Trần Thị Phương Hoa - Trí thức và vai trò của trí thức châu Âu

<h2>1. Trí thức Anh, Pháp - sự khác biệt</h2>

Một trong những gương mặt tiêu biểu của trí thức
châu Âu hiện đại là Pierre Bourdieu, người kế tục truyền
thống của các thế hệ trí thức Pháp từ Voltaire tới Foucault.
Vào khoảng giữa những năm 1990, Bourdieu đã xuống đường
biểu tình bảo vệ quyền lợi cho công nhân thất nghiệp và
lên án học thuyết kinh tế tự do mới ngày càng đào sâu hố
ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, giữa quốc gia
phát triển và quốc gia chậm phát triển. Bourdieu đã rời bỏ
các thư viện, giảng đường, viện nghiên cứu để xuống
đường, từ một nhà nghiên cứu xã hội học (được đánh
giá là nhà xã hội học hàng đầu tại Pháp) thành một nhà
hoạt động xã hội tích cực. Niilo Kauppi viết 'Lý thuyết
cần có nền tảng luân lý để biến thành thực tiễn, khoa
học cần đạo đức để nắm quyền lực'[1], khi đánh giá
cao giá trị con người Đạo đức, bên cạnh con người Khoa
học của Bourdieu, người luôn đứng về phía quần chúng để
bảo vệ cho lợi ích của họ. Ở Pháp và châu Âu, hình ảnh
của ông được ví với 'người trí thức anh hùng của nước
Pháp, một điển hình của trường phái Lãng mạn một mình
chống lại những thiên kiến tập thể, người dũng cảm nói
lên sự việc như nó đang xảy ra trên thực tế'[2].

Nếu trí thức Pháp, cũng như trí thức Nga, luôn tự nhận về
mình những trách nhiệm cao cả đối với xã hội, quyền lực
của họ được đánh giá tương ứng, trong nhiều trường hợp,
ngang với quyền lực chính trị, thì ở Anh, "trí thức không
mấy được để ý đến", bất chấp những tên tuổi như
Isaac Newton, John Locke, Adam Smith, Jeremy Bentham, William Wordsworth,
Charles Dickens, Charles Darwin... Thậm chí ở Anh "không ai muốn
được gọi là trí thức, vì họ hoàn toàn không có chút quyền
lực và ảnh hưởng nào"[3]. Thái độ của người Anh đối
với khái niệm "trí thức" không hề giống với những gì
mà ngừơi Pháp tôn trọng " ở hầu hết các nước nói tiếng
Anh, tên gọi 'trí thức' không hàm ý khen ngợi, ngược lại
nó có nghĩa dè bỉu hoặc bị lạm dụng"[4], bởi vì, người
Anh được giáo dục rằng "tính cách quan trọng hơn trí
tuệ". Trên thực tế, trong khi trí thức Pháp và Nga luôn cảm
thấy trách nhiệm xã hội nặng nề của mình thì trí thức Anh,
với bản tính "phớt Ang-lê", "không bao giờ thích được
ưu tiên và trao quyền lực". Đối với người Anh, nước Pháp
tiêu biểu cho "chủ nghĩa thế giới, nhân tạo, lệ thuộc vào
mốt, khôn khéo và láu cá"[5]. Trong khi người Anh tự cho mình
là thẳng thắn, tự nhiên, "mang chất đàn ông". Trí thức
Anh tìm cách lánh xa các hiện tượng bề nổi, các danh hiệu,
tước phong và định hướng tới "thực tại, kinh nghiệm".
Cũng chính vì thế mà trí thức Anh bị chỉ trích là "đại
diện cho tầng lớp trung lưu "Philistanh"- những người ham
làm hơn là ham nghĩ ngợi, những nhà đạo đức mà thiếu
"sự ngọt ngào và ánh sáng tư tưởng", đặc điểm khiến
cho trí thức Anh khác với trí thức Pháp và Đức vốn là
những người khởi xướng ra chủ nghĩa lãng mạn.

Tuy nhiên, nếu như trí thức Anh không hướng tới
quyền lực thì giới quyền lực và tinh hoa của Anh lại có
xuất thân từ các gia đình có truyền thống học thức lâu
đời, nhiều trong số họ là các nhà chuyên môn, các chuyên gia
đỉnh cao. Họ tạo nên một giới "quý tộc có học thức",
liên kết với nhau bởi các mối quan hệ gia tộc và hôn nhân
như những Macaulay, Trevelyan, Wedgwood, Darwin, Stephen, Strachey... Vào
thế kỷ 18, 19, và những thập kỷ đầu thế kỷ 20, tầng lớp
quý tộc này được đào tạo ở những trường học nổi
tiếng, có bề dày thành tích hàn lâm. Họ đổ nhiều tiền
của đầu tư cho nhà trường, phát triển các kho sách, thư
viện, và tới lượt con cái họ được thừa hưởng những di
sản học thức được vun đắp qua nhiều thế hệ.

Vậy thì ở nước Anh, khái niệm "trí thức"
(intellectual trong tiếng Anh, intellectuele trong tiếng Pháp) mang
hàm ý gì? Trước hết, người Anh dùng khái niệm
"intellectual" để nói về văn hóa của họ, một nền văn
hóa được đúc kết từ trí tuệ của con người. Sau sự kiện
Dreyfus ở Pháp[6], nước Anh mới tập trung vào "intellectual"
như là một giai tầng đặc biệt và vấn đề trách nhiệm của
họ đối với xã hội. Trước thế kỷ 19, khái niệm
"intellectual" hoặc "intelligentsia" không được sử dụng
để chỉ một "giai tầng". Những người làm việc trí óc
được mô tả qua các từ "clerisy" (trí thức), "man of
letter", "literary men" (kẻ sĩ), hoặc "cultivators of science"
(người vun trồng khoa học). Sau những năm 1870, 1880 mới dùng
các từ "intellectual", "intellectual life" (trí thức, đời
sống trí thức)[7], trong đó "đời sống trí thức" bao gồm
thơ ca, nghệ thuật, triết học, và tôn giáo. Đến cuối thời
Victoria (cuối thế kỷ 19), "đời sống tri thức" bao hàm
hoạt động trong các trường đại học. "Trường đại học
là một tổ chức của đời sống trí thức của đất nước;
đó là nơi học tập, nơi nuôi dưỡng khát vọng khoa học, là
viện hàn lâm, là tổ ấm của học thức, là nơi trú ẩn của
kẻ sĩ và những kẻ thích trầm tư"[8]. Năm 1910, Từ điển
bách khoa Encyclopaedia Britannica định nghĩa "trí thức" là
"người làm việc với lý thuyết và nguyên tắc hơn là với
thực hành, lý thuyết của họ thường liên quan đến những
vấn đề trừu tượng: họ xa rời thế giới, và họ chủ yếu
thuộc giới dạy học và văn hóa, những người ít chú ý đến
những thú vui tầm thường"[9]. Hayek phân biệt năm ý nghĩa
khác nhau của khái niệm "trí thức". Ý nghĩa thứ nhất như
đã nói đến ở trên, trí thức là "học giả". Ý nghĩa
thứ hai, "trí thức" được dùng như tính từ có nghĩa là
"trí tuệ": trí thức là người có trí tuệ, thường có
nghĩa bổ sung là người có học thức cao, phân biệt với
những ngừơi làm việc tay chân. Ý nghĩa thứ ba, trí thức là
người có tư duy độc lập và có đầu óc phê phán. Họ phải
luôn nuôi dưỡng trong mình thái độ khách quan, đứng ngòai
chính trị. Ý nghĩa này được khởi xướng bởi triết gia và
nhà văn Pháp Julien Benda, người chống lại những thiên kiến
chính trị, chủng tộc và dân tộc của các trí thức cánh tả.
Ý nghĩa thứ tư: trí thức là người thực hiện các chức năng
xã hội hoặc vì xã hội. Xung quanh vấn đề này có nhiều bàn
cãi, chẳng hạn chức năng này bao gồm những nhiệm vụ cụ
thể nào hoặc cần phải thực hiện ở mức độ nào. Nhìn
chung, đối với trí thức Anh thì chức năng này được hiểu
là những định hướng văn hóa cho xã hội, trong khi đối với
trí thức Pháp và Nga thì trí thức phải tiên phong trong các
phong trào cách mạng và xả thân cùng những biến động xã
hội. Ý nghĩa thứ năm, người trí thức, ngòai chức năng
định hướng văn hóa còn có vai trò định hướng chính trị
và xã hội- điều mà các trí thức Nga và Pháp coi là trách
nhiệm hàng đầu. Họ phải có vai trò can thiệp vào đời sống
chính trị và có tiếng nói đối với nhà cầm quyền dựa trên
quan điểm khoa học.

<h2>2. Trí thức Đông Âu</h2>

Năm 1986, khi bức tường Berlin còn chưa sụp đổ, sau khi Đại
hội 27 ĐCS Liên Xô tuyên bố về Perestroika và Glasnost, Vaclav
Havel viết 'Người trí thức phải thường xuyên can thiệp,
tận mắt chứng kiến nỗi khổ của nhân dân, đồng cảm với
nỗi khổ ấy và nổi dậy chống lại những áp bức vô hình
hay hữu hình, là những người luôn đặt mối nghi ngờ đối
với hệ thống, với quyền lực và những bùa chú, xuyên tạc
mà những quyền lực đó đặt ra'[10]. Có thể thấy, trách
nhiệm 'dám nói lên sự thật', tự nhận là 'người nô
bộc khiêm tốn và dũng cảm của sự thật'[11] đã được
nhiều trí thức Đông Âu đảm nhiệm. Đông Âu, cũng như Nga,
có một đội ngũ trí thức được hình thành như một giai
tầng trong xã hội -"inteligentsia", đội ngũ được xây dựng
sau chiến tranh Thế giới thứ hai, gồm nhiều trí thức tiến
bộ tập hợp như một lực lượng chống Phát xít.

Giới trí thức đóng một vai trò quan trọng trong các quốc gia
XHCN, như hai trí thức mac xit người Hungary, George Konrad và Ivan
Szelenyi nhận định[12]. Theo hai học giả này, quyền phân phối
thặng dư trong xã hội tư bản thuộc về chủ tư bản, còn
trong xã hội XHCN, do không có tư bản, quyền này thuộc về
giới cầm quyền- trí thức. " Ngay khi thị trường được thay
thế bằng kế hoạch hóa, những người nắm tri thức sẽ lên
nắm quyền, thay cho những người sở hữu tư bản". Quá trình
phân phối sản phẩm "duy ý chí" được hình thành, thay cho
việc phân phối sản phẩm dựa vào thị trường. Ngòai ra Konrad
và Szelenyi còn nhận định rằng trong xã hội XHCN vai trò của
giới trí thức sẽ được coi trọng hơn trong xã hội TBCN, bởi
vì giới trí thức ở các nước XHCN, khi bị đẩy ra ngòai rìa,
sẽ có xu hướng cầm đầu phong trào "nổi loạn" chống
lại quyền lực chính trị. Do đó, bộ máy cần o bế họ để
phục vụ các mục tiêu chính trị, cũng như dùng họ để nuôi
dưỡng lý luận và tuyên truyền. So với giai cấp công nhân thì
trí thức có vẻ được ưu đãi hơn rất nhiều. Họ kiếm
được "căn hộ" dễ dàng hơn, có nhiều thời giờ rảnh
rỗi, nhiều cơ hội giải trí hơn, tạo nhiều mối quan hệ và
gây được nhiều ảnh hưởng hơn, cũng như được giới lãnh
đạo "dè chừng", "vị nể" hơn[13]. Tuy nhiên nếu đi
chệch hướng thì họ có thể phải gánh chịu những hậu quả
thảm khốc.

Một trong những đóng góp quan trọng của trí thức Đông Âu là
nỗ lực hình thành nên "xã hội dân sự" ở những nước
này. Ngay trong thời kỳ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Liên
Xô, ở các nước Đông Âu Ba Lan, Tiệp Khắc và Hungary, dưới
lớp vỏ ngoài của xã hội tập trung bao cấp đã có những
mầm mống của xã hội dân sự với "những giai tầng đa
dạng, những nền văn hóa, truyền thống lịch sử, các thiết
chế chính trị-kinh tế khác biệt"[14]. Cho đến thập niên
đầu của thế kỷ XX khu vực này vẫn chịu ảnh hưởng của
các đế chế xung quanh: Nga ở phía Đông, Thổ ở phía Tây và
Áo ở phía Nam. Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ I kết thúc,
Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary và Nam Tư mới giành lại độc lập.
Như một phản xạ nhằm đối phó lại với phạm vi ảnh
hưởng của những đế chế nói trên, những quốc gia-dân tộc
này tìm mọi cách để duy trì và lưu giữ những nét đặc sắc
văn hóa xã hội riêng của mình, trong đó các trí thức đóng
một vai trò to lớn.

Một trong những phong trào nổi bật trong sự hình thành các
nhóm, các tổ chức mang tính quần chúng, góp phần xây dựng xã
hội dân sự ở Đông Âu là các hoạt động bảo vệ môi
trường. Quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nước Đông Âu
đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, trong khi
chính quyền đã không đưa ra những giải pháp kịp thời cho
vấn đề ô nhiễm và nguy cơ ô nhiễm, các nhóm trí thức đã
sớm nhận thức được hiểm họa tàn phá môi trường và tác
động tiêu cực của nó tới dân sinh. Tuyên ngôn đầu tiên
của hội những người bảo vệ môi trường được đưa ra ở
Ba Lan, khi Câu lạc bộ sinh thái Ba Lan được thành lập ở
Cracow vào tháng 9 năm 1980. Nhiều nhà khoa học môi trường đã
tập trung ở đây để khai mạc cho Câu lạc bộ này bằng một
bức thu ngỏ gửi lên chính phủ yêu cầu có những điều luật
nghiêm khắc hơn nữa nhằm bảo vệ môi trường sống. Nhiều
hội thảo đã được tổ chức, nhiều kết luận về tình
trạng ô nhiễm cũng như tác hại đối với sức khỏe người
lao động, các khuyến nghị tới chính phủ đã được đệ
trình. Sau sự kiện Chernobyl ở Ukraina, nhóm vì Hòa bình và Tự
do đã tổ chức các cuộc biểu tình phản đối việc bưng bít
thông tin về vụ nổ, khoảng 2000 người đã tham gia tuần hành
ở Cracow. Tại Bialystok, khu vực gần Chernobyl, khoảng 3000
người đã ký lời kêu gọi ngừng xây dựng một nhà máy
điện hạt nhân ở Ba Lan có tên là Zarnowiec. Phối hợp với
các nhà khoa học và nhà báo, tổ chức này đã gây sức ép
buộc chính quyền đóng cửa nhà máy thép Siechnice gần Wroslaw do
làm ô nhiễm nguồn nước trong khu vực. Chính quyền khu vực
này cam kết sẽ chấm dứt hoạt động của nhà máy trước năm
1992. Ngoài ra, danh sách 500 nhà máy cũng được liệt kê vì đã
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Kể từ năm 1978, phong trào Hiến chương 77 ở Tiệp
Khắc đã coi môi trường là một trong những vấn đề quan
trọng trong chương trình hành động. Tháng 7 năm 1983 nhóm giám
sát nhân quyền đã soạn thảo một văn bản chi tiết cảnh báo
chính quyền về tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
ở miền bắc Bohemia. Tháng 2 năm 1984, Hiến chương 77 đã phát
hiện và in lại một báo cáo mật của chính phủ do Viện Hàn
lâm Tiệp Khắc soạn thảo năm 1983 về vấn đề môi trường,
trong đó thông báo tình trạng môi trường đang bên bờ thảm
họa và những hậu quả sức khỏe nghiêm trọng đối với dân
chúng. Báo cáo nêu rõ, kể từ năm 1960, số người bị mất
khả năng lao động tăng 50% do các lý do về sức khỏe. Ở các
khu công nghiệp, tỉ lệ người người mắc bệnh phổi, tử
vong ở trẻ em tăng mạnh. Tương tự, cây cối và động vật
cũng bị ảnh hưởng do mưa axit, ô nhiễm nguồn nước và không
khí cũng như sử dụng hóa chất tràn lan trong nông nghiệp. Năm
1986, Hiến chương 77 đã ra văn bản trình lên Quốc hội phàn
nàn việc chính phủ Tiệp Khắc chậm trễ phản ứng với
khủng hoảng Chernobyl, trong đó đề nghị phải ngay lập tức
đưa đầy đủ thông tin về mức tăng phóng xạ ở Tiệp Khắc
và ý kiến của chuyên gia về các biện pháp giảm thiểu tác
hại đối với sức khỏe con người. Năm 1987, tổ chức này ra
hai văn bản về tình trạng môi trường ở Tiệp Khắc, trong
đó đề nghị vấn đề môi trường phải được đưa ra bàn
luận rộng rãi trong công chúng. Các văn bản này được gửi
tới nhiều cơ quan của chính phủ, đòi hỏi các nhà máy xí
nghiệp dùng than có hàm lượng thấp phải lắp đặt các máy
lọc không khí, sử dụng các thiết bị tiết kiệm năng lượng
và cảnh báo nguy cơ cao đối với các nhà máy hạt nhân.. Tuy
nhiên những yêu cầu này đều không được giải đáp.

Ở Hungary, phong trào bảo vệ môi trường cũng được
dấy lên bởi các tổ chức phi chính phủ. Nhóm Danube Circle (do
nhà báo và nhà sinh vật học Janos Vargha thành lập năm 1984)
kết hợp với Hiến chương 77 thành lập ra một Dự án liên
kết Tiệp-Hung về những nguy hiểm đối với môi trường do
đập thủy điện Gabciko-Nagymaros đang xây dựng có thể gây ra.
Dự án này tiến hành nghiên cứu và soạn thảo các văn bản
đệ trình lên chính phủ hai nước về những nguy cơ hủy diệt
môi trường của khu vực sông Đa nuyp. Cũng chính nhóm Danube
Circle đã gửi một bức thư lên Quốc hội và Hội đồng Bộ
trưởng Hungary về những tác hại của ô nhiễm môi trường và
kêu gọi nhận thức đúng đắn về vấn đề này với chữ ký
của khoảng 5000 người trong đó có 50 đại diện hoạt động
trong lĩnh vực khoa học và văn hóa. Nhóm Danube Circle tuyên bố
không liên quan đến các phong trào chống đối hay vì các mục
tiêu chính trị mà chỉ là một tổ chức quan tâm đến các
vấn đề sinh thái môi trường. Tuy nhiên chính quyền không công
nhận nhóm này là một tổ chức chính thức và đã bác bỏ
đề nghị của họ. Vào năm 1985, nhóm này mới được phục
hồi trở lại sau khi họ được nhận giải thưởng "Sinh kế
đúng đắn" với số tiền 95.000 đola, và được nêu tên tại
lễ trao giải tại Nghị viện Thụy Điển. Hai năm sau họ mới
được chính phủ Hungary đồng ý cho nhận giải bằng tiền
Hungary với lý do không được nhận giải bằng ngoại tệ. Nhóm
này đã dùng số tiền thành lập ra Quỹ Danube với cam kết
"hỗ trợ cho các cá nhân và phong trào tư nhân có các hoạt
động gìn giữ môi trường và thiên nhiên có liên quan đến
vùng sông Đanuyp". Nhiều dự án đã được đệ trình để xin
Quỹ hỗ trợ. Nhóm Danube Circle còn huy động nhân dân yêu cầu
chính phủ thay đổi chính sách. Cuộc trưng cầu ý kiến về
đập thủy lợi đã thu được 2655 chữ ký nhưng không thu
được đánh giá tích cực từ phía chính quyền (dẫn theo Janusz
Bugajski và Maxine Pollack, 1989:214)[15]. Tháng 4 năm 1986, 30 trí
thức Hungary đã gửi in một quảng cáo trên một trang của tờ
báo ở Viên, thủ đô nước Áo, có tên là Die Presse, với ý
định kích động dân chúng Áo phản đối việc xây đập trên
dòng Đanuyp trên đất Hung, do phần lớn tín dụng để xây
đập là từ Viên và 70% gói thầu xây dựng đập sẽ trao cho
các hãng của Áo. Quảng cáo tuyên bố "Một xã hội dân chủ-
và chúng tôi tin xã hội Áo là như vậy- không cho phép nó khai
thác sự thiếu dân chủ ở một nước khác vì những lợi ích
vật chất của nó". Một số các nhà môi trường và chính
trị gia của Áo đã tỏ thái độ thông cảm . Tháng 7 năm 1986
19 thành viên của Danube Circle đã gửi đơn thỉnh cầu lên
Nghị viện Viên, thúc dục họ xem xét lại lần cuối hiệp
định Áo-Hung về việc xây đập. Ngoài Danube Circle ở Hungary
còn một số nhóm các nhà môi trường khác, trong đó thành công
hơn cả phải kể đến nhóm "Blues" (Nhóm Xanh, chỉ màu xanh
của nước biển và làm nhắc lại các nhóm Xanh vì môi trường
của Tây Âu). Thành lập năm 1985, nhóm Xanh trẻ hơn và hăng hái
hơn nhóm Danube Circle. Họ tham gia vào các phong trào giáo dục
công cộng, chủ yếu với các tuyên truyền bảo vệ sông Đa
nuyp. Mặc dù họ không ra ấn phẩm thường kỳ nhưng lại sử
dụng các tờ rơi để đến với dân chúng. Tháng 9 năm 1985,
họ lần đầu tiên phân phát 10 ngàn tờ rơi trên khắp Hungary
để phản đối việc xây đập thủy điện Gabciko-Nagymaros.
Ngoài ra nhóm này cũng gửi thư lên Quốc hội và các nhà trí
thức trong khu vực sông Đa nuyp, trong đó trình bày những nguy
hại của đập đối với môi trường. Trong một bài phỏng
vấn với tạp chí samizdat, các thành viên của nhóm Xanh đã
tuyên bố các mục tiêu của mình "trên thực tế là vượt
quá định hướng bảo vệ môi trường, và mong muốn khuyến
khích tư duy độc lập trong mọi lĩnh vực đời sống và chủ
trương tự quản hơn nữa trong cách mọi người sống và làm
việc. Chúng tôi muốn mọi người kết hợp lại và chấm dứt
sự phân chia trong xã hội" (dẫn theo Janusz Bugajski và Maxine
Pollack, 1989:215)[16]. Tháng 3 năm 1988 đại diện của 13 nhóm môi
trường độc lập đã nhóm họp ở Budapest, thành lập ra một
ủy ban phối hợp chung gọi là Mạng lưới thông in của các
nhóm bảo vệ môi trường và có một tờ tạp chí riêng là
Tuleles (Sống sót) ra hai tháng một số. Trong số các đại diện
của Mạng lưới này có nhóm Danube Circle, nhóm Quỹ Danube, nhóm
Câu lạc bộ sinh thái của trường Đại học Eotvos Lorand nhóm
Kal Basin Friendsship Circle, nhóm liên minh Petofi và nhóm hòa bình
4-6-0 . Những nhóm này có quan hệ với một số tổ chức chính
thức như KISZ (Đoàn Thanh niên) và Bộ Môi trường.

Nhìn lại lịch sử tư tưởng châu Âu, chúng ta thấy
thái độ và quan điểm đối với trí thức khác nhau ở từng
khu vực và từng giai đoạn phát triển. Dù cho thuật ngữ
"intellectual" mới được sử dụng rộng rãi vào cuối thế
kỷ 19, chúng ta hiểu rằng, trí thức, dưới những hình ảnh
khác nhau của các triết gia, nhà khoa học, nhà văn, nhà báo,
nghệ sĩ…đã xây dựng nên một châu Âu vô cùng đa dạng và
giàu bản sắc, họ là những thành tố quan trọng trong việc
định hướng tư tưởng, dẫn dắt dư luận, diện mạo văn hóa
của xã hội châu Âu.

Trần Thị Phương Hoa

[1] Kauppi Niilo. The Sociologist as Moraliste: Pierre Bourdieu's Practice
of Theory and the French Intellectual Tradition/ SubStance, Vol 29. No 3,
Issue 93: Special Issue: Pierre Bourdieu (2000), tr. 7-21, Published:
University of Wisconsin Press.

[2] Kauppi Niilo, sđd, tr. 15

[3] Thomas William Hayek. Myths and Meanings of Intellectuals in
Twentieth-Century British National Identity. The Journal of British Studies.
Vol 37, No 2 (tháng 4/1998), tr. 195

[4] Dẫn theo Hayek. Sđd, tr. 195

[5] Hayek, sđd, tr. 196

[6] Sự kiện Dreyfus (Dreyfus affair)- diễn ra vào những năm 1890
tại Paris. Năm 1894, sĩ quan Dreyfus (gốc Do Thái) bị buộc tội
lộ bí mật quân sự cho sứ quán Đức tại Paris và bị kết
án chung thân dù tòa không có chứng cớ. Hai năm sau, người ta
đã tìm ra chứng cớ minh oan cho Dreyfus, tuy nhiên quân đội Pháp
đã cố tình bưng bít và tìm cách tiếp tục kết tội Dreyfus.
Vụ án Dreyfus đã chia rẽ dư luận Pháp ra làm hai phe, một phe
ủng hộ Dreyfus, trong đó có bức thư của Emile Zola (1898) gửi
Tổng thống Pháp tố cáo sự bất công của phiên tòa xử
Dreyfus , phe kia tiếp tục luận tội Dreyfus, trong đó chủ yếu
gồm những ngừoi theo chủ nghĩa bài Do Thái. Sự kiện Dreyfus
đã khiến giới trí thức Pháp nhận thấy rằng, trong nhiều
trường hợp, họ phải đứng về một phía nào đó để bảo
vệ cho lẽ phải.

[7] Hayek, sđd, tr. 203

[8] Mark Pattison. "A Chapter of University History", Macmillan's
Magazine (8/1875), tr. 308.

[9] Encyclopaedia Britannica, tái bản lần thứ 11 (New York, 1910),
mục "Intellect"

[10] Vaclav Havel (1991). Disturbing the Peace: A Conversation with Karel
Hvizdala. New York: Vintage Books, 1991, p. 167, dẫn theo Jerome Karabel
"Towards a Theory of Intellectuals and Politics"/ Theory and Society
Vol.25, No2 (April 1996), tr. 205

[11] Về sự ra đời của "trí thức hiện đại", đặc biệt
trong Cách mạng Pháp (với vai trò nổi trội của Zola) xem Lewis
A. Coser "Men of Ideas A Sociologist's Views (New York: The Free Pres,
1970), 215-255, Christophe Charle trong " Naissance des
"intellectuels", 1880-1890 (Paris: Editions de Minuit, 1990). Xem thêm
về những tranh cãi xung quanh đóng góp của trí thức, xem Julien
Benda "The Treason of the Intellectuals (New York: W.W Norton and Company,
1969); George Orwell "Writers and Leviathan", George B de Huszar, (cb)
"The Intellectuals: A Controversial Poitrait (Glencoe, The Free Pres,
1960); Leszek Kolakowsk "Marxism and Beyond: On Historical Undestanding and
Individual Responsibility" (London: Paladin, 1971), "Intellectuals
against Intellect" Daedalus (Winter 1972); Alan Montefiore "The Political
Responsibility of Intellectuals" trong Ian Maclean, Alan Montefiore và
Peter Winch (cb) "The Political Responsibility of Intellectuals (New York:
Cambridge University Press, 1990)

[12] George Kondrad và Ivan Szelenyi. The Intellectuals on the Road to Class
Power: A Sociological Study of the Role of the Intelligentsia in Socialism.
New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1979. Dẫn theo Ivan Kuvaic.
Intellectuals and Power Structure/ State, Culture and Society. Vol.1, No 2
(Winter, 1985), tr. 154

[13] Ivan Kuvaic. Sđd, tr. 157

[14] Sokolowski, S.Wojciech (2001). Civil Society and Professions in Eastern
Europe- Social Changes and Organizational Innovation in Poland. N.Y.:
Springer, tr.1

[15] Bugajski Janusz và Pollack Maxine (1989). East European Fault Lines.
Dissent, Opposition, and Social Activism. Boulder, San Fransisco, London:
Westview Press, tr.

[16] Sđd

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/11443), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét