Về nhân vật lịch sử Phan Châu Trinh (1872 - 1926) trước đây
đã có nhiều người nghiên cứu, nhất là về vai trò, vị trí
của ông đối với phong trào cách mạng đầu thế kỷ. Tuy
nhiên, do phương pháp, trình độ nhận thức, cững như do hạn
chế về tư liệu mà sự đánh giá về ông cũng có nhiều
điểm chưa thỏa đáng. Vấn đề Phan Châu Trinh trong điều
kiện cho phép hiện nay đặt ra trước các nhà nghiên cứu
nhiều khía cạnh mới mẻ. Trong bài viết này chúng tôi cố
gắng tìm hiểu những đóng góp của ông vào sự thức tỉnh
dân tộc đầu thế kỷ XX như là một thử nghiệm, một sự
lựa chọn con đường phát triển cho dân tộc.
Có thể nói suốt cả cuộc đời, Phan Châu Trình đã kiên trì
thực thi theo một chủ thuyết. Kể từ khi tham gia chuyến Nam du,
cho đến khi từ Pháp trở về Sài Gòn và mất ở đây, ông
vẫn ôm ấp cao vọng: khôi phục lại độc lập dân tộc, khôi
phục chủ quyền cho đất nước. Muốn thế, trước hết phải
thức tỉnh dân tộc, làm cho dân tộc thoát khỏi hôn mê của
độc hại chuyên chế cổ hủ. Một trong các con đường đi
tới là nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, cải thiện đời
sống nhân dân. Đây là con đường đấu tranh công khai hợp
pháp, dần dần đưa dân tộc đi lên. Phải dựa vào chính sách
"khai hóa văn minh" để công khai đấu tranh đòi các quyền dân
chủ. Nhiệm vụ to lớn, lâu dài là làm cho dân ý thức được
các quyền của mình, làm cho quyền dân chủ được thấm sâu,
lan rộng đến mọi người.
Cùng với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh cho
rằng phải tìm kiếm một con đường đi lên cho dân tộc khác
với con đường đấu tranh vũ trang bất hợp pháp. Phải kiên
nhẫn tuyên truyền giáo dục cho nhân dân hiểu rõ, toàn dân
một ý để đến ngày "đông tay vỗ nên bộp" **. Không thể
nôn nóng đặt ra mục tiêu độc lập dân tộc ngay mà phải đi
dần đến mục tiêu ấy theo kiểu "Ngu công dời núi", "Tinh
vệ lấp biển" . Đó là chủ thuyết đấu tranh công khai đòi
cải cách xã hội dân dần.
Chủ thuyết có vẻ ôn hòa này của các ông đã được nhân
dân khắp ba kỳ hướng theo, dấy lên một phong trào Duy Tân
rộng lớn. Chính quyền thực dân phong kiến hoảng sợ dồn
phong trào trong máu lửa. Sự kiện này đánh dấu sự thức
tỉnh của dân tộc, sự chuyển mình đấu tranh hướng theo
ngọn cờ dân chủ tư sản, đánh dấu một giai đoạn mới khác
trước về chất lượng. Quan niệm máy móc trước đây khi
nghiên cứu Phan Châu Trinh là cố gắng quy tìm lập trường giai
cấp của ông. Đi theo hướng này, hoặc cho rằng ông đang ở
lập trường tư sản, hoặc cho rằng về thực chất ông vẫn
là nhà nho phong kiến. Bởi vậy, nên thường chỉ thấy mặt
hạn chế mặt tiêu cực, của lập trường hai giai cấp này,
thể hiện các yếu điểm trong chủ thuyết và hành động của
ông.
Ngày nay, đang ở giác độ tiến bộ xã hội, nếu chú ý nghiên
cứu kỹ yêu cầu cụ thể của xã hội Việt Nam tại thời
điểm ông sống, ta sẽ nhìn thấy đúng mức tầm chuyển
hướng tư duy cho dân tộc của ông, từ một lối tư duy truyền
thống, tư duy nông nghiệp phong kiến trì trệ khép kín sang tư
duy cận đại hướng ra bên ngoài, hướng tới những giá trị
mới mẻ của các nền văn minh cao hơn, phù hợp với hướng
chung của thế giới.
Việc lựa chọn hướng đi của Phan Châu Trinh không phải là
một sự ngẫu hứng mà được suy ngẫm, đúc rút từ những
kinh nghiệm đấu tranh của bản thân, quê hương, dân tộc. Như
ta đã biết, ông đã từng theo cha tham gia phong trào võ trang
chống Pháp và đã tận mắt chứng kiến kết cục đau thương
của phong trào này. Bản quán quê hương và gia đình đã phải
ly tán, chia lìa vì mang tội "theo nghịch đảng". Ông đã quay
về với sách vở thánh hiền, tham gia vào quan trường, không
phải để "vinh thân phí gia" mà để thực thi chí lớn cứu
nước an dân, nên đã có một cái nhìn thực tế về thực
chất sự hư hại của chế độ đương thời. Do có óc quan sát
đặc biệt sâu sắc và tinh tế mà ông đã đi tới quyết
định trên, khác xa với những người đương thời với ông.
Ngay từ 1905, cùng một hướng Nam du để khảo sát thực tiễn,
bắt mạch sĩ khí dân tình, nhưng Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh lại đi tới những kết luận khác nhau. Phan Bội Châu căn
cứ vào sự nhiệt tình, hăng hái chống Pháp của dân Nam để
cho rằng, lòng dân Nam chịu ơn chúa Nguyễn đã nhiều, vẫn
hằng thờ chúa cũ. Đây là đất chứa tiền của của cả
đất nước, muốn làm bạo động võ trang ắt cần tới sự
ủng hộ tài chính của dân Nam. Do vậy cần dựng một vi hoàng
tộc làm minh chủ để tranh thủ sự ủng hộ nhân tài vật
lực ở đây. Cũng tại thời điểm này, Phan Châu Trinh lập
luận khác rằng, lòng người dân Nam yêu nước chưa bao giờ
hết. Chỉ có chế độ quân chủ chuyên chế quan liêu với hệ
thống khoa cử cổ hủ của nó là chất độc dược làm chết
lòng! Bởi vậy, việc đầu tiên là phải đánh tan tư tưởng
quân chủ cổ hủ, phải đánh tan mộng khoa cử, mới mong phục
hồi lại hồn nước, từ đó mới dần đi tới độc lập tự
chủ.
Tuy khác nhau về trình tự, nhưng sự thống nhất về đích đi
tới của hai ông đều là khôi phục độc lập dân tộc. Chính
cụ Huỳnh Thúc Kháng là người hiểu hai cụ hơn ai hết đã
nhận xét là hai con người, hai khuynh hướng "tương phản nhi
tương thành".
Trước đây, bởi ảnh hưởng quan niệm tuyệt đối hóa coi
bạo lực cách mạng chỉ là bạo lực võ trang, và biện pháp
đấu tranh cách mạng chỉ là đấu tranh võ trang, mà có nơi có
lúc, chúng ta không chú ý khai thác cống hiến của cụ Phan Châu
Trinh. Thậm chí, có người còn cho cụ là sợ Pháp, sợ vũ khí
tối tân, người đại diện cho giai cấp tư sản dân tộc yếu
ớt bạc nhược, nên đã lựa chọn con đường "cách mạng
cải lương". Ngay ở khái niệm cải lương này cũng là vấn
đề phải xem lại.
Nếu như theo quan niệm phổ biến trước đây, để tuyệt đối
hóa sự đối lập không khoan nhượng giữa cải lương và cách
mạng, thì cải lương phản động là tư sản, phải đấu tranh
đến cùng, chống mọi biểu hiện cải lương. Khi đánh giá cụ
Phan Châu Trinh là cải lương vô hình trung chúng ta đã khoác cho
cụ một cái áo không vừa. Thực tế lịch sử Việt Nam đầu
thế kỷ XX đã nảy sinh ra một yêu cầu dân tộc tiến lên con
đường mới. Cụ Phan Châu Trinh là nhà yêu nước chủ trương
mới, canh tân nhằm phát triển đất nước. Nếu cứ theo con
đường cũ, thì nước không thể không mất vào tay ngoại bang.
Bấy giờ, chủ quyền ta đã lọt vào tay thực dân Pháp, thực
lực của ta thì yếu kém đủ đường, nếu tiếp tục con
đường bạo động võ trang, ắt cũng sẽ thất bại! Phát hiện
con đường mới - con đường cách mạng ôn hòa để nâng cao
trình độ dân tộc lên mức mới, là công lớn của ông. Điều
này đặc biệt có ý nghĩa khi mà cả dân tộc vừa mới trải
qua một cuộc chống trả quyết liệt theo kiểu phong kiến cũ
và không khỏi thất bại.
Khi một không khí thất bại bao trùm đất nước thì những bài
thơ của ông, đặc biệt là bản "Tỉnh quốc hồn ca" đã có
sức thổi bạt luồng tà khí đang vây bủa, để thức tỉnh
hồn nước đang hồi mê ngủ. Nhiều lần ông khêu gợi lòng
tự hào chính đáng cho dân nước:
"<em>Ngồi mà nghĩ dư đồ Hồng Việt
Ta cũng là một nước Á đông
Xưa nay vẫn chán anh hùng…</em> (1)
Đất nước có lịch sử oai hùng, văn hiến rực rỡ mà sao
để lọt vào tay người. Lý giải nguyên nhân mất nước ông
cho là do bởi:
<em>Vua ngồi thăm thẳm cung sâu
Một đời chỉ biết đè đầu dân đen
Dưới đại thần đua chen tước lộc
Ngoài trăm quan hì hục thân danh...</em> (2)
Và do mặt khác nữa là trình độ mọi mặt của dân ta thấp
kém thua sút so với các nước khác trên thế giới nên khi tố
cáo thực dân phong kiến Phan Bội Châu nhằm mục đích kích
thích lòng căm thù giặc ngoại xâm, kêu gọi đồng bào đoàn
kết nổi dậy đánh thực dân Pháp. Phan Châu Trinh đã phân
biệt có những người Pháp văn minh. Ông còn tập trung tố cáo
những tệ nạn ở chốn hương thôn, quan trường, vua quan bù
nhìn tượng gỗ. Mục đích lúc này của ông là vạch chỉ cho
nhân dân ta thấy rõ tính chất thối nát bất hợp lý của
thượng tầng kiến trúc đương thời. Điểm mới này rất có
ý nghĩa.
Bởi vì, cho đến tận trước khi xã hội Việt Nam đối diện
với Phương Tây, qua một thời gian hết sức lâu dài, kiến
trúc ấy đã tỏ ra có tính hợp lý cao, nó bảo đảm duy trì
trật tự xã hội theo hình chóp nón, có độ ổn định tương
đối. Trong xã hội cũ đã ăn sâu một tư tưởng coi trật tự
đó là tiền định, được chế định bởi một lực lượng
siêu nhân, có thể coi như là quy luật, Phan Châu Trinh hiểu rất
rõ tính chất "thâm căn cố đế" của tư tưởng này. Ông dốc
sức vào đả phá, vạch trần trật tự của chính thể đó là:
<em>Vua tôn như thánh như thần
Phận tôi rơm rác, phận dân trâu bò</em> (3)
Ông chỉ rõ, đây là chính thể độc tôn, độc đoán. Vua có
quyền tối thượng về cả lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Chính thể chuyên chế bóp nghẹt mọi nhân quyền và dân quyền,
mọi con tim và khối óc:
"<em>Cấm chẳng cho hỏi han việc nước
Cấm chẳng cho ao ước thở than…</em> (4)
Khắp chốn công quyền đầy rẫy tệ nạn:
"<em>Người cương trực lo lui bước trước
Lũ nịnh tà lần lượt đầy sân
Thói tham lam nhuộm sâu đến tủy
Thói tham quan như đĩ tham tiền</em> (5)
Như thế, tại thời điểm đen tối ấy, ông đã biết đặt
vấn đề phát triển, tồn vong của dân tộc vào một xu hướng
rộng lớn hơn của thế giới, của khu vực đó là xu thế dân
chủ tư sản. Để tìm hướng đi mới ông đã suy nghĩ về
điểm mạnh, điểm yếu của dân tộc mình khi so sánh với các
nước láng giềng, với phương Tây. So sánh đổi chiếu không
phải là một, nhưng Phan Châu trinh đã biết vượt qua lối suy
nghĩ tập tổ, "Hoa hạ man di", vượt qua cả trình độ suy
nghĩ tiểu nông hạn hẹp, dám vươn tới những mẫu hình kiến
trúc mới, đặt ra vấn đề thay đổi thể chế, một việc
"phạm thượng" chưa từng có trong lịch sử tư tưởng của
dân tộc. Không chỉ vì trật tự Vua - Quan kiểu phong kiến đã
từng kéo dài hàng trăm nghìn năm, mà điều lưu ý nữa là chế
độ thực dân đang cố tình duy trì trật tự ấy, để làm
công cụ cho chúng áp chế nhân dân. Tầm vóc tư tưởng của
ông phải được nhìn nhận ở khía cạnh đó nữa.
Tuy nhiên, trên thế giới lúc bấy giờ vấn đề dân quyền,
nhân dân đang là những làn sóng sôi nổi, dội vào cả phương
Đông thức tỉnh dân tộc Việt Nam. Điểm khác ở chỗ, bấy
giờ Việt Nam đã mất chủ quyền, nhân dân bị giam trong ngục
tối, nhưng là người hết lòng yêu nước, ông đã dũng cảm,
dám chỉ ra con đường dân tộc tiến lên. Suốt cả cuộc đời
ông lúc được tự do hay cả lúc bị giam cầm, khi ở Việt Nam
hay ở Pháp, tất cả đều nhằm một mục đích phấn đấu làm
cho dân nước thấy rằng mình có quyền, cần hướng theo tôn
chỉ mới:
<em>Công quyền là thánh tự do là thần
Khắp thế giới toàn dân làm chủ</em> (6)
Cùng với các đồng chí của mình, hòa với dòng tư tưởng
cách tân đổi mới xã hội, hướng tới những giá trị chung
phổ biến, đang có ý nghĩa cấp thiết đối với nhân dân
Việt Nam. Phan Châu Trinh đã không tiếc sức mình tuyên truyền
cổ vũ cho nền dân chủ. Do điều kiện lịch sử lúc đó và do
cả những hạn chế của bản thân ông mà tư tưởng dân chủ
này còn nhiều điểm đơn giản và gò ép Nho hóa. Dù thế nào
chăng nữa việc đưa ý thức dân quyền thật sự là một cống
hiến vào sự thức tỉnh dân tộc đầu thế kỷ XX.
Như trên đã nói, ông chủ trương cải cách đổi mới xã hội.
Bởi vì nếu có như cũ thì dân nam chỉ có nước chết. Họ
sẽ nổi dậy đấu tranh vũ trang. Đây là con đường chết, vì
nước Việt Nam là nơi nước Pháp thâu lợi quyền và do đó
nước Pháp sẽ mất lợi quyền. Ông khuyên chính phủ Pháp hãy
thay đổi chính sách chính trị ở Việt Nam để có thể duy trì
lợi quyền của cả hai nước. Đây là cơ sở của thuyết ỉ
Pháp cầu tiến bộ của ông. Thực tế đã chỉ ra đó chỉ là
ảo tưởng. Hy vọng ở thiện chí của chính truyền thực dân
là một khả năng không có hiện thực.
Để thức dậy hồn nước, Phan Châu Trinh còn đặt ra vấn đề
phản ánh rất sâu vào Nho giáo, vào nọc độc khoa cử, xương
sống của nó, đả phá trật tự tiên thiên vua quan cũ kỹ. Ông
dành nhiều thời gian, sức lực cho việc hạ bệ mẫu người
nho sĩ đương thời với nguyên lý cũ cho rằng "Sĩ nhất tứ
dân". Đối với ông, đây chẳng phải như vậy mà là bóng
người:
<em>Chẳng qua là quơ quào ba chữ
May ra rồi ăn xớ của dân</em> (7)
Ông đề ra nhiệm vụ phải xóa bỏ nhân sinh quan cũ kỹ của
loại này, bắt tay vào xây dựng những quan niệm con người lý
tưởng mới có trí tuệ cao xa, mang màu sắc người hùng của
giai cấp tư sản đang lên. Nhưng nhìn kỹ ta vẫn còn thấy
phảng phất ở đây hình ảnh người quân tử với những phẩm
cách cáo đẹp cổ truyền như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đi
sâu vào tầng sâu nhất của đời sống tinh thần ông đã biết
đặt vấn đề xây dựng phong tục tập quán mới tốt đẹp,
chống lại những thói hư tật xấu ở chốn hương thôn mà
nhiều người đã nói tới!
Càng nhận thấy tính chất ưu trội của một nền văn hoá mới
cao hơn, ông càng thấy phải hướng nhân dân mình theo đó, vừa
cố gắng duy trì những phẩm giá tốt đẹp của văn hóa cổ
truyền. Bởi vậy mà có người nói ông phê phán Nho nhưng lại
đứng trên lập trường Nho. Thực ra không phải như thế, bởi
vì, so với các nguyên lý Nho giáo ông đã có bước tiến vượt
về căn bản, như trên đã nói. Bên cạnh đó những giá trị
nhân đạo, đạo đức cá nhân của Nho giáo vẫn có ý nghĩa
phù hợp trong mọi thời đại, phải kế thừa và phát triển.
Đây là sự tiếp thu có phê phán rất đáng trân trọng của
ông.
Khác với "Lễ trị", "Đức trị" của Nho giáo, ông chủ
trương lấy pháp luật làm chuẩn mực để điều hành xã hội:
ông coi Rútxô, Môngtétxkiơ là những tiền bối, sách của họ
được coi là sách gối đầu giường. Ông coi học phương Tây
là cần thiết, nhưng ông cảnh tỉnh luôn những người học
phương Tây một cách thụ động, máy móc. Với loại sùng
ngoại vô lối này, ông nói bọn họ là hủ Tây. Hủ Tây và
hủ nho, đều là hạng người dân nước cần sớm lìa xa, kẻo
vạ cho dân nước. Nhìn lại khoảng đầu thế kỷ XX, xã hội
Việt Nam ở thời kỳ bi đát nhất, không có lối ra, trên thì
cính quyền thực dân có đủ mọi mánh khóe dã man khôn khéo,
giữa thì bọn tham quan ô lại mất hết tính người, dưới
nữa dân ta lầm than, trình độ hết sức thấp kém, lạc hậu.
Mọi nẻo đường hầu như đã bị chặn đứng. Không bó tay
chờ chết, Phan Châu Trinh và các đồng chí của mình đã không
tiếc sức vạch ra một hướng đi, theo dòng tư tưởng canh tân
đất nước trước đây, hướng dân tộc phát triển mạnh theo
con đường tư bản chủ nghĩa, hòng dần dần đưa nước ta hòa
nhập vào dòng văn minh chung của thế giới. Nhân dân đã không
nhầm khi đi theo ngọn cờ của các ông. Về mọi mặt dân tộc
Việt Nam đã có những nhảy vọt, từ phạm trù tư duy phong
kiến truyền thống sang phạm trù tư duy thời cận đại, chuẩn
bị cho những bước tiếp theo.
Nhln chung, những phát hiện, đóng góp của ông có ý nghĩa tiếp
nối chủ nghĩa yêu nước truyền thống, khơi dậy những giá
trị tốt đẹp. Ông là đại biểu xuất sắc cho tầng lớp tri
thức tiến bộ chuyển hướng tư duy dân tộc sang một thời
kỳ mồi một cách chủ động tích cực, xứng đáng là nhà dân
chủ tiên khu của Việt Nam đầu thế kỷ XX này.
<em><strong>Đỗ Hòa Hới</strong></em> (Tạp chí Triết học)
__________________
** Quan niệm xuyên suốt của Phan Châu Trinh
(1) Thơ Phan Châu Trinh, Nxb Văn học, Hà Nội, 1983, tr. 128.
(2) Sách đã dẫn, tr.238.
(3) (4) (5) Sách đã dẫn, tr. 238, 249.
(6) Sđđ, tr. 249.
(7) Sđđ, tr. 131.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140611/do-hoa-hoi-phan-chau-trinh-va-su-thuc-tinh-dan-toc-the-ky-xx),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét