<h2>1. Nước Nhật và chính sách bế quan tỏa cảng</h2>
Thế kỷ 21 đã được gọi là Thế Kỷ Thái Bình Dương và các
quốc gia ở chung quanh đại dương lớn nhất này đang đóng các
vai trò rất quan trọng trong tương lai.
Tại vùng phía bắc Thái Bình Dương, phần đất Alaska của Bắc
Mỹ tiếp gần với phần đất Yakutsk của miền Tây Bá Lợi Á,
thuộc nước Nga. Về phía tây nam của Thái Bình Dương là các
hải đảo chạy gần như song song với lục địa châu Á, đó
là các đảo Aleutian, Kurile, quần đảo Nhật Bản, quần đảo
Phi Luật Tân…
Vào thế kỷ 16 và 17, ba cường quốc đã thiết lập buôn bán
với Nhật Bản là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hòa Lan. Người
Bồ và người Hòa Lan đã tới Nhật Bản qua mỏm cực nam của
châu Phi, còn người Tây Ban Nha tới từ thuộc địa của họ
là Mễ Tây Cơ. Các người này bị người Nhật gọi là bọn
"nam man" hay những kẻ man rợ của phương Nam, vì họ
thường từ phía nam đi tới Nhật Bản.
Sang thế kỷ thứ 18 và 19, có thêm ba quốc gia nữa tìm cách
buôn bán với Nhật Bản là nước Nga, nước Anh và Hoa Kỳ
nhưng vào thời kỳ này, Nhật Bản đã áp dụng chính sách
"bế quan tỏa cảng", cấm đoán mọi giao dịch thương mại
với các người nước ngoài, ngoại trừ với người Hòa Lan
sinh sống tại Nagasaki. Vì thế, các người nước ngoài muốn
làm thay đổi chính sách kinh tế kể trên không phải là một
việc dễ dàng.
Quốc gia đầu tiên muốn gõ cửa Nhật Bản là nước Nga. Vào
đầu thế kỷ 18, Đại Đế Peter (1672-1725) là Sa Hoàng có rất
nhiều quyền lực và tham vọng, đã quyết định mở mang miền
Siberia . Đây là một vùng đất bao la, rất giàu tài nguyên
nhưng khí hậu rất khắc nghiệt. Vào thời đại của Sa Hoàng
Peter, di chuyển hàng hóa qua miền Siberia chỉ trông cậy vào các
con chó chạy trên những cánh đồng tuyết phủ mênh mông, còn
dùng đường biển đi từ một hải cảng trên biển Baltic tới
hải cảng Okhotsk tại Siberia phải mất hơn một năm. Hơn nữa,
các hải cảng thuộc miền đông lại đóng băng 10 tháng trong
một năm và chỉ dùng được trong 2 tháng 8 và 9. Việc chuyên
chở tài nguyên Siberia là quặng mỏ và sản phẩm rừng, chỉ
trông cậy vào các con tầu biển chở nặng và các hải trình
dài đòi hỏi tới các hải cảng thân hữu để các con tầu
này cập bến lấy đồ ăn và nước uống. Ngoài ra, các con
tầu Nga đi tới Siberia còn cần một nơi chờ đợi cho băng
tuyết tan đi. Một hải cảng của Nhật Bản đúng là một nơi
lý tưởng. Với ý định như thế, Đại Đế Peter ra lệnh cho
các học giả học tiếng Nhật qua các sách của người Hòa Lan
và cho tầu thuyền thám hiểm các hòn đảo Kuril nằm giữa
nước Nga và nước Nhật. Nhưng Đại Đế Peter đã chết
trước khi có các tiếp xúc chính thức giữa hai nước.
Tới cuối thế kỷ 18, nước Nga lại có một nhà vua nhiều
quyền lực là Nữ Hoàng Catherine (1729-96). Bà vua này cố gắng
nối tiếp các liên lạc chính thức với Nhật Bản nên vào năm
1792, một phái đoàn Nga đã tới hải cảng Nemuro thuộc hòn
đảo phía bắc Hokkaido. Để có được tình cảm tốt đẹp,
phái đoàn này còn đưa về Nhật Bản các người Nhật bị
đắm tầu và được đối xử tử tế tại đất Nga. Phái
đoàn Nga xin phép tới Edo là kinh đô của Nhật Bản thời đó
để thương lượng việc buôn bán nhưng đã bị từ chối. Tới
năm 1804, một phái đoàn Nga khác cũng tới hải cảng Nagasaki và
cũng bị chính quyền Shogun (将軍 Tướng Quân) cự tuyệt.
<center><img
src="https://sphotos-b-ams.xx.fbcdn.net/hphotos-prn1/1146456_531352950265791_251969921_n.jpg"
/></center>
<center><em>Shogun (将軍 Tướng Quân)</em></center>
Sự việc hai lần khước từ buôn bán với nước Nga đã khiến
cho tại Edo, những người có trách nhiệm quốc gia phải quan
tâm. Hokkaido là một hòn đảo thưa dân, ở phía bắc, rất cần
được phát triển để mang lại thực phẩm cho các hòn đảo
tại phía nam. Sự liên lạc với nước Nga có thể giúp ích cho
việc phát triển này. Nếu phái đoàn Nga kiên nhẫn hơn, nán ở
lại Nhật Bản lâu hơn thì việc thương lượng có thể có
kết quả. Tuy nhiên, vị đại sứ Nga không kiên nhẫn, đã tự
ý ra lệnh cho một tầu chiến tấn công một vùng biển của
đảo Hokkaido. Việc dùng võ lực này đã khiến cho chính quyền
Shogun quyết định tăng cường võ trang để bảo vệ Nhật Bản
và càng cấm cản người nước ngoài.
Năm sau, 1808, một tầu chiến Anh chạy vào hải cảng Nagasaki và
thuyền trưởng của con tầu đã bắt buộc vị tổng trấn
thành phố phải cung cấp các đồ ăn và nước uống cần
thiết. Nhiều tầu Anh khác cũng làm như vậy và vào năm 1824,
đã có các cuộc chiến giữa các thủy thủ người Anh và một
số người Nhật Bản.
Tất cả các biến cố kể trên phối hợp lại đã khiến cho
chính quyền Shogun ban ra một sắc luật mới vào năm 1825, ra
lệnh bắn phá tất cả các tầu thuyền ngoại quốc tới gần
các bờ biển Nhật Bản và giết hay bắt tất cả các thủy
thủ xa lạ. Các chính quyền địa phương Nhật được lệnh
toàn quyền thi hành sắc lệnh này mà không cần hỏi về kinh
đô Edo. Trước kia, các tầu biển nước ngoài nếu thiếu
nước uống và đồ ăn thực sự, có thể ghé các hải cảng
Nhật Bản trong một thời gian thật ngắn, nhưng sau khi sắc
luật kể trên được ban hành thì mọi tầu bè ngoại quốc
đều bị từ chối dứt khoát. Hành động cứng dắn của chính
quyền Shogun kể trên lại càng làm cho chính quyền này bất
lực về sau.
Cũng vào khoảng thời gian này, tại Trung Hoa, các thương nhân
người Anh đã bán thuốc phiện trồng tại Ấn Độ cho các dân
ghiền người Hoa. Vì thế Hoàng Đế Trung Hoa đã ra lệnh việc
bán thuốc phiện phải bị chấm dứt và tại một hải cảng
miền Quảng Đông, một số lớn thuốc phiện của người Anh
bị tịch thu và đốt bỏ. Nước Anh vì vậy đòi nước Trung
Hoa bồi thường và khi bị từ chối, các tầu chiến Anh đã
bắn phá bờ biển Trung Hoa. Đó là cuộc "Chiến Tranh Nha
Phiến". Lực lượng Trung Hoa không thể chống lại hạm đội
Anh nên một số hải cảng Quảng Đông, hải cảng Thượng Hải
và thành phố Nam Kinh bị chiếm đóng. Hiệp Ước Nam Kinh ký
năm 1842 nhường cho nước Anh hòn đảo Hồng Kông gần Quảng
Đông và đặc quyền cho phép người Anh buôn bán tại 5 hải
cảng Trung Hoa.
Tại châu Á, Trung Hoa từ xưa vẫn được coi là một nước
lớn, hùng mạnh nhất mà không thể chống cự nổi hạm đội
Anh, điều này đã làm cho Nhật Bản phải suy nghĩ. Một số
lãnh chúa Nhật đã khuyến cáo chính phủ nên giao thương ngay
với các nước Tây Phương để có cơ hội mua võ khí ngõ hầu
bảo vệ Nhật Bản. Tuy nhiên chính quyền Shogun vẫn cương
quyết bế quan tỏa cảng, nhưng việc học hỏi Tây Phương có
thể được làm ngơ để người Nhật biết cách chế tạo ra
các võ khí mới.
<h2>2. Đô Đốc Perry tới nước Nhật</h2>
Sau nước Nga và nước Anh, Hoa Kỳ là quốc gia thứ ba đòi hỏi
Nhật Bản phải mở hải cảng, giao thương với các nước
ngoài. Vào thập niên 1840, Hoa Kỳ đã quan tâm tới Thái Bình
Dương. Năm 1846, nước Anh công nhận quyền lợi của Hoa Kỳ
tại miền đất Oregon và hai năm sau đó, Tây Ban Nha chịu
nhường thuộc địa là miền California sau cuộc chiến tranh Mễ
Tây Cơ. Năm 1849, cuộc khám phá ra vàng tại California đã tạo
nên cuộc săn vàng sôi nổi tại miền tây Hoa Kỳ. Đã có một
dự định xây dựng một đường xe lửa xuyên qua lục địa
Bắc Mỹ và một dự án về tầu thủy băng qua Thái Bình Dương
để tới Trung Hoa. Các quốc gia chính của châu Âu đang hướng
về thị trường hàng triệu người tiêu thụ của châu Á để
bán ra các sản phẩm dư thừa của họ, tạo nên bởi các
phương pháp sản xuất của cuộc cách mạng kỹ nghệ. Hoa Kỳ
cũng muốn chia phần trong việc tìm kiếm thị trường quốc
tế. Ngoài ra vùng biển bắc Thái Bình Dương là nơi rất tốt
để săn cá voi và đã có hơn 500 người Mỹ hành nghề tại
vùng biển này. Những lý do kể trên khiến cho Hoa Kỳ hướng
về châu Á.
Nhật Bản là miền đất nằm trên đường đi từ California
tới Trung Hoa. Một thập niên về trước, nước Anh đã dễ
dàng ép buộc Trung Hoa phải mở cửa để cho người nước
ngoài vào buôn bán nên vào lúc này, Hoa Kỳ cũng muốn làm áp
lực với Nhật Bản vì người Nga đang có các toan tính về
thị trường Nhật. Vì thế, Hoa Kỳ phái một đoàn tầu chiến
tới kinh đô Edo. Cầm đầu hạm đội Hoa Kỳ là Đô Đốc
Matthew Calbraith Perry (1794-1858).
<center><img
src="https://fbcdn-sphotos-h-a.akamaihd.net/hphotos-ak-prn2/s720x720/1233369_531352386932514_1689356296_n.jpg"
width="400" /></center>
<center><em>Matthew Calbraith Perry</em></center>
Đô Đốc Perry thuộc một gia đình hải quân truyền thống. Anh
của ông là Oliver Hazard Perry là một vị anh hùng trong trận
chiến Hồ Erie của cuộc chiến 1812. Còn chính Perry, ông đã
chỉ huy lực lượng hải quân Mỹ lớn nhất thời đó trong
cuộc chiến tranh Mễ Tây Cơ và đã thắng lợi trong cuộc tấn
công hải cảng Veracruz. Ông cũng là một nhà ngoại giao trong
các cuộc thương thảo tại Canada, Naples và Nigeria. Đô Đốc
Perry luôn luôn bênh vực quan điểm là Hải Quân Mỹ nên dùng
tầu thủy chạy bằng hơi nước để thay thế loại tầu biển
dùng buồn, vì vậy trong hạm đội của ông đi tới Nhật Bản
đã có hai tầu thủy. Ngoài ra, đặc tính thích hợp nhất của
ông trong việc thương lượng với Nhật Bản là tính kiên
nhẫn.
Mùa thu năm 1852, Đô Đốc Perry rời hải cảng Annapolis để đi
Nhật Bản, có Tổng Thống Hoa Kỳ Millard Fillmore tới tận nơi
từ biệt. Đây là vị đô đốc thứ tư của Hoa Kỳ được
gửi đi Nhật Bản kể từ năm 1845, vì các lần trước đều
thất bại. Vào ngày thứ Sáu, mồng 8 tháng 7 năm 1853, hạm
đội của Đô Đốc Perry tiến vào vịnh Edo (nay là vịnh Tokyo)
trước các con mắt rất ngạc nhiên và thán phục của người
Nhật Bản vì họ chưa từng được trông thấy hai chiếc tầu
thủy chạy ngược gió. Hạm đội này đã bỏ neo tại thành
phố Uraga, trên bờ phía tây của vịnh Edo.
Sự xuất hiện quá nhanh và bất ngờ của hạm đội Mỹ đã
khiến cho chính quyền Shogun không biết cách phản ứng, vì vậy
cách hay nhất của họ là trì hoãn việc đối phó, trong khi đó
dân chúng Nhật đã kéo tới Uraga để nhìn thấy rõ các con
tầu chiến Hoa Kỳ. Vào thời đó, các tầu thuyền của Nhật
Bản còn làm bằng gỗ, thô sơ, không sơn phết, trong khi chiến
hạm Mỹ được đóng theo kỹ thuật mới và sơn màu đen.
Lúc cập bến cảng Nhật Bản, Đô Đốc Perry đã từ chối
gặp các nhân viên cấp dưới và sau một buổi lễ long trọng,
đã trao bức thư của Tổng Thống Fillmore cho một hoàng tử
Nhật để chuyển về cho Thiên Hoàng. Bức thư này đã nhã
nhặn đòi hỏi ba điều: việc thương mại trên căn bản thử
nghiệm, việc đối xử nhân đạo đối với các thủy thủ Mỹ
gặp nạn và việc bán than đá cho các tầu thủy Hoa Kỳ. Chính
quyền Shogun lúc đó đã không trả lời ngay mà yêu cầu hạm
đội Mỹ ra đi vì bức thư đã được chấp nhận. Đô Đốc
Perry hẹn sẽ trở lại sau một năm với một hạm đội hùng
mạnh hơn. Shogun sau đó đã hội họp với các lãnh chúa để
hỏi ý kiến và tìm ra giải pháp. Lòng ái quốc, lòng hãnh
diện quốc gia và chính sách bế quan tỏa cảng đã không cho
phép họ chấp nhận các điều yêu cầu của Hoa Kỳ. Nhưng vũ
khí hùng mạnh của hạm đội Mỹ lại có thể gây nên những
rắc rối giống như người Anh đã làm tại Trung Hoa.
Ngày 11 tháng 2 năm 1854, Đô Đốc Perry trở lại vịnh Edo, lần
này với 8 tầu chiến. 5 ủy viên của chính quyền Shogun đã
họp với Đô Đốc Perry tại một làng thuộc tỉnh Yokohama và
cuối cùng, vào ngày 31 tháng 3, họ đã ký với nhau thỏa ước
Kanagawa, chấp thuận đối xử tử tế với các thủy thủ bị
đắm tầu người Hoa Kỳ, cho phép các tầu biển Hoa Kỳ được
cặp bến tại hải cảng Shimoda, nằm 100 dặm về phía nam của
Edo, tại hải cảng Hokodate thuộc hòn đảo Hokkaido, và cũng
chấp nhận trụ sở của một viên lãnh sự Hoa Kỳ tại Shimoda
để sau này dàn xếp việc thương mại. Việc phê chuẩn thỏa
ước được phía Hoa Kỳ làm ngay, nhưng phía Nhật Bản đã
để mất nhiều thời giờ hơn. Bắt chước Hoa Kỳ, các nước
Anh, Hòa Lan và Nga cũng đòi hỏi các nhượng bộ tương tự và
Nhật Bản không còn cách nào khác hơn là chấp nhận.
Tháng 8 năm 1856, viên lãnh sự Hoa Kỳ đầu tiên tên là Towsend
Harris tới nhận nhiệm sở tại hải cảng Shimoda. Vị này đòi
hỏi Nhật Bản không những mở hải cảng để giúp các tầu
biển cần tiếp liệu mà còn phải thi hành việc thương mại
toàn diện. Vào thời này, nhiều người Nhật đã thấy rằng
thỏa ước bất công, có tính một chiều bởi vì Nhật Bản
không thể buôn bán tại Hoa Kỳ, song Nhật Bản quá yếu, không
làm sao ngăn cản được áp lực ngoại quốc và đã đến lúc
phải chấm dứt chế độ Shogun Tokugawa (Tướng Quân) đã nắm
quyền lực hai thế kỷ rưỡi. Các lãnh chúa đã bàn tính tới
việc phục hồi quyền lực cho Thiên Hoàng. Kyoto do đó đã trở
nên một trung tâm chính trị sôi động. Một khẩu hiệu phổ
biến vào thời kỳ đó là "Tôn vinh Thiên Hoàng, đánh đuổi
các kẻ man rợ ". Một số lãnh chúa thế lực đã mời Thiên
Hoàng và các nhà quý tộc tham dự vào các buổi bàn thảo về
chính sách quốc gia, một việc làm đầu tiên trong nhiều thế
kỷ.
Trong một cố gắng để làm yên lòng phe đối lập đối với
các đòi hỏi thương mại mới, Shogun Tokugawa đã mang thỏa
ước để xin Thiên Hoàng chấp thuận. Vào các thập niên
trước, tất nhiên Thiên Hoàng phải đồng ý nhưng lần này,
Thiên Hoàng đã bác bỏ. Một lý do là vì hải cảng phải mở
cửa là Osaka, quá gần với Kyoto. Thiên Hoàng lại khuyến cáo
chính quyền Shogun phải quan tâm đến các ý kiến của các lãnh
chúa mạnh thế.
Tháng 8 năm 1858, Shogun thứ 13 tên là Iesada qua đời. Hội Đồng
Niên Lão đã chỉ định một Đại Thần có quyền hành động
như một nhà độc tài để phục hồi quyền hành trung ương.
Vị này phải đủ mạnh để bắt giữ các lãnh chúa đối
lập, chọn ra một Shogun mới và ký thỏa ước với Hoa Kỳ.
Vào lúc này, các nước Anh, Hòa Lan, Nga và Pháp cũng đòi hỏi
các thỏa ước tương tự, khiến cho sự bất mãn càng gia tăng
nhất là khi nhiều người ngoại quốc bắt đầu tới Nhật
Bản.
Năm 1860, vị Đại Thần bị ám sát chết. Lúc này, một số võ
sĩ Samurai Nhật đã đốt nhà của nhiều người ngoại quốc và
giết chết một số người khác. Tầu chiến các nước phương
Tây liền trả thù lại bằng cách bắn phá các hải cảng
Nhật. Chính quyền Shogun càng ngày càng trở nên bất lực,
không kiểm soát nổi tình thế. Có hai thành phố đã mua lậu
võ khí tây phương là Satsuma ở phía nam của đảo Kyushu, và
Choshu ở phía tây của đảo lớn Honshu. Họ đã tổ chức
được 2 đội quân gồm các samurai trẻ, có khả năng. Những
người ngày thấy rằng cần phải thiết lập nên một chính
phủ mới dưới quyền của Thiên Hoàng và hủy bỏ chế độ
Shogun (Tướng Quân). Một trong các samurai trẻ kể trên sau này
trở nên một chính khách lỗi lạc của nước Nhật, đó là Ito
Hirobumi, sinh năm 1841 trong một gia đình võ sĩ đạo thuộc miền
Choshu.
Ito Hirobumi cho rằng cách hay nhất để học hỏi Tây Phương là
đi qua phương Tây. Với đạo luật bế quan, ra khỏi nước
Nhật có thể bị khép tội tử hình. Nhưng Ito, 22 tuổi, và 4
người trẻ khác đã trốn lậu trên một con tầu biển hướng
tới Thượng Hải, đó là vào năm 1863. Tới Thượng Hải, Ito
xin làm thuyền viên trên một con tầu khác để đi tới London,
nước Anh.
Năm 1864, lãnh chúa tỉnh Choshu đã ra lệnh cho các đại pháo
trên bờ bắn vào các con tầu ngoại quốc chạy vô các eo biển
hẹp giữa hai đảo Honshu và Kyushu. Kết quả là các đại pháo
này đã bị các tầu biển tây phương tiêu diệt dễ dàng. Rồi
tỉnh Satsuma cũng gặp các kinh nghiệm tương tự. Điều chứng
minh rõ ràng này đã khiến cho người Nhật Bản nhận biết sự
cần thiết phải xử dụng võ khí và học hỏi kỹ thuật
chiến tranh của Tây Phương. Ito Hirobumi được phái tới Nagasaki
để lo việc nhập cảng võ khí của nước Anh.
Tháng 9 năm 1866, vị Shogun thứ 14 chết sau 8 năm cầm quyền.
Kế tiếp là Shogun thứ 15 và cũng là Tướng quân cuối cùng
của giòng họ Tokugawa. Năm 1867, Thiên Hoàng qua đời, kế vị
là một hoàng tử 14 tuổi tên là Mutsuhito.
Ngày 3 tháng 1 năm 1868, các đội quân của hai tỉnh Satsuma và
Choshu đã chiếm Hoàng Cung Kyoto. Những người lãnh đạo cuộc
nổi dậy đã triệu tập một hội đồng hoàng tộc để điều
khiển đất nước và hội đồng này gồm những người không
muốn tiếp tục chế độ Shogun. Từ tháng 4 năm 1868, Shogun trở
thành một trong các lãnh chúa và quyền lực của giòng họ
Tokugawa bị chấm dứt sau hai thế kỷ rưỡi.
Hội đồng cai trị Nhật Bản đã tuyên bố rằng Thiên Hoàng
cần được phục hồi quyền lực cũ. Vị Vua của triều đại
mới này là "Thiên Hoàng Minh Trị", người đã mở ra một
trang sử rực rỡ cho nước Nhật.
Phạm Văn Tuấn
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130826/pham-van-tuan-do-doc-perry-va-viec-mo-cua-nuoc-nhat),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét