Đào Tiến Thi - Phản biện bài viết của GS Hoàng Chí Bảo

<center><img
src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhUy61nLIFswIqqXvUIR4IzcRE-0cOzzPy6RxY6-rGTP_I5-5xvjWlp9liACNgPONn37wlHrh3Ms0cU729Unc0F9KHnzL7rsdSM2rC6BX0B7fCLUPQS5nC_CZH5R9iAOA1_RYjgZtYu0tNK/s1600/H%E1%BB%99i+ngh%E1%BB%8B+chuy%C3%AAn+%C4%91%E1%BB%81+v%E1%BB%81+01.jpg"
></center>

<h2>Đâu là "sự thật", "công lý" và "trách nhiệm" qua
bài viết của Giáo sư Hoàng Chí Bảo?</h2>

Giáo sư Hoàng Chí Bảo (ảnh trên) vừa có bài <a
href="http://208.83.223.238/2013/08/26/1992-trong-su-that-va-chan-ly-de-hanh-dong-co-trach-nhiem/">Trọng
sự thật và công lý để hành động có trách nhiệm</a> nhằm
bác bỏ những ý kiến (chủ yếu là của ông Lê Hiếu Đằng
và ông Hồ Ngọc Nhuận) về việc thành lập Đảng Dân chủ xã
hội ở Việt Nam.

Toàn bài của Giáo sư Hoàng, từ tiêu đề, đều toát lên
tiếng nói của kẻ có quyền phán quyết và dạy dỗ. Ví dụ
ngay đoạn đầu đã đóng đinh bằng hàng loạt nhận định mang
tính tiên đề, không có chứng minh, phân tích, biện bác gì
cả: "<i>Ý Đảng – Lòng dân – Phép nước đã thống nhất
và hòa quyện làm một, tạo thành sức mạnh thúc đẩy đổi
mới, làm nên sức sống của đổi mới, thành tựu phát triển
đất nước như hiện nay. Đổi mới là sự gặp gỡ tất yếu
và tự nhiên giữa những hối thúc của đời sống thực tiễn
với những sáng kiến, sáng tạo của cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân từ cơ sở, cùng với quyết sách đúng
đắn, kịp thời của Đảng</i>".

Giáo sư dựa vào đâu để nhận định: "<i>Ý Đảng – Lòng
dân – Phép nước đã thống nhất và hòa quyện làm
một</i>"? Và nếu thế không có gì phải bàn, phải làm nữa.
Chẳng lẽ Giáo sư không hề biết chỉ trong mấy năm qua hàng
loạt tập đoàn kinh tế nhà nước đổ vỡ, hàng nghìn dân oan
bị tước đoạt ruộng đất, phải đi khiếu kiện năm này qua
năm khác mà vẫn không có kết quả gì; hàng chục nghìn người
phải ra nước ngoài làm thuê; hàng ngàn phụ nữ phải lấy
chồng ngoại, thực chất là những cuộc bán mình; hàng trăm
người yêu nước và đấu tranh cho chủ quyền dân tộc và lẽ
công bằng bị kết tội tuỳ tiện hoặc thường xuyên bị sách
nhiễu, bất chấp luật pháp. Cả xã hội gần bất lực trước
nạn tham nhũng, lạm quyền và các loại tội phạm. Biển đảo
thì ngày càng bị nhà cầm quyền Trung Cộng ngang nhiên xâm
lấn, ngư dân luôn bị khủng bố mà không có một chiến
lược, một quyết sách gì để ngăn chặn và hy vọng. Và còn
bao nhiêu nan giải khác về xã hội, giáo dục, y tế,… Là một
nhà khoa học, nhất là khoa học xây dựng Đảng, lẽ ra Giáo sư
Hoàng phải cảnh báo cho Đảng để có sự điều chỉnh về
đường lối chính sách; còn đối với những tiếng nói đối
lập, phải đối thoại cởi mở trên cơ sở chân lý và đạo
lý; nhưng qua bài trên, tôi thấy Giáo sư chỉ ra sức tô hồng
hiện thực và kết tội những người khác ý kiến, như thế
còn đâu là "sự thật", còn đâu là "công lý" với
"trách nhiệm" như tiêu đề của bài?

Giáo sư Hoàng khen ngợi thành tựu đổi mới của Đảng. Đồng
ý. Nhưng là một bài tranh luận, Giáo sư phải bác bỏ từng
luận điểm của đối phương. Khi ông Lê Hiếu Đằng nêu
những cái phi lý, bất cập, tội lỗi của chính thể hiện nay,
lẽ ra Giáo sư phải bác bỏ từng điểm một mới phải, chứ
sao lại lấy cái hay để thay thế cho cái dở? Làm cho "Ông
nói gà, bà nói vịt", chẳng ăn nhập gì cả. Công là công,
tội là tội, làm sao lấy công thay cho tội được?

Bây giờ tôi xin tập trung phân tích hai ý chính trong của Giáo
sư Hoàng Chí Bảo:

- Ca ngợi công lao của Đảng, chủ yếu là giai đoạn từ phát
động "đổi mới" đến nay.

- Coi sự độc quyền lãnh đạo của Đảng là hợp lý, hợp
tình.

<b><i>Về ý thứ nhất,</i></b> khi Giáo sư Hoàng ca ngợi công lao
của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước (từ cuối
1986, khi chấp nhận kinh tế thị trường, kinh tế tư bản, tư
nhân) không phải là sai nhưng coi đấy là tất cả do "thiên
tài Đảng ta" thì thật không khách quan, không vô tư. Cuộc
"đổi mới" này, nói cho công bằng, là cuộc gỡ bớt (bớt
thôi chứ không hết) những cái ách phi lý đè nặng bấy nhiêu
năm. So với trước đó (kinh tế tập thể, tập trung, cấm
tiệt kinh tế tư nhân, tư bản) thì đúng là mới. So với Bắc
Triều Tiên và Cu Ba, hai quốc gia kiên định giữ nguyên mô
hình CNXH, thì bước đi của Đảng Cộng sản Việt Nam là rất
mới, rất táo bạo. Nhưng so với Đảng Cộng sản Trung Quốc
(tiến hành cải cách mở cửa từ năm 1978), thì ta cũng bình
thường thôi (chậm hơn Trung Quốc gần một thập kỷ và tốc
độ cũng chậm hơn nhiều). Còn so với sự đòi hỏi của thực
tiễn, so với quy luật chung của cuộc sống, so với con đường
của hầu hết các quốc gia trên thế giới đã đi thì sự
"đổi mới" của ta chẳng có gì mới, thậm chí là quá
chậm. Sự đổi mới ấy chẳng qua là quay về với cái cũ (ở
Việt Nam thời Pháp thuộc đã có kinh tế tư bản không đến
nỗi nhỏ). Kinh tế thị trường (tư bản) đã ra đời ở Âu
– Mỹ, Nhật Bản hàng trăm năm trước. Và thị trường của
họ ngày nay đã tiến tới sự hoàn thiện dưới sự điều
hành, giám sát của nhà nước pháp quyền, của xã hội dân sự
(trong đó đặc biệt là vai trò của nghiệp đoàn, của tự do
ngôn luận, tự do báo chí), chứ không phải thị trường hoang
dã, méo mó như Việt Nam hiện nay.

Tất nhiên là khi gỡ bớt những cái ách trên thì nhân dân
phấn khởi, sức lao động và sức sáng tạo bao nhiêu năm bị
kiềm toả bỗng nhiên được giải phóng. Lại thêm tư bản
nước ngoài vào đầu tư, tất cả đã khiến kinh tế Việt Nam
khởi sắc hẳn lên. Tức là kinh tế bước đầu được vận
hành theo quy luật. Cứ nhìn vào hình ảnh người nông dân trên
đồng ruộng khi vừa mới có chính sách chia ruộng những năm
cuối thập niên tám mươi, đầu thập niên chín mươi của thế
kỷ trước so với giai đoạn hợp tác xã trước đó thì đủ
biết. Thời hợp tác xã, người ta đệm cho cày nông choèn,
rồi cày một đường lại bỏ "lỏi" nửa đường là
chuyện thường. Việc bừa cũng tương tự như vậy. Nhưng đến
lúc chia ruộng, bà con làm ruộng nhuyễn như nồi cháo nấu kĩ.
Rồi bao nhiêu phân gio được chiu chắt, chăm bẵm,… do đó lúa
tốt hẳn lên chứ không "chó chạy hở đuôi" như thời hợp
tác xã. Trời còn mờ tối, bà con đã lục tục ra đồng, tối
nhọ mặt vẫn chưa chịu về, khác hẳn thời hợp tác xã, mặt
trời còn con sào mới gọi nhau xuống đồng, lại còn giải lao
giữa giờ, trà thuốc chán chê, cho đến khi mặt trời sắp
lặn mới xuống làm tượng trưng một chút nữa rồi về.

Viết đến đây tôi muốn muốn minh hoạ thêm bằng một ý của
Mạc Ngôn (nhà văn Trung Quốc, giải Nobel 2012). Năm 1993, Mạc
Ngôn qua thăm một thành phố vùng biên giới Nga – Trung. Ông
hết sức ngạc nhiên khi thấy cùng thảo nguyên ấy, bên Nga
đất đai hết sức phì nhiêu và rộng rãi so với Trung Quốc,
nhưng dân Nga lại nghèo khổ hơn hẳn dân Trung Quốc (lúc ấy
Trung Quốc đã cải cách được 15 năm, còn Nga vừa mới tan rã
đế chế Xô Viết). Mạc Ngôn nhận định: "<i>Người dân
dưới bất kỳ chế độ xã hội nào đều là một quần thể
cần lao, dũng cảm, giàu sức sáng tạo nhất. Chỉ cần nới
lỏng một chút bàn tay xiết trên cổ họ, để họ có thể hít
thở được, chỉ cần nới lỏng một chút cái sợi dây xiềng
xích giữ tay và chân họ, để họ có thể lao động được,
họ có thể sáng tạo ra cả một nền văn hoá rực rỡ và
những của cải lớn lao</i>" [1].

Dẫu sao thì dân ta hiện nay cũng "vênh mặt" được với
Bắc Triều Tiên và Cu Ba. Nhưng so với Nhật Bản, Hàn Quốc,
những nước cho đến tận đầu thế kỷ XIX chỉ tương đương
mình như, thì mình thật đau xót; còn so với những nước lân
bang như Thái Lan, Singapore, cho đến tận đầu thế kỷ XIX, vẫn
còn là "đàn em" của ta, thì thật hổ thẹn.

Và đúng là cuộc đổi mới đã giúp Đảng Cộng sản thoát
hiểm như nhận định của Giáo sư Hoàng Chí Bảo. Nhưng cuộc
thoát hiểm đó mang tính chất tình huống, tạm thời. Bởi vì
chỉ đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị. Theo
nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, kinh tế là cơ sở hạ
tầng, quyết định kiến trúc thượng tầng, tức hình thái nhà
nước; và kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở
hạ tầng. Lực lượng sản xuất phát triển đến độ như bây
giờ thực sự đã mâu thuẫn gay gắt với kiến trúc thượng
tầng. Kinh tế thị trường do không đi đôi với nhà nước
pháp quyền và xã hội dân sự đã dẫn đến những nhóm lợi
ích, những sự cạnh tranh mang tính maphia,… Và đặc biệt là
tình trạng tham nhũng vô phương cứu chữa. Càng duy trì tình
trạng này sẽ càng tiếp tục khủng hoảng, cả kinh tế và
chính trị. Chính nó đe doạ sự tồn vong của Đảng, chứ
không phải "các thế lực thù địch".

<b><i>Về ý thứ hai</i></b>, Giáo sư Hoàng nêu: "<i>Dân ủy
thác cho Đảng trọng trách. Sứ mệnh, địa vị và trọng trách
của Đảng là sự lựa chọn của dân, là sự tin cậy mà dân
dành cho Đảng…</i>". Thế nhưng giáo sư lại không biện
luận, không chứng minh được điều này. Thử hỏi, dân uỷ
thác cho Đảng bao giờ, dưới hình thức nào? Đã gọi là uỷ
thác thì phải qua một hình thức "khế ước" như qua hiến
pháp, qua các bộ luật, qua việc bầu cử tự do. Hiến pháp
hiện hành có ghi: "Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng
lãnh đạo nhà nước và xã hội" (Điều 4) nhưng nhân dân
chưa bao giờ được phúc quyết điều này. Tất cả các chức
danh lãnh đạo của Đảng hoàn toàn do Đảng bầu, Đảng cử
chứ dân không có quyền gì. Giáo sư lý giải thế nào hình
ảnh một xã hội được gọi là dân chủ nhưng người đại
diện cho mình, thực thi những quyền lợi của mình, quyết
định số phận của mình, lại không phải do mình bầu lên?

Giáo sư viết tiếp: "<i>Phản ứng và thái độ của cá nhân
là quyền của mỗi người, nhưng quyền ấy phải thuận theo
đạo lý và luật pháp</i>". Không hiểu đó là đạo lý gì và
luật pháp nào? Ở dưới, Giáo sư có giải thích nhưng cũng
chẳng sáng tỏ gì hơn: "<i>Đó là <b>lẽ phải</b> và <b>đạo
lý</b> ở đời và làm người mà Bác Hồ gọi là <b>Thân
dân</b> và <b>Chính tâm</b>. Với những đảng viên của Đảng
Cộng sản, đòi hỏi này càng cần phải <b>tôn trọng nghiêm
ngặt</b> hơn bởi sự dẫn dắt của <b>lý trí tỉnh táo, sáng
suốt</b> và <b>thái độ chính trị nghiêm túc</b>, biết tự
mình <b>trung thành</b> với lý tưởng và nguyên tắc, cùng với
<b>giữ trọn đạo</b> làm người cách mạng</i>" (nhấn mạnh
của ĐTT). Thật quá nhiều ngôn từ to tát nhưng lại không nói
được điều gì. Thử hỏi ông Lê Hiếu Đằng, ông Hồ Ngọc
Nhuận,… vi phạm <i>đạo lý</i> và <i>lẽ phải</i> ở chỗ
nào? Không <i>thân dân</i>, không <i>chính tâm</i>, không <i>tỉnh
táo</i>,… ở chỗ nào?

Lại nữa, Giáo sư viết: "<i>Khi đã giác ngộ chân lý thì
phải phục tùng chân lý</i>". Không hiểu Giáo sư nói chân lý
nào đây? Sống dưới chế độ Sài Gòn, ông Lê Hiếu Đằng
thấy không có tự do, độc lập; Đảng nêu cao tự do, độc
lập, ông thấy đấy là chân lý nên đi theo. Nay ông Lê Hiếu
Đằng thấy Đảng không coi trọng tự do, độc lập nữa, ông
muốn thành lập một đảng khác để thực thi tự do, độc
lập, thì đó cũng là chân lý. Chân lý là quá trình nhận
thức, quá trình tìm kiếm không ngừng chứ đâu phải là cái
gì bất biến.

Phần cuối, Giáo sư Hoàng vô tình hay hữu ý đã đánh tráo
khái niệm khi ông bàn sang vấn đề đa đảng ở các nước tư
bản (dân chủ): "<i>Có một thực tế lịch sử hiển nhiên
cũng cần được làm rõ, trong các nước tư bản chủ nghĩa, dù
tồn tại đa đảng và các đảng đối lập, nhưng vẫn định
hình một đảng cầm quyền. Chính trường ở đó thường xuyên
diễn ra các cuộc tranh giành quyền lực giữa các đảng chính
trị tư sản. Họ chỉ đa nguyên, đa đảng trên hình thức, còn
trên thực tế đều tỏ rõ sự nhất nguyên, bởi đảng chính
trị tư sản nào cũng không bao giờ xa rời mục đích bảo vệ
cho quyền thống trị và sự tồn tại của chủ nghĩa tư
bản</i>".

Đúng là trong chính thể đa đảng của các nước dân chủ luôn
diễn ra cuộc tranh giành và tất nhiên rốt cuộc có một đảng
thắng và lên cầm quyền. Nhưng sự cầm quyền ấy khác hẳn
sự độc quyền của đảng cộng sản ở các nước cộng sản.
Trước hết sự cầm quyền của họ là do nhân dân quyết
định (phải thắng phiếu trong bầu cử); thứ hai, khi cầm
quyền, họ buộc phải thực thi pháp luật và thực thi những
điều đã cam kết; nếu không làm được, sẽ bị nhân dân
phế truất bằng nhiều cách khác nhau.

Chưa kể, đảng cầm quyền luôn đối mặt với đảng đối
lập, với xã hội dân sự, với tự do ngôn luận và báo chí,
do đó luôn luôn bị chỉ trích nếu có khuyết điểm. Vì vậy
đảng cầm quyền khó có cơ hội chỉ vơ vén cho quyền lợi
ích kỷ của mình. Tuy vậy, một đảng cầm quyền lâu ngày
vẫn thường dẫn đến tha hoá. Do đó như ta thấy ở Mỹ và
một số nước, mỗi đảng (cũng như tổng thống) giỏi lắm
chỉ cầm quyền được hai nhiệm kỳ. Nhiệm kỳ hai thường là
đuối sức, nhiều tổng thống buộc phải từ chức giữa
nhiệm kỳ. Nền chính trị dân chủ của họ do đó luôn luôn
được "thay máu", có lẽ vì thế mà chế độ tư bản
"giãy" mãi mà không "chết"!

Giáo sư Hoàng cũng lặp lại một điều mà các đồng nghiệp
của ông ai cũng bám lấy: "<i>Không phải cứ đa nguyên đa
đảng là có thể xây dựng được xã hội dân chủ</i>".
Đúng. Không phải cứ đa nguyên đa đảng là có thể xây dựng
được xã hội dân chủ. Cũng như không phải cứ ăn chất
đạm thì khoẻ mạnh, cứ dùng thuốc thì chữa được bệnh.
Nhưng muốn khoẻ mạnh thì không thể từ chối ăn chất đạm,
muốn chữa được bệnh thì không thể không dùng thuốc. Cho
nên cái mệnh đề trên của Giáo sư Hoàng và một loạt giáo
sư Mác – Lê-nin khác chả có gì đứng vững. Nhưng điều này
thì có: Không phải cứ đa nguyên đa đảng là có thể xây
dựng được xã hội dân chủ nhưng muốn xây dựng xã hội dân
chủ, không thể không đa nguyên, đa đảng. Điều này thực tế
đã chứng minh: chưa hề có nước nào độc đảng mà có dân
chủ, nhưng nhiều nước đa nguyên đa đảng thì đã có dân
chủ, ít nhất cũng dân chủ hơn các nước độc đảng. Tại
sao ta không đi con đường mà thế giới đã đi, cứ nhất nhất
đi con đường riêng chưa ai đi, và con đường riêng ấy luôn
luôn phải loay hoay, chật vật? Và thỉnh thoảng, ở tình huống
bế tắc quá thì lại làm cú "phá rào" để thoát hiểm?

Cuối cùng, Giáo sư Hoàng lại quay về với Điều 4 Hiến pháp
để bảo vệ sự độc quyền của Đảng: "<i>Điều 4 trong
Hiến pháp đã khẳng định về vai trò lãnh đạo cầm quyền
của Đảng. Đó là ý chí của dân, nguyện vọng của dân,
đạt được sự đồng thuận rất lớn của xã hội. Đảng ta
trong nhận thức và đánh giá của dân, có đầy đủ tính chính
đáng pháp lý và sự xứng đáng về phẩm giá và uy tín của
một Đảng lãnh đạo và cầm quyền</i>".

Sao Giáo sư lại dùng Điều 4 Hiến pháp thay cho lập luận? Lẽ
ra Giáo sư phải làm ngược lại: dùng lập luận để biện
giải, chứng minh cho sự đúng đắn của Điều 4. Dựa vào đâu
mà Giáo sư bảo Điều 4 là "ý chí của dân"? Đã bao giờ
Hiến pháp được phúc quyết chưa? Đã bao giờ Điều 4 được
đem ra trưng cầu dân ý chưa?

Mấy năm trước, tôi thấy một số chuyên gia Ban Tư tưởng –
Văn hoá Trung ương lo lắng không biết nên "diễn giải" như
thế nào về Đảng bây giờ. Trong tình hình hiện nay, vấn đề
có lẽ càng cấp bách hơn. Người như Giáo sư Hoàng, lẽ ra có
nhiệm vụ biện giải để làm sao sáng ngời tính chính danh
của Đảng (chứ không phải càng nói càng hỏng). Hoặc là
phải tham mưu cho Đảng, làm sao có đủ chính danh. Và nhất là
làm sao "thay máu" để Đảng lành mạnh trở lại, chứ không
phải nói lấy được những điều trên.

Một người "gác cổng" lâu năm cho Đảng về mặt lý luận
lại có học hàm giáo sư, tôi thật buồn khi thấy bài của
Giáo sư Hoàng chỉ ở tầm "dư luận viên" mà thôi. Thực
tình tôi nghĩ không phải trình độ Giáo sư Hoàng Chí Bảo như
vậy. Vì tôi đã từng nghe Giáo sư Hoàng giảng về Nghị quyết
Trung ương IV khá hay. Lần giảng về NQ Trung ương IV đó, cách
đây chưa lâu, Giáo sư đã phân tích nguyên nhân thoái hoá chính
là từ trong Đảng (do tham nhũng, lộng quyền, dối trá,… mà ra
chứ không phải do "thế lực thù địch" dùng thủ đoạn
"diễn biến hoà bình" nào cả). Vậy bây giờ có lẽ do Giáo
sư không nói thật, không căn cứ vào sự thật, cho nên gần
như chẳng biện bác được gì ngoài những khẩu hiệu khô
cứng. Thiết nghĩ bảo vệ Đảng như thế thật hoá ra hại
Đảng. Như cụ Nguyễn Du đã viết: <i>Yêu nhau thì lại bằng
mười phụ nhau</i>.

<b>Đ.T.T.</b>
______________________

[1] <i>Tạp văn Mạc Ngôn</i>, Nhà xuất bản Văn học, 2005.


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130827/dao-tien-thi-phan-bien-bai-viet-cua-gs-hoang-chi-bao),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét