Mai Thái Lĩnh - Sự thật về Thác Bản Giốc (Phần II)

(Tiếp theo và hết)

<h2>4. Đâu là vị trí thật sự của cột mốc số 53?</h2>

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00047.jpg" width="551"
height="269" alt="danluan_00047.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 16: Bản đồ Sông Quây Sơn</center></em>

Nhìn vào tấm bản đồ trích từ <em><strong>Bản đồ giao thông
năm 2004</strong></em> (ảnh 16), chúng ta thấy dòng chính của sông
Quây Sơn chảy vào lãnh thổ Việt Nam tại một điểm gần cửa
khẩu Pò Peo và rời lãnh thổ nước ta tại một điểm gần
cửa khẩu Lý Vạn. Điều đáng chú ý là tại <strong><em>một
điểm</em></strong> ở gần Thác Bản Giốc, dòng sông lại trở
thành đường biên giới (có nghĩa là trung tuyến của dòng sông
chính là đường biên giới). <strong><em>Điểm</em></strong> đó
có liên quan đến cột mốc số 53, vì thế cột mốc này là
căn cứ chủ yếu để xác định chủ quyền đối với Thác
Bản Giốc. Nói cách khác, nếu cột mốc này bị dời đến
một vị trí khác thì chủ quyền của Việt Nam đối với Thác
Bản Giốc sẽ bị ảnh hưởng.

Trong khi sưu tầm tài liệu về Thác Bản Giốc, tác giả Trương
Nhân Tuấn đã tìm được một số chứng cứ quan trọng liên
quan đến vị trí của <em><strong>cột mốc số 53</strong></em>
[13]:

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00048.jpg" width="394"
height="217" alt="danluan_00048.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 17: Trích biên bản Pháp–Thanh
19-6-1894</center></em>

- Trước hết là biên bản Pháp-Thanh ký ngày 19-6-1894 trong đó
xác định: cột mốc số 53 có tên là Pan-Ngô (Bách-Nga
Khẩu百峨口 ), được cắm " bên lề một con đường, ở
phía Tây-Nam và trên phần nối dài của một khu rừng nhỏ"
(Au bord du chemin et au SO et sur le prolongement d'un petit bois). Cột
mốc số 54 có tên là Lung Trang (Lũng Tằng Sơn 隴曾山) được
đặt tại vị trí <em>"giữa chân của các núi đá và ranh
giới của các ruộng lúa phía trước mặt Ban Mong"</em> (Entre
le pied des rochers et la limite des cultures en face Ban-Mong).

- Cuốn <em>"Nhật Ký của Trung Úy Détrie về đoạn biên giới
từ Lũng-Ban đến Ðèo-Lương, nhân dịp đảm nhận việc cắm
mốc (28-6-1894)"</em>, trong đó có một đoạn xác định vị
trí của các cột mốc, được trích dẫn như sau: <em>"Après la
porte de Dốc-Khánh la frontière est tracée à l'intérieur du massif
rocheux, laissant au Tonkin de petit cirques peu importants débouchant dans
Lung-Piac, près les deux cirques difficilement accessibles de Lung-Deng et
Lung-Moi que traversent les chemins conduisant à Thin-Thang par Ai-Thin-Thap
(56) et Lung-Moi (55) jusqu'à l'abornement, les habitants de Lung-Deng
et Lung-Moi payaient l'impôt aux Chinois. La frontière regagne ensuite le
pied des rochers en face du village de Ban-Mong (54) longe le pied de ces
rochers et au pied du blockhaus chinois de Pia-Mu, suit la lisière d'un
petit bois et coupe le chemin de Hang-Dong-Quan (53) pour atteindre la
rivière qu'elle suivra jusqu'à Ly-Ban. Le chemin qui de la borne 53
conduit à Dốc-Khánh (57) à travers de très belles rizières devra être
l'objet d'une surveillance constante. (…) A partir de la belle cascade
de 50m qui se trouve un peu en aval de la borne 53, le sông Qui-Xuân coule
resserré entre des mamelons élevés"</em>. (Đoạn văn này sẽ
được dịch ở phần sau)

Câu hỏi đặt ra là: <strong><em>cột mốc 53 nằm ở thượng lưu
hay hạ lưu của thác?</em></strong> Theo suy luận của ông Trương
Nhân Tuấn thì <em>"cột mốc chỉ có thể ở phía hạ lưu
của thác Bản Giốc"</em>. Thế nhưng điều này lại mâu
thuẫn với ý kiến của trung úy Détrie vì ông này ghi nhận
thác nước <em>"nằm cách một chút về phía hạ lưu của cột
mốc 53"</em> (qui se trouve un peu en aval de la borne 53), nghĩa là
<em>"cột mốc nằm nhích một chút về phía thượng lưu của
thác nước"</em>.

- Về bản đồ: có một tấm bản đồ tìm được trong một
thư khố ở Pháp liên quan đến vùng này (xem ảnh 18). Theo ghi
chú của tác giả, đây là bản đồ có tỷ lệ 1/50.000 do Nha
địa dư Đông Dương (Service géographique de l'Indochine) thực
hiện. Thật ra, nếu so sánh tấm bản đồ này với các bản
đồ của miền Nam Việt Nam phát hành trước năm 1975, chúng ta
có thể thấy rõ đây không phải là bản đồ tỷ lệ 1/50.000.

Để độc giả dễ phân biệt, tôi đã trích đoạn và phóng to
một phần nhỏ của bản đồ và xoay bản đồ cho đúng hướng
bắc-nam (ảnh 19). Chúng ta có thể nhận thấy: từ cột mốc 54
(B.54) phía tây-bắc đến cột mốc 53 (B.53, chữ viết tắt của
<strong><em>borne 53</em></strong>) phía đông-nam, có một dải đất
ven sông nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Điều này giải thích lý
do tại sao trước đây người Việt có thể qua lại giữa hai
bờ sông một cách dễ dàng. Ngoài ra, còn có một chi tiết
khiến chúng ta có thể bác bỏ ý kiến của ông Lê Công Phụng
cho rằng "cột mốc nằm trên một cồn giữa suối cách thác
vài trăm mét". Trên tấm bản đồ này, cột mốc 53 (B.53) hoàn
toàn nằm trên bờ trái (tả ngạn của sông Quây Sơn), không
liên quan gì đến một "cồn" nào đó trên sông Quây Sơn.
Tấm bản đồ này cũng cho thấy có một đồn của Trung Quốc
(Fort Chinois) nằm trên đỉnh núi.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00049.jpg" width="552"
height="411" alt="danluan_00049.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 18: Bản đồ SGI do tác giả Trương Nhân Tuấn
công bố</center></em>

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00050.jpg" width="464"
height="254" alt="danluan_00050.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 19: Trích đoạn bản đồ SGI - khu vực Thác Bản
Giốc</center></em>

Nhược điểm của tấm bản đồ này là thiếu các vòng cao
độ (contour lines, courbes de niveau) cũng như các tọa độ địa
lý cần thiết để xác định một cách chính xác vị trí của
cột mốc. Mặt khác, nó cũng không ghi rõ vị trí của Thác
Bản Giốc, cho nên rất khó xác định vị trí của cột mốc
số 53.
Thật ra, có một tấm bản đồ có thể giúp chúng ta tìm hiểu
đường đi của biên giới từ cột mốc 57 cho đến cột mốc
53. Đó là tờ bản đồ địa hình (topographic map) mang tên
<strong><em>Trung Khanh Phu, sheet 6354-4</em></strong> được tìm thấy
ở Thư viện của Đại học Texas ở Austin (The University of Texas
at Austin).[14] Tờ bản đồ này (ảnh 20) có tỷ lệ 1/50000, do
quân đội Hoa Kỳ in vào năm 1965, dựa vào thông tin thu thập
được vào năm 1964.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00051.jpg" width="527"
height="418" alt="danluan_00051.jpg" /></center>

<em>Ảnh 20: Trích bản đồ Trùng Khánh Phủ - sheet 6354-4 (U.S.
Army Map Service)</em>

Làm thế nào mà quân đội Hoa Kỳ có được tờ bản đồ này?
Căn cứ vào ghi chú trên tờ bản đồ, chúng ta có thế ước
đoán bản đồ này được biên soạn dựa trên dữ liệu của
Nha Địa dư Đông dương (Service géographique de l'Indochine)
trước kia và cả trên những thông tin do chính quân đội Hoa
Kỳ thu thập được.

Ngoài ra, còn có một tờ bản đồ mang tên <strong><em>Trùng
Khánh, số hiệu 6354-IV</em></strong> do Cục bản đồ thuộc Bộ
Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm 1980, rất
giống với tờ bản đồ nói trên. Tờ bản đồ này nằm trong
Bộ sưu tập Bản đồ Việt Nam (Vietnam Archive Map Collection) do
Đại học Kỹ Thuật Texas (Texas Tech University) sưu tầm và công
bố.[15] Tờ bản đồ này được <em>"in lần thứ hai"</em>
(1980) dựa theo bản đồ 1/50.000 in năm 1976 đã được
<em>"chỉnh lý bổ sung thực địa vào năm 1979"</em>. Chúng ta
có thể phỏng đoán tờ bản đồ này được biên soạn dựa
vào bản đồ <strong><em>Trung Khanh Phu, sheet 6354-4</em></strong>
của quân đội Hoa Kỳ, vì sau ngày 30-4-1975 quân đội miền
Bắc đã tiếp quản toàn bộ kho bản đồ lưu trữ tại Nha
Địa dư Quốc gia ở Đà Lạt.

Cần lưu ý là bản đồ này được in lần thứ nhất vào năm
1976 – cùng thời điểm với việc Trung Quốc tấn công cồn Pò
Thoong, có lẽ vì thế trên bản đồ có ghi dòng chữ
<em>"quốc giới chưa xác định (vẽ sơ lược)"</em>. Để
độc giả dễ theo dõi, tôi trích bản đồ <em><strong>Trùng
Khánh 6543-IV</strong></em> và phóng lớn thành hai tấm: từ mốc 58
đến mốc 54 (ảnh 21) và từ mốc 54 đến mốc 53 (ảnh 22).

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00052.jpg" width="519"
height="311" alt="danluan_00052.jpg" /></center>

<center><em>Ảnh 21: Trích bản đồ Trùng Khánh 6354-IV (QĐNDVN) -
từ mốc 58 đến mốc 54</em></center>

Dựa vào bản đồ, chúng ta có thể thấy rõ đường biên giới
từ cột mốc 57 (M. 57) đến cột mốc 55 (M.55) đúng như Détrie
mô tả: <em>"Sau cửa Dốc-Khánh, đường biên giới được
vạch trong lòng dãy núi đá, để lại cho Bắc Kỳ các thung
lũng hẹp ít quan trọng mở ra phía Lung-Piac (<em>Lũng
Phiắc</em>). (Đường biên giới) chạy gần hai thung lũng rất
khó thâm nhập là Lung-Deng (<em>Lung Den</em>) và Lung-Moi (<em>Lung
Noi</em>); băng ngang qua các thung lũng này là những con đường
dẫn đến Thin-Thang (<em>T'ien-teng</em>) qua ngõ Ai-Thin-Thap (mốc
56) và Lung-Moi (Lung Noi, mốc 55) đến tận vùng cắm mốc.
Người dân của Lung-Deng (Lung Den) và Lung-Moi (<em>Lung Noi</em>)
đóng thuế cho người Trung Hoa."[16]</em>

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00053.jpg" width="537"
height="354" alt="danluan_00053.jpg" /></center>

<center><em>Ảnh 22: Trích bản đồ Trùng Khánh 6354-IV (QĐNDVN) -
từ mốc 54 đến mốc 53</em></center>

Détrie viết tiếp: <em>"Tiếp đó, đường biên giới trở lại
chân các núi đá trước mặt làng Ban-Mong (Bản Mom, mốc 54),
chạy dọc theo chân của các núi đá ấy và dưới chân của
đồn Pia-Mu của Trung Hoa, chạy dọc theo bìa của một khu rừng
nhỏ và cắt con đường Hang-Dong-Quan (mốc 53) để đi đến
dòng sông – dòng sông mà đường biên giới chạy xuôi theo cho
đến tận Ly-Ban (Lý Vạn). Con đường đi từ mốc 53 dẫn đến
Dốc-Khánh (mốc 57) đi ngang qua những ruộng lúa xinh đẹp sắp
đến phải được giám sát thường xuyên. (…) Từ thác nước
đẹp cao 50 m - nằm nhích một chút về phía hạ lưu của cột
mốc 53, sông Qui-Xuân[17] chảy thu hẹp lại giữa những ngọn
đồi cao."</em>

Nhìn vào bản đồ, chúng ta thấy rõ con đường đi từ mốc 53
ở phía đông-nam đến mốc 57 ở phía tây-bắc <em>"đi ngang
qua những ruộng lúa xinh đẹp"</em>. Con đường này chạy
dưới chân các dãy núi đá, men theo các thung lũng, có ý nghĩa
quan trọng về mặt quốc phòng; vì thế Détrie cho rằng
<em>"sắp đến cần phải canh phòng thường xuyên"</em>. Chúng
ta cũng có thể thấy rõ đường biên giới cắt ngang <em>"con
đường Hang-Dong-Quan"</em> (le chemin de Hang-Dong-Quan) tại cột
mốc số 53. Sau khi vượt qua biên giới ở mốc 53 gần Thác
Bản Giốc, con đường Hang-Dong-Quan chạy men bờ sông (tả ngạn
sông Quây Sơn), trên phần đất thuộc lãnh thổ Trung Hoa. Vào
thời kỳ đó (cuối thế kỷ 19) và có thể mãi cho đến năm
1979 (là lúc phát hành tờ bản đồ <strong><em>Trùng Khánh
6354-IV</em></strong> của QĐNDVN), con đường đó chỉ là đường
đất hoặc đường mòn.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00054.jpg" width="366"
height="260" alt="danluan_00054.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 23: Dải đất dưới chân thác ở tả ngạn
thuộc lãnh thổ VN</center></em>

Có thể nói hai tờ bản đồ 6354-4 mang tên Trùng Khánh Phủ và
Trùng Khánh hoàn toàn ăn khớp với những gì trung úy Détrie đã
mô tả trong nhật ký. Cả hai tờ bản đồ này cũng cho thấy
thác nước <em>"nằm nhích một chút về phía hạ lưu của
cột mốc 53"</em>. Điều đó có nghĩa là cột mốc <em>"nằm
nhích một chút về phía thượng lưu của thác"</em>, nhưng
không nằm sát bờ sông. Từ cột mốc 53, đường biên giới
chạy theo hướng tây bắc-đông nam dựa theo đường rãnh giữa
thác nước và ngọn đồi tiếp giáp, cắt một diện tích đất
ở phía dưới chân thác cho phía Việt Nam trước khi nhập vào
đường trung tuyến của dòng sông (xem ảnh 23).

Như vậy, toàn bộ thác Bản Giốc đều thuộc về Việt Nam,
toàn bộ dải đất chạy dài từ dưới chân thác lên đến
cột mốc 53, dọc theo chân dãy núi đá cho đến tận cột mốc
54 cũng thuộc phía Việt Nam. Điều này giúp chúng ta lý giải
được tại sao toán lính người Việt dưới quyền chỉ huy
của một người Pháp lại có thể đi tuần tra từ bên kia sông
và quay trở về bờ bên này trong mùa nước cạn. Rõ ràng toán
lính này đã tuần tra trên con đường mòn ở phía tả ngạn mà
Détrie đã nhắc đến, đi từ phía trên thác để xuống chân
thác, lội sông trở về phía hữu ngạn của sông Quây Sơn (xem
bưu ảnh số 832 của P. Dieulefils). Cũng nhờ đứng trên mảnh
đất này, nhà nhiếp ảnh mới chụp được tấm ảnh về Thác
Bản Giốc được đăng trong cuốn sách của nhà địa lý học
Lê Bá Thảo (ấn bản năm 1977). Ngày nay, chúng ta không thể
đứng trên lãnh thổ Việt Nam để chụp được một tấm ảnh
tương tự, bởi vì dải đất này đã bị cắt cho phía Trung
Quốc.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00055.jpg" width="423"
height="316" alt="danluan_00055.jpg" /></center>

<center><em>Ảnh 24: Thác Bản Giốc nhìn từ phía Việt Nam. Bờ
bắc (tả ngạn) là những núi cao chót vót.</em></center>

Mặt khác, đường biên giới từ mốc 54 đến mốc 53 chạy
dọc theo chân của dãy núi đá vôi. Với địa thế hiểm trở
như ở vùng này (xem ảnh 24), cho dù phía Trung Quốc có thể
đóng đồn ở trên núi cao (trong bản đồ của Hoa Kỳ ghi chữ
<strong><em>fort</em></strong>, trong bản đồ của Việt Nam in chữ
<strong><em>đồn</em></strong>), quân đội của họ cũng không thể
xâm nhập vào các thung lũng bên dưới. Thế nhưng, tình hình
hoàn toàn sẽ đổi khác nếu phía Trung Quốc đặt được một
đầu cầu xuống vùng thung lũng bên dưới. Đầu cầu đó giúp
họ có thể tấn công bất cứ điểm nào ở những thung lũng
dọc sông Quây Sơn, với sự yểm trợ của pháo binh đặt trên
những điểm cao. Điều đó giải thích được nguyên do tại sao
phía Trung Quốc từ lâu đã có âm mưu chiếm cồn Pò Thoong,
một cồn có diện tích khoảng 2,6 hec-ta nằm ngay phía trên
thác.

<h2>5. Trung Quốc xâm chiếm Thác Bản Giốc như thế nào?</h2>

Dựa theo những tin tức do Đảng cộng sản Việt Nam công bố
qua nhiều thời kỳ, chúng ta có thể tóm tắt quá trình xâm
chiếm Thác Bản Giốc của phía Trung Quốc như sau:

<strong>Bước 1: Sửa bản đồ:</strong>

<em>"Năm 1955-56, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ
nước Việt Nam tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt
Nam, họ đã sửa ký hiệu một số đoạn đường biên giới
dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của Việt Nam thành
đất Trung Quốc. Thí dụ: họ đã sửa ký hiệu ở khu vực
thác Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định
chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò
Thoong."</em>[18]

Đó là một đoạn được trích từ bản <em>"bị vong
lục"</em> (hay còn gọi là <em>giác thư, mémorandum</em>) do Bộ
Ngoại giao Việt Nam công bố vào năm 1979. Điều chưa được
làm rõ là Trung Quốc đã <em>"sửa ký hiệu"</em> như thế
nào? Cho đến nay đã trải qua hơn 30 năm, tài liệu này vẫn
còn nằm trong vòng bí mật.

Việc bản đồ Việt Nam tỷ lệ 1/100.000 bị Trung Quốc sửa
chữa với ý đồ không tốt chính là lý do khiến cho phía Việt
Nam lâu nay không dám công bố bản đồ của mình, hầu hết các
bản đồ được công bố đều là bản đồ của Trung Quốc.
Hơn thế nữa, vẫn còn một câu hỏi chưa được trả lời:
phía Việt Nam đã biết được hành vi <em>"sửa bản
đồ"</em> này vào thời điểm nào và tại sao mãi đến năm
1979 mới công bố?

<strong>Bước 2: Thực hành việc lấn chiếm:</strong>

Năm 1976, Trung Quốc bắt đầu tiến hành kế hoạch lấn chiếm
mà họ đã chuẩn bị từ giữa thập niên 1950. Theo lời tố
cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam, <em>"phía Trung Quốc đã huy
động trên 2.000 người, kể cả lực lượng vũ trang lập thành
hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản
Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây
dựng một đập kiên cố bằng bê-tông cốt sắt ngang qua nhánh
sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt
Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong và ngang nhiên nhận cồn này
là của Trung Quốc."</em>

Việc Trung Quốc chiếm cồn Pò Thoong 20 năm sau khi đã
<em>"sửa bản đồ"</em> cho thấy kế hoạch xâm chiếm Thác
Bản Giốc được chuẩn bị từ trước chứ không phải là
hành động ngẫu nhiên.

<h2>Bước 3: Dời cột mốc 53:</h2>

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00056.jpg" width="491"
height="321" alt="danluan_00056.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 25: Đường biên giới mới với các cột mốc
mới</center></em>

Để tăng cường thêm bằng chứng cho <em>"hồ sơ pháp
lý"</em> nhằm hợp pháp hóa việc lấn chiếm, nhà cầm quyền
Trung Quốc đã dời cột mốc số 53 từ vị trí như ta đã
thấy trên bản đồ đến một vị trí khác xa hơn về phía
thượng lưu nhằm <em>"chiếm một phần thác Bản Giốc của
Việt Nam và cồn Pò Thoong"</em>, đúng như kế hoạch đã
hoạch định từ giữa thập niên 1950. <em>"Cột mốc biết
đi"</em> này chính là căn cứ để <em>"hai bên đàm
phán"</em> xác định cột mốc mới 835 như chúng ta đã thấy
ở phần trên, bởi vì hai cột mốc 53 cũ và 835 mới nằm sát
cạnh nhau.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00057.jpg" width="454"
height="319" alt="danluan_00057.jpg" /></center>
<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00058.jpg" width="453"
height="303" alt="danluan_00058.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 26: So sánh hai đường biên giới mới và
cũ</center></em>

Thử so sánh bản đồ về đường biên giới mới và các cột
mốc mới tại vùng này (ảnh 25) với bản đồ <em>"Trùng
Khánh 6354-IV"</em> năm 1979 do Quân đội Nhân dân Việt Nam in
năm 1980.[19] Mặc dù địa hình của cồn Pò Thoong và khu vực
lân cận cũng như vùng đất phía tả ngạn ở hạ lưu của
Thác Bản Giốc đã bị phía Trung Quốc làm biến đổi khá
nhiều nhằm che giấu việc chiếm đất, chúng ta vẫn có thể
dễ dàng nhận ra sự khác biệt giữa hai đường biên giới
mới và cũ. <strong><em>Cột mốc số 53 đã bị dời về phía
tây-nam để tạo ra cột mốc mới 835</em></strong> đối diện
với cồn Pò Thoong. Vì thế, đường biên giới đáng lẽ chỉ
trùng với trung tuyến của dòng sông ở hạ lưu thác lại đi
ngang cồn Pò Thoong ở phía thượng lưu và sau đó chia cắt một
nửa phần thác chính cho phía Trung Quốc.

Hơn thế nữa, về phía tây-bắc của Thác Bản Giốc, ở gần
Bản Mom, <strong><em>cột mốc mới 831 cũng xâm phạm vào lãnh
thổ Việt Nam một cách hết sức rõ ràng</em></strong>. Việc thay
đổi cột mốc này giúp cho phía Trung Quốc chiếm gọn cao
điểm 787 (Yao Tan Shan) trong khi đường biên giới cũ chia đôi
ngọn núi này, mỗi bên một nửa.

Tóm lại, cột mốc 53 cũ không nằm đúng vị trí của nó, và
việc dời cột mốc chỉ nhằm để hợp lý hóa cho việc chiếm
cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc. Thế nhưng ông Lê
Công Phụng lại hết sức nhiệt tình che đậy sự vi phạm
trắng trợn này của <em>"nước bạn"</em> bằng cách khẳng
định rằng <em>"Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ
thời nhà Thanh, xác định chỉ có chưa được một nửa thác
Bản Giốc là ở bên phía ta."</em> Để củng cố cho lập
luận của mình, ông ta còn biện bạch: <em>"Chúng ta phải căn
cứ vào những thỏa thuận pháp lý Thanh - Pháp, căn cứ vào
biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà dân địa phương
nói là cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi
cả."</em> Không rõ <em>"người dân địa phương"</em> nào
lại dám khẳng định cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai
thay đổi?

Cũng theo lời ông Lê Công Phụng: "<em>Cuối cùng, lãnh đạo
chúng ta cũng nhất trí trong tất cả các điều kiện ấy, không
thể đòi hỏi thác Bản Giốc phải là của chúng ta hoàn toàn
được."</em> Vì không có một nhân vật cấp cao nào trong
Đảng đính chính lại lời phát biểu này, chúng ta có thể
hiểu <strong><em>đây chính là quan điểm chung của các nhà lãnh
đạo Đảng cộng sản Việt Nam</em></strong> chứ không phải là
ý kiến riêng của một cá nhân nào.[20]

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00059.jpg" width="527"
height="317" alt="danluan_00059.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 27: Khu vực Thác Bản Giốc (ảnh chụp từ vệ
tinh).</center></em>

<em><center>Vùng được đánh dấu là phần thác
chính.</center></em>

Có một điều mà các nhà lãnh đạo Việt Nam cố tình tránh
né: đó là ý nghĩa của cồn Pò Thoong và bờ bắc của sông
Quây Sơn xét về mặt quốc phòng. Không cần phải là chuyên gia
về quân sự, chúng ta có thể thấy rõ: với việc lấn chiếm 3
phần 4 cồn Pò Thoong và toàn bộ phần đất ở tả ngạn - từ
thượng lưu cho đến hạ lưu Thác Bản Giốc, phía Trung Quốc
chẳng những có được lợi thế từ trên cao mà còn có được
một đầu cầu ngay phía trên thác (cồn Pò Thoong) để khi cần,
có thể làm bàn đạp đưa quân từ phía hạ lưu nhằm tấn
công vào bất cứ điểm nào trong vùng thung lũng dọc sông Quây
Sơn (xem ảnh 28). Đó là chưa kể đến việc lấn chiếm cao
điểm Yao Tan Shan (cao độ 787m) giúp cho phía Trung Quốc có
được một vị trí để có thể dùng pháo binh khống chế vùng
thung lũng này từ phía tây-bắc.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00060.jpg" width="552"
height="364" alt="danluan_00060.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 28: Toàn cảnh Thác Bản Giốc chụp từ phía Trung
Quốc</center></em>

<h2>Bước 4: Hợp pháp hóa hành vi lấn chiếm:</h2>

Như trên đã dẫn chứng, trong thực tế quân Trung Quốc đã
chiếm đóng cồn Pò Thoong kể từ năm 1976. Vì vậy việc đàm
phán suy cho cùng chỉ xoay quanh vấn đề: Trung Quốc tiếp tục
chiếm đóng toàn bộ cồn Pò Thoong hay trả lại chút ít cho
phía Việt Nam?

Tương tự như trường hợp ở Ải Nam Quan, nơi đây họ đã
trả lại một phần: thay vì lấy tất cả cồn Pò Thoong, họ
trả lại cho Việt Nam 1 phần 4; thay vì lấy <em>"phần
lớn"</em> thác chính thì lấy một nửa thác chính. Các nhà
lãnh đạo thuộc thế hệ Hồ Cẩm Đào – Ôn Gia Bảo xem ra có
phần khôn ngoan hơn cha ông của họ: làm ra vẻ nhún nhường,
nhân nhượng để có tiếng là <em>"ôn hòa"</em>, nhưng vẫn
thực hiện được mục đích <em>"chiếm một phần thác Bản
Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong"</em>.

Đường biên giới mới được hoạch định theo thế có lợi
cho phía Trung Quốc đã được hiện đại hóa bằng một loạt
các cột mốc dày đặc, được định vị bằng các kỹ thuật
hiện đại. Điều này sẽ khiến cho các thế hệ người Việt
Nam trong tương lai gặp khó khăn hơn rất nhiều trong việc đòi
lại các phần đất đã bị chiếm đóng – nhất là khi
<em>"ván đã đóng thuyền"</em> bởi hiệp ước 1999.

Cùng với Ải Nam Quan, trường hợp của Thác Bản Giốc cho
thấy trong việc đàm phán về biên giới, phía Việt Nam đã
nhượng bộ cho phía Trung Quốc đến mức cao nhất, phá bỏ
hoàn toàn các nguyên tắc mà Đảng cộng sản Việt Nam đã đề
ra trước đó trong bản bị vong lục năm 1979.

<h2>Bước 5: Thác Bản Giốc biến thành Thác Đức Thiên:</h2>

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00061.jpg" width="501"
height="316" alt="danluan_00061.jpg" /></center>

<em>Ảnh 29: Thác nước Bản Giốc riêng của Việt Nam nay đã
trở thành "Thác lớn xuyên - quốc gia Đức Thiên" (Đức
Thiên khóa quốc đại bộc bố). Sự mất mát này là do ai?</em>

Không rõ khi vạch kế hoạch chiếm một phần Thác Bản Giốc,
các nhà lãnh đạo thuộc thế hệ Mao Trạch Đông – Chu Ân Lai
có nhắm đến mục tiêu kinh tế - du lịch hay không? Nhưng vào
đầu thế kỷ 21, vài thập niên sau khi tiến hành đường lối
cải cách do Đặng Tiểu Bình vạch ra, các nhà lãnh đạo Trung
Quốc đương nhiên phải nghĩ ngay đến việc kinh doanh du lịch
để góp phần phát triển kinh tế cho Tỉnh Quảng Tây, một
vùng đất kinh tế còn kém phát triển[21] nhưng lại là địa
bàn chủ yếu của dân tộc Choang – dân tộc thiểu số đông
nhất ở Trung Quốc hiện nay.[22]

Ngay sau khi ký hiệp định 1999, phía Trung Quốc đã bắt đầu
chuẩn bị cho kế hoạch đưa Thác Bản Giốc vào khai thác du
lịch chứ không chờ giải quyết trọn vẹn việc cắm mốc ở
vùng này. Ngay từ năm 2003, họ đã bắt đầu xây dựng các cơ
sở du lịch nghỉ dưỡng như khách sạn, nhà nghỉ, thuỷ đình,
nhà nổi, … bên bờ Bắc.

Mặt khác, để cắt đứt mối quan hệ xa xưa, xóa dấu vết
của cuộc xâm chiếm bẩn thỉu, nhằm tô son trát phấn cho một
lịch sử mới chỉ gồm toàn những yếu tố <em>"hữu nghị,
anh em"</em>, họ đặt cho thác nước một cái tên mới: 德天
(Detian, Đức Thiên). Ngày nay, chỉ cần lên mạng Internet, dùng
một công cụ tìm kiếm nào đó như Google hay Yahoo, chúng ta có
thể thấy vô số bài viết của các du khách nước ngoài về
<em>"Detian Falls"</em> hay <em>"Detian Waterfall"</em> (Thác Đức
Thiên), được coi là thác nước biên giới lớn thứ tư trên
thế giới sau các thác nước Iguazu (Argentina-Brazil), Victoria
(Zambia-Zimbabwe) và Niagara (Hoa Kỳ-Canada), và là thác nước xuyên
quốc gia lớn thứ nhất ở châu Á.[23]

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00062.jpg" width="499"
height="332" alt="danluan_00062.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 30: Blogger Điếu Cày tại Thác Bản
Giốc</center></em>

Khi đặt tên mới cho Thác Bản Giốc, vẽ lại đường biên
giới mới tại vùng này, các nhà lãnh đạo của Trung Hoa cộng
sản hy vọng sẽ xóa sạch các vết tích đường biên giới cũ,
để vài mươi năm nữa, các thế hệ trẻ người Việt cũng
như người Hoa không còn nhớ gì đến quá trình xâm lược của
một cường quốc chuyên thi hành chính sách đạo tặc đối
với các quốc gia lân bang – nhất là các quốc gia nhỏ bé mà
ngày xưa các hoàng đế Trung Hoa vẫn thường coi là <em>"phiên
thuộc"</em>.

<h2>Thay lời kết: </h2>

Mặc dù sự thật đã dần dần được bộc lộ theo thời gian,
nhưng câu chuyện về Thác Bản Giốc chưa hẳn đã đến hồi
kết thúc. Vẫn còn nhiều điều chưa sáng tỏ, nhiều câu hỏi
cần được giải đáp:

<strong>1)</strong> Trước hết, về căn cứ pháp lý để chứng
minh chủ quyền của nước ta đối với Thác Bản Giốc, Bộ
Ngoại giao và Bộ Quốc phòng có trong tay ít nhất là 4 hồ sơ:
[1] Tài liệu về việc Trung Quốc <em>"sửa bản đồ"</em>
vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần
Thác Bản Giốc, [2] Tài liệu về việc xây dựng trạm thủy
văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960, [3] Tài liệu về
việc Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và [4] Hai
tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân
Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980.

Chúng ta có thể đặt câu hỏi: tại sao các nhà lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc
phòng đã bỏ qua, không sử dụng những tài liệu này trong đàm
phán?

<strong>2)</strong> Việc Trung Quốc chiếm cồn Pò Thoong và Thác
Bản Giốc không phải là hành động ngẫu nhiên, cũng không
phải là chủ trương của một cá nhân hay một phe phái nào
trong Đảng cộng sản Trung Quốc. Kế hoạch này đã được
chuẩn bị ngay từ những năm 1955-56, nghĩa là vào lúc quan hệ
Việt-Trung được coi là "hữu hảo", và được thực hiện
từng bước qua từng giai đoạn như đã trình bày ở phần
trên. Điều này cho thấy đây là chủ trương chung của Đảng
cộng sản Trung Quốc qua nhiều thời kỳ, nhiều thế hệ lãnh
đạo.

Nhưng Thác Bản Giốc không phải là trường hợp duy nhất. Căn
cứ vào bản sơ đồ in ở trang 8 cuốn bị vong lục (giác thư)
năm 1979, chúng ta được biết Thác Bản Giốc và Ải Nam Quan
chỉ là 2 trong số 12 trường hợp lấn chiếm điển hình. Nếu
tính tất cả các vi phạm lớn nhỏ, tính từ 1949 đến 1979
phía Trung Quốc (tức Trung Hoa cộng sản) đã lấn chiếm lãnh
thổ Việt Nam ở 90 điểm trên toàn tuyến biên giới
Việt-Trung.[24] Như vậy không thể nói là quan hệ Việt-Trung
chỉ xấu đi trong giai đoạn 1979-1989. Ngay từ giữa thập niên
1950, nghĩa là giữa lúc tình cảm cộng sản Việt-Trung còn
nồng thắm, đã bắt đầu hình thành những mầm mống xấu,
những âm mưu đen tối. Tương tự như thế, trong vấn đề lãnh
hải, ngay khi công bố <em>"hải phận 12 hải lý"</em> vào năm
1958, Đảng cộng sản Trung Quốc đã nuôi dưỡng những mưu
đồ quỷ quyệt. Ngay tại điều 4 của Bản tuyên bố, họ đã
ghi rõ <em>"Tây Sa"</em> (tức Hoàng Sa) và <em>"Nam Sa"</em>
(tức Trường Sa) thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Đó chính là sự
chuẩn bị cho việc hải quân Trung Quốc chiếm toàn bộ quần
đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và chiếm đảo Đá Gạc Ma (Johnson
South Reef) thuộc quần đảo Trường Sa vào năm 1988.

Vấn đề đặt ra là: trước một chính sách xâm lược nhất
quán như thế, tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn thừa
nhận quan hệ <em>"16 chữ vàng"</em> (láng giềng hữu nghị,
hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai)
và tinh thần <em>"4 tốt"</em> (láng giềng tốt, bạn bè tốt,
đồng chí tốt, đối tác tốt), coi đó như những nguyên tắc
căn bản chi phối toàn bộ đường lối ngoại giao giữa hai
quốc gia?

Có thể nói khi chấp nhận một chính sách đối ngoại như
thế, Đảng cộng sản Việt Nam đã đặt quyền lợi của
Đảng cao hơn quyền lợi của Tổ quốc, đã hy sinh quyền lợi
của quốc gia – dân tộc để bảo vệ quyền lợi của chính
mình.

Thử hỏi: với tình hình thực tế đó, làm sao nhân dân có
thể tiếp tục tin tưởng vào <em>"sự lãnh đạo của
Đảng"</em> trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền ở Biển
Đông – nơi mà hàng ngày hàng giờ các thế lực dân tộc chủ
nghĩa của Trung Hoa cộng sản đang lăm le tiếp tục thực hiện
kế hoạch xâm lược mà họ đã chuẩn bị công phu từ hơn
nửa thế kỷ?

<strong>3)</strong> Quá trình xâm lấn đường biên giới
Việt-Trung đã diễn ra từ rất lâu, nhưng mãi đến ngày
15.3.1979, nghĩa là gần một tháng sau khi Trung Quốc tấn công
trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, người dân mới biết
được phần nào sự thật thông qua bản <em>"bị vong
lục"</em> do Bộ Ngoại giao công bố. Từ thời điểm đó cho
đến nay, ngoài những chi tiết được công bố trong cuốn sách,
nhân dân không được biết thêm điều gì khác. Không có công
trình nghiên cứu mang tính độc lập nào để người dân có
thể có thể so sánh, đối chiếu.

Thật ra, có một số công trình nghiên cứu có thể giúp người
dân tìm hiểu vấn đề, nhưng những công trình này thường bị
xếp vào ngăn kéo, không được công bố rộng rãi. Vào năm
1996, khi cộng tác với nhà xuất bản Thuận Hóa để tái bản
cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời của học giả Đào Duy
Anh, Viện Sử học đã viết trong Lời dẫn như sau: <em>"Năm
1975 tác giả có bổ sung và sửa chữa bản in lần thứ nhất,
với ý định tái bản ở miền Nam. Sau khi xem lại tác giả đã
bỏ chương nói về biên giới Việt Nam qua các đời vì thấy
tài liệu chưa được đầy đủ. (…) Trong lần tái bản này,
chúng tôi đã thực hiện theo di cảo của tác giả lưu lại sau
khi qua đời."</em> (sđd, tr. 15). Việc lược bỏ chương về
biên giới ấy là ý muốn thật của tác giả hay vì một áp
lực nào khác? Đối chiếu với <em>"sự quên lãng"</em>
được dành cho những trận chiến đẫm máu trong suốt thập
niên 1980 như trận chiến tại dải đồi Núi Đất (Lão Sơn) ở
Hà Giang năm 1984, cuộc xâm chiếm đảo Đá Gạc-Ma ở Trường
Sa năm 1988, v.v… chúng ta có quyền hoài nghi tính chất tự
nguyện của việc lược bỏ này.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00063.jpg" width="444"
height="314" alt="danluan_00063.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 31: Bản đồ xã Đàm Thủy do Ủy ban Biên giới
Quốc gia công bố</center></em>

Mãi cho đến ngày nay, hơn một thập niên sau ngày <em>"Hiệp
ước biên giới trên đất liền giữa CHXHCN Việt Nam và CHND
Trung Hoa"</em> được ký kết (30-12-1999), thông tin về đường
biên giới Việt-Trung vẫn là cái gì rất mờ mịt. Mặc dù
người dân có thể truy cập vào Internet để xem hình ảnh vệ
tinh của khu vực giáp giới giữa hai quốc gia, nhưng vẫn không
thể nào xác định được đường biên giới mới một cách
chính xác. Ngay cả khi truy cập vào Cổng Thông tin điện tử
của Chính phủ hay trang mạng của Ủy ban Biên giới Quốc gia,
người ta cũng chỉ có thể tìm ra một thứ <em>"bản
đồ"</em> mù mờ và kém chính xác như tấm <em>"sơ
đồ"</em> xã Đàm Thủy đăng kèm theo đây (ảnh 31).[25]

Trong khi nhiều vị trí hiểm yếu ở vùng biên giới Việt-Trung
đã trở thành <em>"chợ trời biên giới"</em> (vd: cửa khẩu
Tân Thanh), trong khi hai bên đang tích cực thúc đẩy sự ra đời
của các <em>"khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới"</em> thì
bản đồ chi tiết về vùng biên giới Việt-Trung vẫn còn là
<em>"bí mật quốc gia"</em>, thông tin về vùng này vẫn là
thông tin một chiều, mù mờ và không có giá trị khoa học.
Người ta có cảm tưởng các cấp có thẩm quyền vẫn tìm cách
che giấu, không muốn cho người dân hiểu biết rõ ràng, cụ
thể về tình hình đường biên giới mới. Việc vội vã nhổ
bỏ các cột mốc cũ để đưa vào <em>"viện bảo tàng"</em>
lại càng làm tăng thêm sự nghi ngờ đó.

Câu hỏi đặt ra là: trong tình trạng bưng bít, che giấu thông
tin như thế, giới trí thức – nhất là các nhà khoa học nhân
văn, phải làm gì để có thể bảo vệ Tổ quốc, giữ vững
chủ quyền quốc gia? Trông chờ Bộ Chính trị Đảng cộng sản
Việt Nam thành tâm thiện ý <em>"nhìn thẳng vào sự
thật"</em> để thực hiện một đường lối cởi mở hơn? Tha
thiết <em>"cầu xin"</em> nhà cầm quyền gia ân ban phát một
<em>"không gian tự do có giới hạn"</em> để trí thức có
thể góp ý hay phản biện? Hay trí thức phải noi gương cụ Phan
Châu Trinh và các sĩ phu của Phong trào Duy Tân hồi đầu thế
kỷ trước bằng cách <strong><em>tự mình vạch đường
đi</em></strong>, nghĩa là mạnh dạn đảm nhận vai trò tiên phong
trong công cuộc <strong><em>nâng cao dân trí, chấn hưng dân
khí</em></strong> bằng cách <strong><em>phá vỡ ách nô lệ tinh
thần</em></strong> đã bao trùm đời sống tinh thần của cả
nước ta từ gần nửa thế kỷ nay?

Có một bài học mà chúng ta có thể rút ra từ lịch sử:
<strong><em>tự do có được bằng sự gia ân chỉ có thể là
một thứ tự do bị kiểm soát, chân lý có được bằng sự
thỏa hiệp chỉ là chân lý nửa vời hay một nửa của sự
thật</em></strong>. Mà trong lĩnh vực khoa học thì tự do bị
khống chế hay một nửa – sự thật chỉ có thể đem lại
một thứ khoa học giả hiệu, một thứ khoa học hào nhoáng
nhưng phù phiếm với những huy chương và phẩm hàm tuy bề
ngoài rất <em>"hoành tráng"</em> và hấp dẫn, nhưng không
thể trường tồn qua thời gian và hoàn toàn vô nghĩa nếu xét
trên bình diện lợi ích của toàn dân tộc. Bài học của học
thuyết Lysenko (Lysenkoism) đã từng ngự trị trong ngành sinh học
Liên Xô từ cuối thập niên 1920 cho đến tận năm 1964 trước
khi bị vứt vào thùng rác của lịch sử, là một ví dụ cực
kỳ sinh động của thứ khoa học thừa nhận sự lãnh đạo
của một đảng chính trị trong một chế độ độc tài toàn
trị.

Đà Lạt, mùa xuân năm Nhâm Thìn, 9-2-2012

<strong>Mai Thái Lĩnh</strong>
________________________________________

<strong>Chú giải:</strong>


[13] Trương Nhân Tuấn, <a
href="http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=815">"Tìm
hiểu chủ quyền thác Bản Giốc"</a>, 01-11-2011

[14] Trung Khanh Phu (topographic) Sheet 6354-4, 1:50,000 U.S. Army Map
Service 1964 (10.1MB) [GeoPDF]:
http://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/trung_khanh_phu-6354-4.pdf

[15] AMS 1:50000 Maps in Vietnam Archive Map Collection:
http://www.vietnam.ttu.edu/resources/maps/maps1-50000.pdf

[16] Những địa danh in nghiêng là địa danh ghi trên bản đồ.

[17] Do không có trong tay bản sao nhật ký của Détrie cho nên
đoạn văn này hoàn toàn dựa vào nguyên văn do ông Trương Nhân
Tuấn công bố. Trong bản văn này, dòng sông Quây Sơn được ghi
là Qui-Xuan chứ không phải là Qui-Thuan như trong cuốn sách của
Thiếu tá Famin. Nếu quả thật Détrie ghi là Qui-Xuan thì tên
sông này đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 chứ không phải
chỉ mới xuất hiện gần đây.

[18] Vấn đề biên giới..., sđd, tr. 14.

[19] Tấm bản đồ về đường biên giới mới đã được công
bố trong bài viết của nhà văn Trần Nhương nhan đề <a
href="http://trannhuong.com/news_detail/11528/B%C3%8AN-C%E1%BB%98T
M%E1%BB%90C-BI%C3%8AN-GI%E1%BB%9AI-B%E1%BA%A2N-GI%E1%BB%90C ">"Bên cột
mốc biên giới Bản Giốc"</a>, Blog Trần Nhương 1-11-2011

[20] Ông Lê Công Phụng sau khi hoàn thành sứ mạng "đàm
phán" đã được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Hoa
Kỳ một thời gian trước khi về hưu.

[21] Theo thống kê năm 2010, mặc dù tổng sản phẩm nội địa
(GDP) của Quảng Tây xếp thứ 18, nhưng nếu tính GDP trên đầu
người, thì Quảng Tây đứng thứ 27 trong tổng số 31 thành
phố, tỉnh và khu tự trị, chỉ đứng trên Tây Tạng, Cam Túc,
Vân Nam và Quý Châu.

[22] Người Choang (壯, âm Hán-Việt đọc là Tráng) là dân tộc
thiểu số đông nhất Trung Quốc với dân số 18 triệu. Người
Choang có cùng nguồn gốc với người Tày và người Nùng ở
Việt Nam, tập trung đông nhất ở tỉnh Quảng Tây. Tên gọi
chính thức của tỉnh Quảng Tây là Khu tự trị dân tộc Choang
(Guangxi Zhuang Autonomous Region).

[23] Trong các trang quảng cáo du lịch của Trung Quốc, chiều cao
của thác nước được ghi là 60m, thậm chí 70m, trong khi những
người Pháp đầu tiên viết về thác nước chỉ phỏng đoán
đến mức 40-50m, và các sách địa lý của nước ta xác định
con số 34m.

[24] Vấn đề biên giới...., sđd, tr.8.

[25] Bản đồ này là bản đồ được cung cấp bởi địa chỉ
www.gis.chinhphu.vn


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/11608), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét