì hủy diệt lần thứ 7, và lần này nguyên nhân và lỗi
lầm là của chính chúng ta, con người.

Con người săn bắt một số động vật như voi cổ ma-mút, chim
dodo, chim bồ câu viễn khách … đến nổi chúng trở nên tuyệt
chủng. Nhưng săn bắt không phải là nguyên nhân duy nhất. Sự
hủy hoại lớn nhất mà con người phải chịu trách nhiệm là
sự tiêu hủy môi trường sống mà các loài vật khác phụ
thuộc vào để tồn tại: Đó là nạn phá rừng nhiệt đới.

Rừng là một tài nguyên quan trọng của trái đất. Rừng chứa
khoảng phân nửa các loài vật thế giới, đóng vai trò cái hồ
chứa carbon dioxide, và cung cấp các nguyên liệu từ gỗ đến
trái cây, động vật và thuốc men. Song, mỗi năm có khoảng
170.000 km2 rừng nhiệt đới bị hủy diệt. Một vài nước tiêu
hủy khoảng 5% rừng mỗi năm.Các nước khác thì thay thế rừng
tự nhiên bằng rừng nhân tạo, tức là trồng cây bạch đàn
– cung cấp gỗ và làm hầm cho carbon dioxide, nhưng không thể
cung cấp như rừng tự nhiên. Trong khi rừng bị tiêu hủy thì
thú vật cũng dần dần biến mất – chết đi. Biểu tượng
của Tổ chức WWF (World Wide Fund for Nature) là con gấu Panda, bởi
vì ngày nay trên thế giới chỉ còn trên dưới 1000 con, phần
lớn là ở Trung Quốc. Nhóm lớn nhất còn sống sót chỉ
khoảng 70 con. Nếu tốc độ phá hủy rừng tre hiện tại tiếp
tục thì chỉ cần 10 năm nữa là chúng ta không còn nhìn thấy
một con gấu Panda nào.

Rừng và "cư dân" rừng không phải là những nạn nhân duy
nhất. Phân nửa vùng đầm lầy cũng đã bị hủy diệt trong
vòng 100 năm qua. Khoảng 2/3 vùng biển san hô đã bị con người
làm biến mất, 80% đất trồng cỏ đang bị xuống cấp, 50%
muối đầm lầy và rừng đước hoặc bị tiêu hủy, hoặc bị
thay đổi, 2% đất liền đang có nguy cơ trở thành sa mạc, và
nước ngầm đang bị xuống cấp ở mọi nơi. Các rặng núi như
Hi Mã đến Andes và Alps đang bị xuống cấp làm thay đổi thủy
triều. Khai thác biển cũng làm cho nguồn tài nguyên này càng
ngày càng cạn kiệt. Vì những tàn phá này, khoảng 20% các loài
vật sống trong nước ngọt bị chết mất hay đang bị diệt
chủng. Nếu tỉ lệ hủy diệt như hiện nay không dừng lại,
phân nửa các loài vật sẽ không còn có mặt trên trái đất
vào cuối thế kỉ 21.

Dĩ nhiên, chúng ta có thể nhảy đầm với những con số thống
kê như thế để thấy thảm cảnh do chính con người gây nên.
Nhưng những thống kê đó là những có số thô, và dựa vào
những giả định quan trọng là những loài vật mà chúng ta
chưa biết cũng bị tiêu diệt theo cùng một tốc độ như hiện
nay. Giả định này có thể đúng, nhưng cũng có thể sai. Ngoài
ra, cần phải kể đến phản ứng của chúng ta: Chúng ta than
vãn cái chết của chim cưu, nhưng chúng ta không thương tiếc
những con vi khuẩn gây ra bệnh đậu mùa. Nhưng những tiên
đoán do khoa học bảo tồn môi sinh thường mang tính khẳng
định, không nhân nhượng. Nếu chúng ta khoanh tay đứng nhìn,
con cháu chúng ta sẽ thừa hưởng một thế giới với ít sự
sống hơn và môi trường sẽ tồi tệ hơn.

<strong>Toàn cầu hóa chiến tranh</strong>

Người ta thường nói đi nói lại rằng con người đang hủy
hoại trái đất và vấn đề này gây ảnh hưởng đến tất
cả chúng ta. Có đúng thế không? Ngay cả một biến cố hạt
nhân nguyên tử cũng không hủy hoại trái đất. Sự đa dạng
sinh vật sẽ nổi lên từ những đống tro, cũng như chúng đã
từng nổi lên sau các lần hủy diệt trước đây.Hệ thống
môi sinh cũng sẽ tiến hóa. Trái đất sẽ tiếp tục vận hành
cho đến khi nào mặt trời có thể nuốt ngụm trái đất trong
vòng 5 tỉ năm. Hoạt động của chúng ta không giết chết trái
đất, nhưng làm thay đổi trái đất. Câu hỏi cần đặt ra là
sự thay đổi đó làm cho cuộc sống tốt hơn hay tồi tệ hơn
– hay không có gì thay đổi. Nói cho cùng, biến cố 65 triệu
năm trước đây làm cho trái đất tốt hơn, tồi hơn, hay chỉ
là một sự va chạm? Trên phương diện khoa học, chúng ta không
thể nào giả định một cách mù quáng rằng bảo tồn môi sinh
là một điều tốt; trước hết, chúng ta cần phải có bằng
chứng về một lợi ích phổ quát từ việc cứu sống trái
đất từ Cuộc hủy diệt lần thứ bảy.

Nếu có một phát hiện khoa học nào làm cho con người đoàn
kết lại thì đó là khám phá về mối đe dọa bị diệt
chủng. Nhưng ngạc nhiên thay, những lí giải khoa học để cứu
thế giới, cứu trái đất khỏi thảm họa chẳng gây ra ấn
tượng cho bất cứ ai. Ngược lại, ở vài nơi, nó là nguồn
gốc của sự xung đột ý kiến giữa các quốc gia. Trong cuộc
họp thượng đỉnh về trái đất ở Rio de Janeiro vào năm 1992,
mục đích chính là nhằm lèo lái trái đất qua những cơn phong
ba, trở ngại, mà giới khoa học từng tiên đoán; ấy thế mà
sau cùng, Hội nghị chỉ cho thấy một sự chia rẽ trầm trọng
giữa các quốc gia, chẳng ai đồng ý với một giải pháp chung
cả. Sự chia rẽ này vẫn còn tồn tại và chưa có dấu hiệu
gì nó sẽ biến đi trong một tương lai gần, bất kể các nhà
khoa học tiên đoán ra sao.

Nguyên do chính cho tình trạng chia rẽ này là áp lực bảo tồn
môi sinh mà các nước đã phát triển (chủ yếu là thế giới
phương Tây và Bắc Mĩ) dồn xuống các quốc gia đang phát
triển, chủ yếu là ở Á châu, Phi châu, và Nam Mĩ. Tại sao?
Tại vì phần lớn những đa dạng sinh học hiện đang nằm trong
các nước đang phát triển, đặc biệt là ở Á châu, Phi châu,
và Châu Mĩ Latin. Các nước nghèo này xem áp lực của các
nước giàu có là một hành động chính trị, mang tính phá
hoại, và đạo đức giả. Các nước nghèo cho rằng cái khoa
học bảo tồn môi sinh không những rất yếu mà còn có khuynh
hướng chính trị: bảo tồn môi sinh chỉ là một phương tiện
chính trị (cũng giống như các phương tiện khác như "nhân
quyền" chẳng hạn) để các nước Tây phương sai khiến các
nước nghèo.

Một bất đồng ý kiến lớn khác giữa hai thế giới là vấn
đề nóng toàn cầu (global warming). Các nhà khoa học thuộc các
nước đã phát triển lí giải rằng hiện tượng nóng toàn
cầu là một thực tế. Mặc dù khoa học đằng sau lí giải này
rất mong manh, nhưng họ đã thành công thuyết phục chính phủ
các nước đã phát triển và công chúng rằng họ nói đúng.
Từ đó, các nước đã phát triển đang ra sức nêu vấn đề
chung mà theo họ các quốc gia trên thế giới phải cùng nhau
chung lưng giải quyết. Giải quyết bằng cách nào? Các nước
đang phát triển phải ngưng phá rừng, phải giảm thiểu các
hoạt động sản xuất kĩ nghệ (tức giảm phun khói ra bầu
trời), phải quét dọn carbon dioxide do kĩ nghệ sản xuất thải
ra. Ngược lại, các quốc gia đang phát triển cho rằng cái khoa
học đằng sau hiện tượng nóng toàn cầu còn quá mong manh;
nhưng họ còn quan niệm rằng nếu những tiên đoán của giới
khoa học là đúng thì vấn đề là do các nước đã phát triển
gây ra, chịu lấy hậu quả; vậy họ (các nước đã phát
triển) phải tự mình mà giải quyết lấy, chứ chẳng ăn nhằm
gì đến thế giới đang phát triển.

Các nước đã phát triển muốn duy trì sự đa dạng môi sinh
(để ngăn chận cuộc Hủy diệt thứ Bảy), và ý muốn này
chỉ có thể thực hiện thành công nếu các nước đang phát
triển phải vâng lời họ, làm theo những gì mà các nước Tây
phương nói. Và đây cũng là một bất đồng quan điểm giữa
hai thế giới đã phát triển và đang phát triển. Các nước
đang phát triển không mấy ấn tượng với quan điểm này; họ
muốn có quyền như các nước đã phát triển đã từng hưởng,
tức là quyền được phát triển kinh tế, khai thác tài nguyên
thiên nhiên theo cách thức mà họ nghĩ là tốt nhất cho dân
chúng của họ.

<strong>Rừng xưa xanh lá</strong>

Có một vài khác biệt giữa những gì mà các nhà khoa học tính
toán là cần thiết để chống lại tình trạng nóng toàn cầu
và vấn đề đa dạng môi sinh. Để chống lại tình trạng nóng
toàn cầu, các nước nghèo phải chịu ảnh hưởng nhiều hơn
các nước giàu có. Những khai thác rừng phải ngưng lại ngay
bây giờ trong các nước đang phát triển. Còn vấn đề bảo
vệ sự đa dạng môi sinh, các nhà môi trường học cho biết
từ các bở biển California (Mĩ) đến các rừng nhiệt đới ở
Phi châu, chỉ có 1.4% diện tích là nhà của 1/3 các loài vật
cần bảo vệ. Như vậy, các nước đang phát triển phải đứng
ra gánh vác vấn đề này?

Do đó, lí do để bảo vệ một số nhỏ loài vật như thế
rất yếu ớt. Cây cối và thú vật từng sống một cách nguy
hiểm khi môi trường sống của chúng trở nên quá rời
rạc.Thông thường, chúng không cần những khoảnh đất rộng
lớn để tự duy trì và cần những vòng đai xanh để đi lại.
Nếu một loài vật bị chết vì thiếu đất sống, các loài
vật khác cũng chịu chung số phận. Khi loài vật bị tuyệt
chủng, 30 loài vật khác cũng tuyệt chủng theo, vì không có môi
trường sống. Nếu một động vật bị tuyệt chủng, thì
nhiều dã thú khác cũng chết theo vì chúng không còn nguồn
thực phẩm.

Giới khoa học môi trường khẳng định rằng tình trạng nóng
toàn cầu và tuyệt chủng chỉ có thể ngăn chận được nếu
như các nước đang phát triển phải có hành động tích cực:
dành ra một khoản rừng tự nhiên rộng lớn ngay từ bây giờ,
và cấm không cho con người đến gần khu rừng này. Chỉ bằng
cách này thì thế giới mới có thể quét sạch được carbon
dioxide; chỉ bằng cách này thì các cây cỏ quí và thú vật
hiếm mới có môi trường để tồn tại.

Thoạt đầu nghe qua thì cũng có lí, song xét kĩ thì cách lí
luận này cũng có vấn đề.Mức độ đa dạng môi sinh, một
phần lớn, tập trung vào các nước nghèo, bởi vì những nơi
này có khí hậu lí tưởng (nhiệt đới) để các loài vật sinh
sôi nẩy nở. Thực ra, các nước đã phát triển đã từng có
một lịch sử hủy diệt môi sinh lâu dài. Rất lâu dài. Họ
từng khai thác một cách không mệt mỏi tài nguyên thiên nhiên,
lấy nguyên liệu, khai khẩn đất để sống, trồng trọt, xây
dựng thành phố và phát triển kĩ nghệ. Chính nhờ vào phá
rừng, các nước Tây phương có địa vị kinh tế ngày nay.Kĩ
nghệ hóa và của cải quốc gia mà họ có ngày nay là do phá
rừng, ô nhiễm sông ngòi, và biển mà họ từng tiến hành trong
mấy thế kỉ trước.

Rừng không phải lúc nào cũng rậm rạp. Hai mươi ngàn năm về
trước, giữa thời đại băng giá, Âu châu và Bắc Mĩ bị bao
phủ bằng tuyết, chứ không phải cây cối. Lúc đó, chỉ có
vùng nhiệt đới Á châu là ít chịu ảnh hưởng. Ngay cả vùng
Amazon (Nam Mĩ) cũng chỉ thưa thớt chút ít diện tích rừng,
chứ không phải rậm rạp với những rừng gỗ sồi như ngày
nay. Nhưng khi thế giới ra khỏi thời băng giá (khoảng 10 ngàn
năm về trước) rừng bắt đầu bành trướng và bao trùm gần
60% diện tích trái đất. Kể từ đó, con người phá rừng để
trồng trọt và chăn nuôi, sinh sống, diện tích rừng bắt đầu
thu nhỏ lại. Ngày nay, rừng chỉ bao phủ khoảng 25% diện tích
trái đất, và phần lớn diện tích rừng bị phá đã từng
xảy ra ở thế giới đã phát triển, những nước đang lớn
tiếng yêu cầu thế giới đang phát triển phải ngưng phá
rừng!

Phần lớn những đợt phá rừng diễn ra vài trăm năm trước
thế kỉ 20. Kể từ đó, quá trình phá rừng đã được giảm
dần, hay ngưng hẳn. Nhờ vào các chương trình tái phát triển
rừng, các nước Âu châu và Bắc Mĩ có thể khoe khoang rằng
họ đã chấm dứt thiên niên kỉ thứ hai với nhiều cây cối
hơn 100 năm trước. Những rừng mới này, thực ra, chỉ là
những rừng ma đã hiện diện từ cuối thiên niên kỉ thứ
nhất.Người Mĩ đã tiêu diệt hoàn toàn loài chim bồ câu
"passenger"; người Anh đã từng làm cho loài chó sói và gấu
tuyệt chủng trước khi Trung Quốc bắt đầu đe dọa đến các
chú gấu Panda. So với mức độ phá rừng của các nước đã
phát triển đã từng hủy hoại, mức độ hủy hoại rừng trong
các nước đang phát triển chẳng thấm vào đâu.

Nhưng sự hủy hoại sự sống trong thế giới đã phát triển
vẫn chưa chấm dứt. Dung lượng biển Aral, một vùng nước
ngọt khổng lồ ở Trung Á, đã giảm một nửa so với 50 năm
trước đây. Các nhà kế hoạch Nga từng tuyên bố (1987) rằng
"Cứ để cho biển Aral chết một cách đẹp đẽ, vì nó hết
sức vô dụng". Kể từ thập niên 1960s, Anh đã xây thêm
nhiều vùng đất mới mà diện tích bằng cả xứ Wales. Ở Mĩ,
trong các bang như Ohio chẳng hạn, khai khẩn đất / rừng phát
triển gấp 5 lần so với phát triển dân số. Chỉ có Nhật là
không phát triển đất đai thêm, còn trong các nước đã phát
triển khác thì nhịp độ khai thác đất đai vẫn còn đang
diễn ra.

Kể từ 1981, diện tích đất đai dành cho trồng trọt giảm
khoảng 7%. Gần đây, do cải tiến năng suất nông nghiệp, sự
giảm sút diện tích rừng có vẻ chậm hơn. Nhưng tăng năng
suất cũng có giới hạn, và trong tương lai, có thể nạn phá
rừng sẽ có chiều hướng gia tăng.

Phá hoại luôn luôn dễ hơn là khôi phục. Ngay cả trong các
nước đã phát triển, việc ngăn chận nạn phá rừng là một
công việc rất khó khăn và tốn kém. Khó khăn ở đây là xuất
phát từ sự va chạm giữa lợi ích thương mại và bảo tồn
môi sinh.Chẳng hạn như ở Mĩ, chính phủ phải vất vả với
việc khôi phục một khu rừng gần 11,700 km2 ở Florida, vì có
sự xung đột giữa kĩ nghệ du lịch và bảo tồn môi sinh.Trong
thế kỉ qua, người dân đào kênh, làm thay đổi thủy triều,
phát triển đô thị và nông nghiệp, và trong quá trình này, con
người làm cho hệ thống sinh hóa gần như bị hủy diệt. Gần
70% các sinh vật trong khu vực hoặc đã biến mất dạng, hoặc
đang ở trong tình trạng nguy hiểm. Với hệ thống cung cấp
nước cho Florida và một kĩ nghệ du lịch 14 tỉ hàng năm có
nguy cơ sụp đổ nếu muốn khôi phục con sông. Do đó, chính
phủ vẫn chưa quyết tâm …

Thành ra, không ai ngạc nhiên khi các nước đang phát triển, các
nước nghèo hơn không mấy ấn tượng trước những áp lực
từ các nước giàu có ở Tây phương. Các nước nghèo xem rừng
là tài nguyên của họ, họ có quyền khai thác để giúp nền
kinh tế nghèo nàn của họ phát triển, để nâng cao đời sống
kinh tế cho người dân.Và điều này có nghĩa là họ phải bán
gỗ, và tận dụng đất đai cho trồng trọt. Các quốc gia đang
phát triển hoàn toàn có lí do khi họ đề nghị rằng nếu
muốn giảm tình trạng nóng toàn cầu, thì các nước đã phát
triển nên ngưng phun khói trước, và nên khôi phục lại những
thửa rừng mà họ đã phá hủy trước đây. Hãy để cho các
nước giàu có này chịu áp lực. Tại sao lại làm áp lực cho
các nước nghèo?

<strong>Nhân mãn và bể dâu</strong>

Một trong những lí do con người hủy hoại rừng là để tự
nuôi sống con người và làm nhà cho dân số đang càng ngày càng
gia tăng. Dân số càng nhiều, việc phá rừng càng cao. Đó là xu
hướng mà các nước Âu châu từng kinh qua, và các nước đang
phát triển đang gặp phải. Dân số thế giới gia tăng một
cách liên tục kể từ khi hành trình tiến hóa con người bắt
đấu. Đà gia tăng dân số đạt đỉnh cao nhất vào năm 1965,
với tỉ lệ 2.5% mỗi năm. Nhưng sau đó, tỉ lệ này giảm
xuống dần và nay chỉ còn khoảng 1.3% / năm, và vẫn còn đang
giảm nhanh. Theo dự đoán của các nhà dân số học, dân số
thế giới sẽ lên đến 10 tỉ vào năm 2050 (hiện nay là 6 tỉ),
và có lẽ sẽ đến mức 11 tỉ vào cuối thiên niên kỉ thứ
ba. Đây là một tin mừng, nhưng những con số này còn có nghĩa
là thế giới phải tìm cách nuôi thêm một vài tỉ miệng ăn,
phải tìm đất cho họ sống và làm việc trong vài trăm năm
sắp đến.

Chỉ 200 năm trước đây, tỉ lệ sinh sản giữa hai thế giới
[đã phát triển và đang phát triển] không khác nhau bấy nhiêu:
mỗi phụ nữ sinh khoảng 7 con. Đến thế kỉ 18 trong các nước
Âu châu, tỉ lệ này giảm xuống và đến nay chỉ còn 2 hay ít
hơn cho mỗi phụ nữ. Tuy nhiên, trong thế giới đang phát triển
tỉ lệ này vẫn chưa thay đổi bao nhiêu, nhất là ở các
nước Hồi giáo và Ả Rập. Hiện nay, phụ nữ Á châu và châu
Mĩ Latin trung bình sinh khoảng 2-3 con, nhưng trong thế giới Hồi
giáo, tỉ lệ này là 7 con! Sự khác biệt này đưa đến vấn
đề mất thăng bằng trong nông nghiệp.Chẳng hạn như vào thập
niên 1950s, dân số Âu châu cao gấp 3 lần dân số Phi châu; ngày
nay, hai lục địa này có cùng dân số; nhưng đến 2050, phi châu
sẽ có dân số cao gấp 3 lần dân số Âu châu. Hiện nay, trong
tổng số gia tăng dân số hàng năm, 96% là ở trong các nước
đang phát triển. Thành ra, áp lực để tìm đất sống và thực
phẩm rất khẩn thiết trong thế giới đang phát triển.

Bởi vì dân số gia tăng quá nhanh trong thế giới đang phát
triển, giới khoa học bảo tồn môi sinh đặt vấn đề kế
hoạch hóa gia đình lên ưu tiên hàng đầu trong các nước
nghèo. Cái giả định đằng sau của chiều hướng này là tỉ
lệ sinh sản trong các nước đang phát triển và các nước đã
phát triển khác nhau là do giáo dục (kế hoạch hóa gia đình,
kiểm soát sinh sản). Do đó, một bước quan trọng đầu tiên
là cải tiến trình độ giáo dục trong các nước nghèo. Tất
nhiên, có một sự ngạo mạn đằng sau cái chiến lược này –
các nước Tây phương tự khen ngợi mình rằng học cao hiểu
rộng và có khả năng tự kiềm chế sinh sản – nhưng trong
thực tế, giáo dục không phải là yếu tố quan trọng. Tỉ lệ
sinh sản trong các nước đã phát triển giảm trước khi có
mối quan tâm về nhân mãn.

Sự khác biệt về tỉ lệ sinh sản giữa các quốc gia Âu châu
không liên quan gì đến ngừa thai. Tây Ban Nha có tỉ lệ sinh
sản thấp nhất nhưng cũng ít dùng các phương pháp ngừa thai
nhất. Ở Nhật cũng thế. Yếu tố làm cho tỉ lệ sinh sản
giảm có lẽ là tuổi thọ trung bình của người dân.

Mối tương quan giữa tỉ lệ sinh sản và tuổi thọ trung bình
rất cao. Xuyên suốt lịch sử con người, phụ nữ sinh sản số
lượng con cái sao cho hai hay ba người con sống sót đến tuổi
trưởng thành. Trong môi trường mà xác suất sống sót cao, phụ
nữ ít sinh con hơn trung bình. Đầu thế kỉ 20, lúc đó chưa có
kĩ thuật ngừa thai, phụ nữ trong các xã hội sống bằng nghề
săn bắt, nơi mà trẻ em có xác suất sống sót khá cao, phụ
nữ chỉ sinh trung bình 3 đến 4 con. Nhưng nếu họ cảm thấy
cơ hội sống còn không cao, họ sẽ sinh nhiều con như trong các
nước đang phát triển hiện nay, hay trong các xã hội Âu châu
thời thế kỉ 17 và 18.

Hội nghị dân số năm 1994 ở Cairo kết luận rằng phương pháp
ngừa thai tốt nhất là một nền kinh tế thịnh vượng và xã
hội an toàn. Trong các xã hội hiện đại, xác suất sống sót
tùy thuộc vào sự thịnh vượng. Ngay cả các nước như Anh,
trẻ em sinh ra trong các gia đình lao động có tỉ lệ chết
trước khi trưởng thành cao gấp 2 lần so với các trẻ em sinh
ra trong các gia đình giàu có. Những con số này cho thấy nếu
xác suất tử vong trước khi trưởng thành trong các dân số
thuộc các quốc gia đang phát triển chưa giảm, tỉ lệ sinh
sản cũng sẽ còn tăng cao như hiện nay.Do đó, cái ưu tiên hàng
đầu trong các quốc gia này là phát triển kinh tế.

<strong>Ăn xài quá mức</strong>

Không chỉ làm áp lực giảm dân số trong thế giới đang phát
triển, các nước đã phát triển còn tìm cách khuyên các nước
nghèo giảm sản xuất kĩ nghệ. Giữa năm 1990 và 1995, Trung
Quốc, Ấn Độ, Nam Dương và Ba Tây tăng lượng xuất carbon
dioxide 20%; Thổ Nhĩ Kì, Nam Hàn và Mễ Tây Cơ tăng trên dưới
20% vào năm 2010. Các nước đã phát triển khoe với thế giới
rằng họ đã giảm lượng thải carbon dioxide và sử dụng năng
lượng một cách hữu hiệu hơn.

Nhưng thế giới đang phát triển suy nghĩ khác: đó là vấn đề
tiêu thụ quá mức trong thế giới đã phát triển. Có thể nhìn
và hiểu vấn đề như sau: dân số trong các nước đã phát
triển chỉ chiếm 20% dân số thế giới, nhưng họ lại tiêu
thụ 80% tài nguyên thế giới và sản xuất 80% ô nhiễm trên
thế giới. Chỉ riêng mức độ tiêu thụ điện ở New York đã
cao hơn mức độ tiêu thụ cả lục địa châu phi cộng lại.
Một người Mĩ trung bình "cống hiến" vào "hiệu ứng nhà
kính" (greenhouse effect) cao gấp 8 lần so với người Trung
Quốc, và 20 lần so với người Ấn Độ. Trong tương lai, 9 trong
10 trẻ em sinh ra sẽ ở các nước đang phát triển, nhưng 9 trẻ
em đó vẫn tiêu thụ không bằng một phần ba tài nguyên thế
giới mà một em bé ở các nước đã phát triển tiêu thụ.
Tiêu thụ quá mức, do đó, là một vấn đề lớn, lớn hơn cả
chính sách môi sinh của các nước đã phát triển. Thành ra,
vấn đề không phải là các nước đang phát triển phải bảo
vệ môi sinh mà là các nước đã phát triển phải giảm tiêu
thụ.

Nếu sự đe dọa tình trạng nóng toàn cầu là có thật và quan
trọng, các nước trong thế giới đang phát triển có thể thay
đổi thái độ. Nhưng hai mối đe dọa mà các nhà khoa học Tây
phương tiên đoán – phá rừng và vấn đề mất đất đai cho
trồng trọt vì mực nước biển dâng cao – không có tính
thuyết phục cao. Sự mất mát các vùng đất trồng trọt ven
biển có lẽ không có ảnh hưởng gì so với so với tình trạng
mất rừng. Các nghiên cứu trong thập niên 19902 cho thấy diện
tích sa mạc không tăng trong thế kỉ 20. Lượng cát gia tăng
rồi sụt trước sự thay đổi lượng mưa, nhưng sự thay đổi
này không dính dáng gì đến hiện tượng nóng toàn cầu. Thành
ra, các nước trong thế giới đang phát triển nghĩ rằng vấn
đề được các nước đã phát triển đặt ra là vì động cơ
chính trị chứ không phải khoa học.

Năm 1992, Mĩ không kí kết vào Hiệp ước Rio giảm lượng carbon
dioxide. Tám năm sau tại Hague, Mĩ vẫn từ chối kí vào hiệp
ước. Như vậy, theo các nước đang phát triển, thế giới Tây
phương đã hành xử một cách đạo đức giả: nói một đằng
làm một nẻo.

Trước mắt, với một nền kinh tế phát triển cao và an sinh xã
hội khá cao, các nước đã phát triển có thời gian suy nghĩ và
quan tâm đến tương lai, mà thực ra là mối đe dọa đến sự
thịnh vượng của họ. Trong khi đó, với tình trạng kinh tế
nghèo nàn và nên an sinh xã hội còn thấp, mối quan tâm hàng
đầu của các nước đang phát triển là phát triển kinh tế.
Sự khác biệt này làm cho các nước đã phát triển chê thế
giới đang phát triển là không biết suy nghĩ xa, không có kế
hoạch phát triển lâu dài. Các nước đang phát triển phản
hồi rằng kế hoạch phát triển lâu dài là một cái gì xa xí
đối với họ. Dân chúng trong các nước nghèo sẽ tìm mọi
cách để tận dụng môi trường tự nhiên để sống sót, bất
kể hậu quả môi trường tương lai ra sao.Làm sao họ có thể
nghĩ đến chuyện sinh thái và môi sinh cho con cháu đời sau khi
mà cuộc sống của chính họ đang bị đe dọa – ngày hôm nay.

Do đó, thái độ của các nước đang phát triển trước tình
trạng nóng toàn cầu rất đơn giản: Nếu các nước đã phát
triển muốn các nước nghèo trong thế giới đang phát triển
làm sạch carbon dioxide trong tương lai thì họ phải trả công.
Người dân sống trong các nước nghèo phải đấu tranh cho
miếng ăn từng ngày, chắc chắn sẽ không ấn tượng với thế
giới đã phát triển trong nỗ lực tiêu ra hàng trăm triệu đô
la để cứu những con voi hay các loài hoa lan hiếm, ngoại trừ
họ cảm thấy có lợi ích trực tiếp và thiết thực cho một
nỗ lực như thế.

<strong>Du lịch xanh</strong>

Có thể nói cái lí do mà thế giới đã phát triển kêu gọi
bảo vệ môi sinh mang tính tình cảm hơn là khoa học. "Chúng ta
cần phải bảo tồn môi sinh để cho con cháu chúng ta thừa
hưởng sau này" – đó là khẩu hiệu, là tiếng nói trên
đầu môi của những người trong thế giới đã phát triển.
Nói một cách khác, theo họ, nếu chúng ta tiếp tục phá hủy
môi sinh như hiện nay, thì chỉ vài thế hệ nữa con cháu chúng
ta sẽ không còn thấy hổ, voi, hay gấu trắng.

Vấn đề chính của cách lí giải này là trong thực tế, những
người có kinh nghiệm sờ và thấy những con vật này là những
người thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội.Nó không phải
là một lợi ích phổ thông cho mọi người. Có bao nhiêu người
nông dân Việt Nam trực tiếp nhìn thấy và sờ được gấu
trắng ? Chỉ có người có điều kiện đi đây đi đó trên
thế giới mới có lí do để quan tâm đến những sinh thực
vật hiếm như thế. Phần lớn dân số, ngay cả trong thế giới
đã phát triển, chẳng biết và cũng chẳng cần biết hay quan
tâm. Phần lớn dân chúng chẳng đi đâu ra khỏi nhà; những gì
mà họ biết về thế giới loài vật cũng chỉ qua màn ảnh
ti-vi hay các tạp chí với hình ảnh màu mè. Và trong thế giới
đang phát triển, sự sống hiện tại và tương lai còn quan
trọng hơn những quan tâm viễn vong. Tại sao các nước nghèo
phải dành ra những khoảnh đất để cho các nước giàu có
thưởng ngoạn? Ai sẽ trả cho cái đặc lợi, đặc quyền này?

Hiện nay, hàng năm có khoảng 600 triệu du khách, tức tương
đương với 1/5 dân số trên thế giới. Nhưng phần đông du
khách này chẳng có quan tâm gì đến sinh hóa; họ đi tìm mặt
trời để làm cho làn da của họ sạm nắng; họ đi tắm biển
chơi với cát; họ đi thưởng thức những nền văn hóa khác;
hay đi thăm thân nhân bè bạn.rất ít người chịu khó lặn
lội vào rừng sâu để cho đỉa vắt cắn hay đối diện với
rắn độc trong các khu rừng nhiệt đới. Mặc dù vậy, phải
công bằng mà nói rằng trong những người du lịch, cũng có
một bộ ohận du lịch xanh, những người sẵn sàng hi sinh tiện
nghi đời sống hiện đại để kinh nghiệm qua môi trường
nhiệt đới. Nhưng họ chỉ là một nhóm nhỏ, có thể chỉ 1%
hay ít hơn trong đội quân du khách hàng năm. Và với số lượng
còn quá nhỏ như thế thì làm sao họ có thể trả tiền cho các
nước nghèo duy trì rừng. Thực ra, du lịch xanh có thể phá
rừng và môi sinh, và có thể đem lại tác hại một cách vô ý
thức. Thành ra, du lịch xanh, tuy là một giải pháp hấp dẫn,
nhưng trong thực tế, sẽ chẳng đem lại lợi ích gì cho việc
duy trì môi sinh.

<strong>Thực phẩm và thuốc men</strong>

Khoa học cho chúng ta một lí do đầy thuyết phục để bảo vệ
môi sinh, đó là bảo tồn nguồn dược liệu và thực phẩm cho
con người. Rừng nhiệt đới không chỉ là nguồn thực phẩm
mà còn là nguồn nguyên liệu để sản xuất dược phẩm chưa
được khai thác đến nới đến chốn. Nếu chúng bị hủy
diệt, con người coi như bị cướp đi những thuốc men quan
trọng. Nhưng sự thành công trong việc bảo tồn môi sinh còn
tùy thuộc vào tài chính và sự cảm thông giữa thế giới đã
phát triển và thế giới đang phát triển.

Một phần tư dược phẩm hiện nay chúng ta đang dùng được
chế biến từ thực vật.Trong các nước đã phát triển, các
công ti sản xuất dược phẩm từng tìm cách giảm sự lệ
thuộc vào thực vật, nhưng ngày nay, họ đang tìm cách khai thác
nguồn cây cỏ trong rừng để sản xuất thuốc. Cây cỏ nhiệt
đới rất giàu chất thuốc, chủ yếu là alkaloid, có lẽ là
chất mà cây cỏ sản sinh để chống lại bệnh tật và côn
trùng. Do đó, những cây cỏ như thế có thể chế biến và
dùng vào việc điều trị bệnh tật cho con người. Một loại
cây leo có tên là Samoan và Cameroon có khả năng trị HIV, con vi
khuẩn gây ra bệnh AIDS hiện nay. Ngoài ra, nọc rắn vùng Amazon
từng được chế biến làm thuốc chữa bệnh cao máu. Viện
nghiên cứu Ung thư Mĩ (American National Cancer Institute) phát hiện
khoảng 3000 loại cây cỏ hàm chứa hóa chất chống lại ung
thư, và 70% các cây cỏ này nằm trong các khu rừng nhiệt đới
thuộc nước đang phát triển.

Nhiều công ti dược phẩm thế giới có lí do để tiếc rẻ khi
thấy một kho tàng tri thức y học truyền thống bị các Tây
thực dân Tây phương hủy diệt. Ở Ba Tây, tính từ 1900, thực
dân Tây phương đã tiêu hủy hơn 90 bộ lạc với những nét
văn hóa đặc thù. Những tri thức y học cổ truyền của họ
cũng theo nhau biến mất. Ngày nay, các nước Tây phương đang
dụ dỗ những người mà họ từng cho là "lang băm", những
người trưởng bộ lạc để hệ thống hóa tri thứcy học từ
cây cỏ.

Nhiều dược phẩm mà chúng ta dùng ngày nay từng được các
bộ lạc sử dụng trước đó cả trăm năm. Thuốc Quinine
(chống sốt rét), Curare (thuốc làm bớt căng thẳng bắp thịt),
Vincristine (chữa trị ung thư bạch cầu) là những ví dụ tiêu
biểu, nhưng còn hàng ngàn loại thuốc khác đang chờ phát
hiện. Ở Amazon, dân địa phương trị chứng nhiễm nấm độc
(fungal infection) bằng một loại nhựa cây, và họ phân biệt
hơn 250 loại bệnh lị cho mỗi trị liệu. Ở Nicaragua, thử
nghiệm lâm sàng cho thấy Camomile có khả năng chống bệnh ỉa
chảy, một căn bệnh làm chết nhiều người trong các nước
đang phát triển. Danh sách này còn kéo dài …

Nhưng ai là người sở hữu chủ những loài cây cỏ này? Đây
là một câu hỏi đã từng gây ra tranh luận và xung đột giữa
hai thế giới đã phát triển và đang phát triển.Phần lớn
phương tiện kĩ thuật, và phần lớn những công ti sản xuất
dược phẩm trên thế giới nằm trong các nước đã phát
triển. Các nước này lí giải rằng các cây cỏ là di sản
của toàn cầu mà họ có quyền khai thác. Các nước đang phát
triển, nơi mà các cây cỏ này có mặt, cho rằng đó là nguồn
tài nguyên địa phương và họ có quyền khai thác, và nếu
nước ngoài muốn khai thác thì họ phải trả lệ phí. Họ cho
rằng cái gọi "di sản thế giới" chỉ là một cách nói hoa
mĩ để các nước giàu có bóc lột các nước nghèo.

Ghi nhận quan tâm này của các nước đang phát triển, một số
công ti dược Tây phương cho thiết lập văn phòng đại diện
tại các nước đang phát triển ở Nam Mĩ, Nam Dương, và Phi
châu, với vai trò trung gian, tức là làm môi giới giữa người
mua và người bán các loài cây cỏ dược tính. Qua cách làm
việc này, cây cỏ từ Ghana, Mã Lai, Thái Lan, Trung Quốc đã có
mặt ở Âu châu và Mĩ. Các công ti dược Tây phương rà soát
xem cây cỏ nào có thể dùng cho chế biến, và khi cây cỏ có
khả năng dược tính, các nước chủ nhà sẽ được tiền phát
minh. Nhưng trong số 10 ngàn cây cỏ, chỉ có 1 là có thể trở
thành dược phẩm. Vì thế, các công ti này phải tìm cách giảm
chi phí. Mặt khác, các nước đang phát triển lo ngại rằng các
công ti dược Tây phương sẽ thừa cơ hội mà lùng soát rừng
của họ để tìm dược liệu và họ sẽ không còn tài nguyên
để hưởng tiền phát minh nữa!

Và lo ngại này cũng có cơ sở. Ở Nigeria, loại đậu bò
(cow-pea) có khả năng đề kháng côn trùng. Một viện nghiên
cứu Anh nghiên cứu loại đậu này và khám phá một phân tử
có khả năng can thiệo vào hệ thống nội tiết của côn trùng.
Thế là Viện này cho lập một công ti thương mại, đăng kí
bản quyền khám phá. Sau này khi họ tìm thấy một loại đậu
bò tương tự ở California, họ bèn đóng cửa công ti ở Nigeria
và dùng đậu ở California để sản xuất thuốc.

Các hình thức bảo tồn môi sinh hiện nay có vẻ còn quá
gượng ép, nhưng về lâu về dài, chắc chắn sẽ có nhiều
chương trình thực tế hơn, bởi vì các nước Tây phương sẽ
không đạt được những gì mà họ mong muốn. Diện tích rừng
nhiệt đới chắc chắn sẽ giảm theo thời gian, và không còn
bao trùm trái đất rộng lớn như trước kia nữa. Du lịch xanh
sẽ phát triển, nhưng sẽ không bao giờ đủ để duy trì hệ
thống sinh thái như các nước Tây phương mơ tưởng. Và, một
khi các công ti dược Tây phương đã tàn trữ đầy đủ cây
cỏ dược liệu, và đã hệ thống hóa các tri thức y khoa cổ
truyền, họ sẽ không còn nhu cầu phải duy trì rừng nhiệt
đới ở các nước đang phát triển. Tìm ra một phương án tối
ưu để nâng cao thu nhập, giảm tỉ lệ sinh sản trong thế
giới đang phát triển là những điều mà khoa học có thể làm
được, ngoại trừ việc hoàn thiện công nghệ tạo sinh vô
tính và các công nghệ khác có thể ngăn chận cuộc hủy diệt
thứ Bảy trên toàn cầu.

<strong><div class="rightalign">
Nguyễn Văn Tuấn</div></strong>

Nguồn: Sachhiem.net

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140713/bao-ton-moi-sinh-cuoc-chien-tranh-giua-hai-the-gioi),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét