<blockquote>Bài viết này, nguyên thủy có tên: "Nhân ngày 30
tháng 4 lần thứ 35", được viết và phổ biến dịp tháng 4
năm 2010. Đầu năm 2012, hội Sinh Viên Việt Nam của trường
đại học thành phố Wichita có nhã ý nhờ tôi góp bài cho tờ
báo mùa xuân của họ. Tôi quyết định xem lại và gởi bài
viết này đến những người trẻ như một cách gián tiếp bầy
tỏ cách nhìn của tôi về một sự kiện lịch sử quan trọng.
Và để nhấn mạnh, tôi đã đổi tên bài thành: "Hãy nhìn
lại chính mình". Bây giờ là tháng 4 năm 2014. Những vấn đề
đặt ra trong bài viết này – theo tôi – vẫn còn nguyên vẹn
tính thời sự của chúng.
<strong>T.Vấn</strong></blockquote>
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày đánh dấu cuộc chiến tranh
đẫm máu nhất trong lịch sử cận đại Việt Nam chấm dứt.
Cuộc chiến ấy có kẻ thắng không? nhà báo Mỹ Stanley Karnow,
người lăn lộn với cuộc chiến ấy từ đầu đến cuối,
trong chương mở đầu tác phẩm quan trọng nhất của ông về
chiến tranh Việt Nam: "Vietnam: A History", đã cho rằng "Ít
ra, theo ngôn ngữ nhân văn, cuộc chiến tranh ở Việt Nam là
cuộc chiến tranh không có kẻ chiến thắng, hay đó chỉ là
cuộc xung đột giữa những nạn nhân. Nguồn gốc của nó rất
phức tạp, những bài học còn là đầu đề tranh cãi, và
những hậu quả của nó vẫn còn phải được đánh gía bởi
các thế hệ tương lai." (1)
39 năm sau ngày cuộc chiến chấm dứt, 32 năm sau ngày ông Karnow
viết những dòng nhận định khiến cả thế giới lưu tâm ấy,
hẳn sẽ có càng ngày càng ít người không đồng ý với vị
sử gia người Mỹ đã từng đọat giải thưởng uy tín nhất
về Báo Chí, Pulitzer, cho những công trình khảo cứu về chiến
tranh thế giới của mình.
Cuộc chiến ấy có kẻ bại không? Câu trả lời hẳn sẽ có
ít người tranh cãi hơn nữa: Có!
Ai là kẻ chiến bại? Hẳn nhiên, trước hết phải kể đến
những người buông vũ khí quy hàng bên kia (dù là tuân theo
lệnh thượng cấp hay tự nguyện vì không còn sự lựa chọn
nào khác), những người bị bắt, bị giam cầm trong các nhà tù
ngụy danh dưới cái tên: Trại Cải Tạo (bao gồm những
người bị còng tay, dẫn lên xe đưa thẳng vào trại tù và
những người tình nguyện khăn gói lên đường, giã biệt gia
đình đi trình diện kẻ đang nắm sinh mệnh mình trong tay, với
hy vọng đi sớm về sớm, rồi yên tâm sống đời dân dã trong
một đất nước từ nay thôi không còn bom đạn, không còn
chết chóc). Phải kể cả đến những người may mắn vượt
thóat tay kẻ thù, rời khỏi đất nước bằng đủ mọi phương
tiện tìm được vào những ngày cuối của cuộc chiến. Kẻ
chiến bại còn là những nạn nhân trực tiếp của những cuộc
vượt biển hãi hùng, những cư dân bị cưỡng bức của những
khu kinh tế mới rừng sâu nước độc, những đối tượng kém
may mắn của những đợt cải tạo tư sản, đánh tư bản cũng
hãi hùng không kém cảnh đấu tố của cuộc cải cách ruộng
đất 54 ngòai miền Bắc. Sau cùng phải kể đến hơn 75 triệu
dân Việt Nam sống giữa thế kỷ 21 mà vẫn chưa biết đến
mùi vị của Tự Do là gì. Chưa kể đến một tầng lớp nông
dân ở thôn quê và một lớp dân chúng thành thị vẫn hàng
ngày phải lao đao vất vả với miếng cơm manh áo, thiếu thốn
những nhu cầu tối thiểu nhất của con người. Nói cách khác,
cả một dân tộc chiến bại (2).
Một cuộc chiến không có kẻ thắng, mà chỉ có những nạn
nhân thì người ta không thể viện dẫn đến bất cứ một
mục đích nào để biện minh cho cuộc chiến ấy.Chưa kể đến
chiêu bài cộng sản,thế giới đại đồng, không còn cảnh
người bóc lột người nay đã bị phá sản.Cho dẫu thứ ý
thức hệ chết (hàng trăm triệu )người ấy chưa bị phá sản,
thì việc hy sinh gần 3 thế hệ đất nước cho một tư tưởng
bệnh họan phải được xem là nỗi bất hạnh của dân tộc.
<h2>Gọi ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày chiến thắng ư? </h2>
Thật vô nghĩa. Vì cuộc chiến không có kẻ chiến thắng. Mọi
sự phô diễn ầm ĩ của bên gọi là thắng trận trong ngày kỷ
niệm cuộc chiến đẫm máu chấm dứt chỉ là những hành
động nhằm che đậy mặc cảm của kẻ vừa chợt nhận ra mình
cũng là nạn nhân của một cuộc lừa dối vĩ đại, thứ phản
ứng tâm lý vụng về của những kẻ bằng mọi giá bám lấy
quyền lực, bất kể sự no đói sướng khổ của quần chúng
nhân dân. Phủ nhận sự chiến thắng ấy, là phủ nhận chính
mình, phủ nhận chính quyền lực của mình. Chẳng may, ngày nào
còn lớp người băng họai ấy ở vị trí quyền lực quốc gia,
ngày ấy vẫn còn những ngày 30 tháng 4 hàng năm được vinh danh
là ngày chiến thắng.
<h2>Gọi ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày quốc hận ư? </h2>
Ý nghĩa của "quốc hận" sẽ chính đáng biết bao nếu
được nhân danh bởi tất cả những nạn nhân trong cuộc
chiến, những nạn nhân sau cuộc chiến, cả bên này lẫn bên
kia, của cả người trong nước lẫn ngòai nước, của tất cả
những ai tin tưởng rằng, ngày nào còn sự ngự trị của chính
quyền cộng sản, ngày ấy đất nước còn điêu đứng gian nan.
Trước đây trong cuộc chiến, sự vụng về trong cách điều
hành chiến tranh và lãnh đạo đất nước đã khiến cho miền
Nam tuy có chính nghĩa mà như không có chính nghĩa. Sự vụng
về ấy là một cái tội, vì nó đã dẫn đến ngày 30 tháng 4
năm 1975. Giờ đây, trong những dịp "tưởng niệm", "quốc
hận" của một số tổ chức người Việt hải ngọai vô tình
đã lọai ra ngòai những nạn nhân rất chính đáng của cuộc
chiến, những người cũng có đủ lý do để xem ngày 30 tháng 4
là ngày "quốc hận". Nhiều danh xưng, nhiều cách thức
tưởng niệm đã khiến người ta tưởng chừng như chỉ có
những người trực tiếp thua trận trên chiến trường, những
người chôn gần hết quãng đời tuổi trẻ trong những trại
cải tạo, mới "được quyền" mang mối "quốc hận" nhân
ngày 30 tháng 4 lịch sử. Đó là chưa kể những ngộ nhận từ
"nạn nhân ở trong nước", xem những cách thức tưởng niệm
ấy như là một sự khao khát quay về với quyền lực đã bị
mất, với địa vị ăn trên ngồi trốc cũ, với những hư danh
tạo nên bằng máu và nước mắt của thuộc quyền, của nhân
dân.
Mặc cảm thua trận đã có dịp trỗi dậy qua những sự cường
điệu phát xuất từ tâm thức cá nhân khiến chính nghĩa chung
bị lu mờ. Có những cá nhân xem nỗi đau của mình là một
đại dương mênh mông chứ không phải gịot nước mắt thổn
thức che dấu trong đêm. Để rồi hễ thấy ai không chịu chết
chìm trong đại dương nước mắt của mình thì vội lên tiếng
chê bai, chỉ trích, thậm chí chụp mũ. Trong cuộc chiến, sau
cuộc chiến, hầu như mỗi gia đình Việt Nam đều có một nỗi
đau của riêng mình, dù là người ấy ở trong nước hay ngòai
nước, ở miền Nam hay miền Bắc khi còn dòng Bến Hải chia
cắt năm xưa. Chỉ biết đến nỗi đau của mình, không đếm
xỉa gì đến nỗi đau của người khác, ở một nghĩa nào đó
cũng là một hành động khó gây được được sự cảm thông
(3).
Không phải ngẫu nhiên mà, nhiều người ở trong nước, tuy
không ưa gì chế độ cầm quyền hiện nay, nhưng cũng không tỏ
vẻ có cảm tình với một vài tổ chức chống Cộng hải
ngọai. Họ cho rằng, cái tâm thức "quốc hận" ở những
tổ chức này là tâm thức giận dữ của "đứa trẻ bị
giật mất chiếc bánh", nay có dịp tha hồ "tự do muốn làm
gì thì làm" nên tụ họp nhau tìm cách "giật lại chiếc
bánh đã bị mất".
Sẽ là một cái tội khó tha thứ nếu người Việt hải ngọai,
những người mệnh danh là "chiến sĩ cho Tự Do", vô tình
hay cố ý, một lần nữa làm lu mờ đi chính nghĩa. Chính nghĩa
có sáng tỏ hay không, không phải nhờ những lời nói hay,
những khẩu hiệu to, những biểu ngữ lớn mà phải do hành
động, thứ hành động xuất phát từ niềm thao thức đến sự
an nguy, đến dân chủ tự do cho đất nước, sự no đủ của
người dân, sự tươi sáng của các thế hệ Việt Nam trong
tương lai. Những hành động ấy, nếu thực sự làm vinh danh cho
chính nghĩa, không thể đến từ những tấm lòng hận thù cá
nhân, những mưu đồ vị kỷ, những bon chen ganh ghét lẫn nhau,
những thái độ bảo thủ chỉ cho mình là đúng, duy nhất
đúng, những ai đi khác con đường mình đi là kẻ phản bội,
là tên thỏa hiệp, là việt gian bán nước v.v...(4)
Chẳng may, từ 39 năm nay, đó là những hiện tượng mà kẻ ưu
thời mẫn thế không thể không nhận ra. Ở ngòai đất nước,
người Việt Nam có đủ mọi thứ tự do mà một con người có
thể hưởng. Trong thực tế, có cả một con đường dài đi từ
sự sở hữu tự do cho đến ý thức sử dụng tự do. Nhiều
người, dù sống ngòai đất nước hơn nửa đời người, vẫn
còn đứng ở đầu con đường, với tâm thức sở hữu tự do,
tức là muốn làm gì thì làm, bất chấp hậu quả việc mình
làm, lời mình nói, những dòng chữ mình viết xuống. Vì thế,
thay vì củng cố thêm chính nghĩa tự do đối đầu với cộng
sản độc tài, họ đã làm thương tổn chính nghĩa, thương
tổn hàng ngũ những người chiến đấu cho chính nghĩa, có
nghĩa là họ làm thương tổn chính lý tưởng của hàng ngũ
mình.
Sở hữu tự do phải đi kèm với ý thức sử dụng sự tự do
mà mình sở hữu. Nếu không, sẽ như người vừa làm chủ cây
súng, vì loay hoay không biết cách sử dụng, nên đã tự bắn
vào chân mình.
Bài học nào rút ra từ ngày lịch sử 30 tháng 4, cũng sẽ là
đề tài cho nhiều thế hệ mai sau bàn bạc, như lời nhận
định của Sử Gia Stanley Karnow 32 năm trước. Trong đó, chắc
chắn phải có bài học về cách thức xây dựng chính nghĩa,
giữ gìn chính nghĩa trong những cuộc đối đầu. Câu nói "
chính nghĩa sẽ tất thắng " chưa hẳn là chân lý nếu bên có
chính nghĩa không đủ khả năng khai triển và phát huy chính
nghĩa. Không ai có thể phủ nhận sự thống trị của những
người cộng sản trên đất nước chúng ta, nếu chỉ kể mốc
30 tháng 4 năm 1975, đã kéo dài hơn 39 năm nay. Và không ai tiên
đóan được khi nào thì sự thống trị ấy chấm dứt, nhường
chỗ cho một chế độ tự do dân chủ thực sự vì dân, do dân
mà cả 80 triệu người Việt trong nước và hơn 3 triệu người
Việt sinh sống tại hải ngọai ước mong.
Sự mơ hồ ấy, phải chăng cũng có sự " đóng góp " – vô
tình hay cố ý – của cái cách mà một nhóm người Việt hải
ngọai dùng để chống Cộng?
T.Vấn
WWW.T-Van.Net
___________________________________
(1) "Vietnam: A History". Stanley Karnow. Penguin Books. Revised Edition
1991. P. 11
(2) Có lẽ, cũng không quá cường điệu khi bao gồm trong số
những người thuộc về phe chiến bại cả những bộ đội
miền Bắc, những người hăm hở xuôi Nam với khát vọng giải
phóng đồng bào ruột thịt miền Nam đang bị " gọng kềm Mỹ
Ngụy " làm cho đói khổ. Và khi đặt bước chân vào những
đô thị, thành phố miền Nam mới vỡ lẽ mình bị lừa gạt,
như nhà văn Dương Thu Hương đã từng can đảm thú nhận. Cái
câu đầu môi cửa miệng " Miền Bắc nhận hàng, miền Nam
nhận họ " trong những ngày đầu sau chiến tranh, đối với
người Việt Nam có lòng tự trọng, là một sự xúc phạm nặng
nề dành cho kẻ bại trận.
(3) Tôi được nghe kể lại và xem được bức hình một cặp
nam nữ người Việt ở miền Nam Cali, trong một cuộc biểu tình
vinh danh cờ vàng, đã đứng dẫm lên lá cờ đỏ Cộng sản.
Vinh danh lá cờ vàng, là vinh danh chính nghĩa tự do của người
Việt hải ngọai, đó là việc nên làm. Nhưng dẫm lên lá cờ
đỏ, mà hàng triệu thanh niên miền Bắc, đã một thời vì lá
cờ ấy mà sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình, đã từng say
sưa – dù bị lừa phỉnh – dâng hiến tuổi trẻ của mình cho
lá cờ ấy, có lẽ là một việc, theo tôi, nên suy nghĩ cẩn
thận, trước khi làm. Không thể không nghĩ đến hàng triệu bà
mẹ ở miền Bắc mất con, hàng triệu người vợ miền Bắc
mất chồng, hàng triệu người con miền Bắc mất cha. Dù sao,
với họ, lá cờ ấy là biểu tượng cho xương máu mà con,
chồng, cha của họ đã đổ ra. Với người Việt hải ngọai,
lá cờ ấy chỉ là biểu tượng của một chế độ tàn ác,
hút máu người dân, nhưng với người trong nước, tôi không
tin họ có cùng cách nhìn như chúng ta. Với cách nghĩ truyền
thống của người Việt Nam, dân là vạn đại, sẽ còn đó
cùng với sự tồn vong của đất nước. Nhưng, chính quyền nào
cũng đến rồi sẽ đi. Rồi đây, chẳng chóng thì chầy, kẻ
cầm quyền Cộng sản sẽ phải đến lúc chia tay với quyền
lực. Ai biết được, khi ấy, lá cờ đỏ sao vàng có thể
vẫn tồn tại với người dân, trong ý nghĩa nó đã thấm máu
hy sinh của người dân, chứ không phải là biểu tượng của
chủ nghĩa cộng sản tàn bạo một thời. Trong suy nghĩ ấy,
liệu những người đứng dẫm lên lá cờ đỏ sao vàng dạo
nọ, có tạo được sự cảm thông nơi những người Việt có
cùng lý tưởng tranh đấu cho tự do ở trong nước?
(4) Trong nhiều năm, cứ đến tháng 4, tôi như người mang trong
lòng vết thương còn mưng mủ, dở vết thương còn sưng tấy
ấy ra, ve vuốt nỗi đau của mình. Sự ve vuốt ấy biểu lộ
cụ thể bằng cách đọc đi đọc lại quyển hồi ký: Ngày N,
giờ G của nhà văn Hòang Khởi Phong viết về cuộc " di tản
chiến thuật " trên con đường số 7 của quân và dân Vùng 2
vào tháng 3 năm 1975. Đọc, để tự nhắc nhở mình, đã có
một thời, địa ngục có thật trên trần gian này ở vào
những ngày sắp tàn cuộc chiến tranh. Tôi đọc với tâm thức
của kẻ cứ không cưỡng được hành động lấy tay đè mạnh
vào vết thương cũ để tìm cảm giác dễ chịu sau cơn đau
nhói, để rồi sau sự dễ chịu giả tạo là nỗi đau còn
nhức nhối hơn nữa. Ở đọan cuối, trước khi kết thúc tập
hồi ký não lòng, trong lá thư gởi đến những em học sinh
Vườn Hồng ( tức ngôi trường tiểu học do chính tác giả
dựng nên ở trại giam Phú Quốc thời ông còn là quan coi tù ở
đó ), ông viết: " Đã mười ba năm nay, mỗi lúc tôi thấy
" thế hệ chúng tôi" đang dựng lại những ngày cũ. Những
năm ngơ ngác ban đầu trên xứ người qua đi, những con người
ngụy tín cũ dần dần hồi phục. Nên vì vậy mà mười ba năm
nay, cho dù "thế hệ chúng tôi" thành lập cả ngàn đoàn
thể, tổ chức, chúng tôi lăn xả vào chống Cộng, nhưng bọn
Cộng sản vẫn mạnh khỏe ở bên kia bờ biển. Chúng tôi còn
bận giành quyền lãnh đạo lẫn nhau, chúng tôi còn bận đổ
tội lẫn cho nhau, chúng tôi còn bận chống lẫn nhau, trước khi
có dịp chống Cộng. Hãy nhìn kỹ những vết xe chúng tôi để
lại, hãy nhìn kỹ những con đường chúng tôi đi, dấu vết
xấu xí nham nhớ chúng tôi để lại khắp miền Nam và giờ
đây chúng tôi mang sang xứ người những ví dụ tuyệt hảo
của lòng háo danh, ích kỷ, hời hợt, tự mãn, đố kỵ, giả
trá.".
Nhà văn Hòang Khởi Phong viết những dòng đau xót này vào năm
1988, là năm ông hòan tất tập Hồi ký để đời. Hơn 20 năm
sau, những điều ông viết, những vấn đề ông đặt ra cho
người Việt hải ngọai, hầu như còn nguyên vẹn, nếu không
muốn nói là càng trầm trọng thêm. Và đó cũng là lý do có
phần chú thích này. (T.Vấn)
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140422/tvan-hay-nhin-lai-chinh-minh), một
số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời độc
giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận
có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng
dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét