Người Quan Sát - Xã hội dân sự manh nha ở Việt Nam: Hành động nào?

<h2>Câu chuyện ở Đại Liên</h2>

Vào trung tuần tháng 8 năm 2011, Đại Liên đã được đánh dấu
là một sự kiện mang tính biểu tượng cho phong trào xã hội
dân sự ngay trong lòng Trung Quốc. Thành phố này thuộc tỉnh
Liêu Ninh – một khu vực Đông Bắc nằm sát Nội Mông Cổ,
một khu tự trị đang tiềm ẩn những mầm mống bất mãn của
người dân đối với chính quyền người Hán, chỉ xếp sau Tân
Cương và Tây Tạng.

Vụ việc Nhà máy sản xuất paraxylene Phúc Giai ở Đại Liên
gây ô nhiễm trầm trọng môi trường, đe dọa đến tính mạng
của người dân sinh sống trong khu vực, xét ra chẳng phải là
chuyện gì to tát, nếu nhìn lại "trận dịch" mà rất nhiều
doanh nghiệp sản xuất hóa chất đã hoành hành từ nhiều năm
nay trên khắp lãnh thổ Trung Hoa đại lục. Tuy vậy, kết quả
từ cuộc biểu tình của người dân Đại Liên giờ đây lại
gặt hái được một kết quả ít ai dám mong đợi: chính quyền
thành phố này – cả chủ tịch thành phố lẫn bí thư thành
ủy đều phải xuất hiện, đối thoại với người biểu tình,
đồng thời cam kết với người dân là sẽ di dời nhà máy
paraxylene Phúc Giai ra khỏi khu công nghiệp cảng Đại Liên.

Những người biểu tình đã làm gì mà khiến chính quyền phải
nhượng bộ? Phải chăng tự thân nhà máy Phúc Giai đã nằm
trong danh sách đen của chính quyền thành phố về ô nhiễm môi
trường mà chính quyền đã dự kiến phải di dời càng sớm
càng tốt (cũng như rất nhiều trường hợp gây ô nhiễm ở
Việt Nam mà cũng đã được đưa vào danh sách "hứa di dời"
với thời hạn vô định)? Nhưng những thông tin thu lượm
được từ vỉa hè của đường phố Đại Ninh lại cho thấy
suy luận trên là chẳng hề có cơ sở.

Mười hai ngàn người tham gia là yếu tố thành công đầu tiên
của cuộc biểu tình. Con số này được xem là một trong những
bằng chứng ấn tượng nhất trong làn sóng biểu tình phản
đối gây ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc trong những năm
qua. Vào năm 2007, một cuộc biểu tình với chủ đề tương tự
cũng đã nổ ra ở thành phố Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến, với con
số tham gia lên đến hàng chục ngàn người. Kết quả cuộc
biểu tình ở Hạ Môn cũng đã buộc chính quyền thành phố
phải di dời nhà máy hóa chất Đài Loan ra khỏi khu vực gây
nguy hiểm cho môi sinh.

Lượng và chất luôn là hai yếu tố song trùng hữu cơ làm nên
tính quyết định thành bại cho một phong trào dân sự. Trong
trường hợp Đại Liên, nhân số của phong trào biểu tình gấp
vài chục lần nhóm biểu tình ở Hà Nội phản đối Trung Quốc
gây hấn. Những hình ảnh và tin tức nội bộ của phong trào
biểu tình ở Đại Liên còn cho thấy khác với trường hợp
Hạ Môn cách đây bốn năm, lần này cấu trúc cuộc biểu tình
được thiết lập một cách khoa học và bài bản hơn nhiều.
Chẳng hạn, người đi đường chứng kiến những phụ nữ
biểu tình tiếp cận với lực lượng cảnh sát cơ động
được điều đến để ngăn chặn biểu tình, mời nước uống
và còn lau mồ hôi cho những chiến sĩ trẻ măng phải đứng
chịu trận trong bầu không khí nóng gắt của biểu tình. Một
thủ pháp binh vận chăng? Có thể xem là như thế dưới góc
độ chiến thuật. Nhưng phần lớn hành động binh vận kia lại
xuất phát từ sự tự nguyện của người biểu tình – một
cử chỉ tương thân tương ái đã làm cho không ít cảnh sát cơ
động phải xúc động.

Thứ nữa, "đám đông tụ tập" ở Đại Liên đã không hề
bị biến thành một đám ô hợp. Ngược lại hoàn toàn, đó là
một khối người được tổ chức chặt chẽ với sự nhất
quán trong yêu sách, thái độ dứt khoát và kiên trì trong thể
hiện yêu sách, ý thức chấp nhận va chạm ban đầu để tiếp
cận với tòa trụ sở chính quyền, tính kỷ luật trong việc
bố cục không gian hợp lý trong đoàn biểu tình mà vẫn không
bị chia cắt, công tác hậu cần được tổ chức chu đáo, tâm
lý và không khí biểu tình ôn hòa được duy trì ổn định…,
tóm lại là những tố chất của chiến thuật và kỹ thuật
biểu tình đã được cơ bản đảm bảo.

Hiển nhiên trong những điều kiện bình thường về mối quan
hệ giữa chính quyền và người dân, tất cả những yếu tố
trên đã làm nên một triển vọng ở mức độ có thể chấp
nhận đối với một phong trào phản kháng dân sự như trường
hợp Đại Liên.

<h2>Và những câu chuyện tương tự ở Việt Nam</h2>

Trong thực tế, vẫn còn nhiều khu vực ở Trung Quốc và hầu
hết các tỉnh thành ở Việt Nam – những nơi nằm trong vùng
nguy cơ hoặc nguy hiểm của nạn ô nhiễm môi trường – chưa
tạo lập được một cán cân đối trọng với tác nhân gây ra
ô nhiễm.

Vào năm 2009, ở Đồng Nai đã xuất hiện hiện tượng hàng
ngàn hộ dân phản ứng đối với việc Công ty Vedan xả nước
thải ra sông khiến môi sinh trong khu vực mang hình ảnh của sự
chết chóc. Trong trường hợp này, những điều kiện có thể
tạo ra làn sóng phản ứng của bà con nông dân và trở thành
một phong trào phản kháng dân sự đã gần như chín muồi. Sự
chín muồi như thế còn phát xuất từ một nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến hệ lụy bế tắc trong cách thức giải quết
vấn đề: chính quyền địa phương ở Đồng Nai từ quá lâu
đã tỏ ra vô trách nhiệm và cả dung túng đối với hành vi
xả thải của Vedan, với những lý do mà chỉ có họ mới
biết.

Thế nhưng trong thực tế đã không có phong trào phản kháng dân
sự nào. Tất cả vẫn chỉ dừng ở hình thức đơn thư khiếu
nại, dù rằng mức độ khiếu nại ngày càng tăng nhưng vẫn
vấp phải sự vô tâm, vô cảm của chính quyền. Trong khi đó,
đã bắt đầu xuất hiện những tai họa trực tiếp đối với
môi trường sống của người dân.

Nếu không có báo chí kịp thời phản ánh tình hình nguy cấp
trên… Hiển nhiên trong nhiều năm qua, báo chí trong nước đã
đóng một vai trò quan yếu về phản biện xã hội (tuy thực
tế điều này chỉ được nhà nước xem là phản ánh chứ
không phải là hành vi phản biện chính thức). Nhiều vụ việc
tiêu cực đã chỉ được nêu ra và làm rõ trên mặt báo chứ
không phải từ các cơ quan thanh tra, kiểm tra của chính quyền.
Trong những hội thảo về phòng chống tham nhũng, một vài ý
kiến hiếm hoi từ phía giới chức lãnh đạo đã thừa nhận
có đến 70% số vụ tiêu cực được phát hiện qua kênh thông
tin của báo chí.

Trong vụ Vedan, rất nhiều tờ báo trong nước đã lên tiếng.
Một vài tờ báo còn là nơi tiếp nhận đơn khiếu nại của
người dân và đã trở thành chất xúc tác chính cho việc khởi
kiện của những nạn nhân bị ô nhiễm đối với Vedan, buộc
chính quyền phải vào cuộc, dù đó chỉ là hành động phụ
họa rất miễn cưỡng của giới quản lý nhà nước.

So với nhiều vụ ô nhiễm khác ở Việt Nam, hậu quả mà Vedan
gây ra đã quá lớn, đến mức chính quyền địa phương không
thể làm ngơ. Trong khi đó, nhiều vụ việc gây ô nhiễm ở quy
mô và mức độ nhỏ hơn đã chìm vào im lặng. Điều đó cho
thấy khoảng thời gian mà người dân khiếu nại phải chịu
đựng trước sự im lặng của chính quyền đã trở nên gần
như vô nghĩa. Thay vào đó, nếu một phong trào phản kháng dân
sự được hình thành ngay từ đầu từ người khiếu nại thì
hiệu quả khiếu kiện hẳn sẽ khả quan hơn nhiều.

Cũng tại Đồng Nai, trên địa bàn huyện Long Thành trong mấy
tháng qua đã xảy ra một vụ xả chất thải khác ra sông, mà
tác giả của nó là Tổng công ty Phát triển khu công nghiệp
Sonadezi. Với nhiều người dân sinh sống, sản xuất và chăn
nuôi ở cạnh rạch Bà Chéo, họ đã phản ánh sự khốn khổ do
nước thải của Sonadezi Long Thành làm tôm cá, cây trồng bị
chết tới cơ quan chức năng nhưng không được quan tâm. Một
chi tiết đáng chú ý trong vụ việc này là bà tổng giám đốc
của Sonadezi lại là một đại biểu Quốc hội!

Nhiều vụ việc tương tự đã xảy ra ở Việt Nam chỉ với
mức độ phản ứng là đơn thư khiếu nại. Do đó không có gì
ngạc nhiên khi lượng đơn thư của 140 hộ dân ở Long Thành
đã trở nên nhẹ bẫng trước thái độ im lặng khó hiểu của
các cấp chính quyền. Tuy thế, đây lại là một hiện tượng
xã hội hoàn toàn dễ hình dung, bởi thói quen nể nang và
"chạy án" vẫn thường trực trong não trạng của giới quan
chức và phần lớn doanh nghiệp.

Hình ảnh Hạ Môn hay Đại Liên ở Trung Quốc đã chưa hề
được tái hiện ở Việt Nam. Sự việc này cũng khiến người
ta băn khăn tự hỏi là liệu cái gọi là xã hội dân sự đã
có cơ may hình thành ở Việt Nam hay chưa.

Môi trường, môi sinh là một trong những tiêu chí đấu tranh
rất quan trọng của phong trào dân sự trên thế giới. Ở
nhiều quốc gia, đặc biệt những quốc gia phát triển, những
tổ chức phi chính phủ như Hòa bình xanh, DANIDA… đã xây dựng
được vai trò và sự ảnh hưởng lớn lao đối với việc cải
thiện các vấn đề môi trường và xã hội. Cần lưu ý, đó
chỉ là những tác động thuần túy về môi trường, môi sinh
mà không như suy diễn của một số giới chức lãnh đạo Việt
Nam rằng ảnh hưởng như thế có thể dẫn đến một cái gì
đó khác hơn, chẳng hạn như "thay đổi chính trị".

Bài học kinh nghiệm mà nhiều tổ chức phi chính phủ hàng
đầu trên thế giới đã tích lũy được và đưa vào chiến
lược hành động của họ là không thể thụ động trông chờ
vào sự cải tiến tự thân của các cấp chính quyền, mà phải
tạo được hành động xúc tác đối với chính quyền nằm thay
đổi về chính sách và những vấn đề liên quan. Đường lối
hành động này trong thực tế đã trở nên hiệu quả hơn hẳn
ở nhiều quốc gia châu Á như Bangladesh, Ấn Độ.

<h2>Biểu tình phản đối Trung Quốc: phong trào dân sự đầu
tiên</h2>

Những cuộc biểu tình phản đối sự gây hấn của Trung Quốc
ở biển Đông, diễn ra ở Hà Nội trong vài tháng qua, mà tới
nay có thể tạm gọi là phong trào biểu tình, đã hàm ý tiêu
chí về hành động xúc tác đối với chính sách của chính
quyền, điều mà các tổ chức phi chính phủ theo trào lưu tiến
bộ nhất trên thế giới đã và đang tiến hành.

Điều cần nói thẳng ra qua phong trào biểu tình phản đối
Trung Quốc là không cần và không thể chấp nhận quan niệm
"độc quyền yêu nước" từ phía giới chức chính quyền.
Đã không có thông tin về biển Đông thì cần phải thông tin,
đã không chấp nhận việc biểu thị lòng yêu nước của
người dân thì cần phải chấp nhận, đã không khuyến khích
chuyện "tụ tập" thì lại càng phải thừa nhận tính chất
biểu tình ôn hòa như một biểu hiện của phong trào dân sự.

Hiển nhiên, hệ thống những cuộc biểu tình liên tục của
giới nhân sĩ trí thức Hà Nội trong nhiều tuần qua, dù muốn
hay không, đã phác ra cấu trúc đầu tiên cho một phong trào
phản kháng dân sự, nằm trong mô thức xã hội dân sự mà đang
dần trở nên một xu thế ở xã hội Việt Nam.

Vậy những yếu tố ban đầu nào đã tạo nên sự phác thảo
cho mô hình xã hội dân sự trên? Trước hết là thành phần
tham gia với những nhân sĩ, trí thức, sinh viên, kể cả cựu
chiến binh và cách mạng lão thành, cũng như đã xuất hiện
những tín đô tôn giáo. Những thành phần này, nếu như trước
biểu tình đã ít có mối liên hệ với nhau và ở trong tình
trạng rải rác, phân tán; thì trong biểu tình, điều mà mọi
người đều thừa nhận là họ đã biến hình ảnh "tụ
tập" thành một sự tập hợp ngày càng có quy củ, tạo thành
một khối nhỏ ngày càng thống nhất hơn.

Chính tính chất tập hợp và mối quan hệ liên đới về lợi
ích giữa các thành phần tham gia biểu tình là yếu tố đầu
tiên hình thành nên phong trào dân sự. Một yếu tố khác cũng
tạo nên xúc tác lớn cho sự hình thành ban đầu này là không
khí, nếu không muốn nói là cả mục tiêu, đã được hòa
quyện trong cuộc biểu tình giữa giới trí thức với những
người cựu chiến binh và lão thành cách mạng – một sự
đồng nguyên ở cấp độ nào đó về ý thức hệ mà lịch sử
dân tộc Việt Nam luôn cần đến trong các cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm.

Tính đồng nguyên trên cũng được nhân rộng hơn bởi thái
độ, tinh thần chia sẻ giữa những người không tôn giáo với
giới tôn giáo trong không khí biểu tình. Mà tôn giáo là một
thành phần không thể thiếu của xã hội dân sự, có ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động an sinh xã hội trên căn
bản lòng bác ái của tôn giáo và các mục tiêu công bằng,
bền vững và vì mọi người của xã hội dân sự.

Tuy vậy, sự thiếu vắng đương nhiên của tính đồng nguyên
trong lịch sử cũng lại là khiếm khuyết của nó trong xã hội
đương thời: vai trò của báo chí. Rõ ràng bối cảnh lịch sử
vào thời Trần đã chưa có vai trò này, nhưng trong chuỗi biểu
tình phản đối Trung Quốc vừa qua, chân đứng của mô hình xã
hội dân sự ở Việt Nam vẫn chưa được gia cố khi không một
tờ báo trong nước nào xác lập quan điểm ủng hộ công khai
nhóm biểu tình. Trước và sau, đó vẫn là nhược điểm cố
hữu của nền chính trị "độc quyền yêu nước" như
người vẫn thường miêu tả. Tuy nhiên, hãy nên cảm thông
điều này với báo chí trong nước.

<h2>Xã hội dân sự ở Việt Nam: những phác thảo ban đầu</h2>

Xã hội dân sự ở Việt Nam đã hiện ra những manh nha đầu
tiên. Những manh nha này thậm chí còn xuất hiện trước phong
trào biểu tình phản đối Trung Quốc – bằng vào hàng loạt
cuộc hội thảo về xã hội dân sự được một số cơ quan,
tổ chức tiến hành vào những năm 2008-2009, với sự đi đầu
của Viện những vấn đề phát triển của TS Nguyễn Quang A.

Theo phân tích của Tổ chức phi chính phủ quốc tế CIVICUS
(Liên minh thế giới vì sự tham gia của công dân), xã hội dân
sự bao gồm các thành phần như tổ chức quần chúng, hội
nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ, tổ chức tại cộng
đồng (các nhóm không chính thức), tổ chức tôn giáo, báo
chí…

Một căn cứ quan trọng và cũng có thể được xem là tiền
đề của xã hội dân sự tại Việt Nam là 74% số công dân là
thành viên của ít nhất một tổ chức quần chúng; 62% là thành
viên của từ 2 tổ chức quần chúng trở lên; bình quân mỗi
công dân tham gia từ 2-3 tổ chức quần chúng. Những tổ chức
quần chúng này thường nhắm vào các mục tiêu từ thiện nhân
đạo, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo…
Đối với hình thái xã hội dân sự ở phương Tây, chức năng
của xã hội dân sự còn rộng hơn, bao gồm cả khía cạnh kinh
tế, văn hóa, tôn giáo và chính trị.

Từ năm 1995, đã bắt đầu xuất hiện một vài nghiên cứu,
điều tra của tổ chức quốc tế về xã hội dân sự ở Việt
Nam. Từ những năm 1997-1998, bắt đầu xuất hiện những nghiên
cứu lẻ dưới dạng bài viết của tác giả Việt Nam về xã
hội dân sự. Từ năm 2001-2002, bắt đầu xuất hiện một vài
ấn phẩm (nghiên cứu và sách) của tác giả nước ngoài kết
hợp với tác giả Việt Nam về hoạt động của xã hội dân
sự.

Xu thế toàn cầu hóa, xu thế hội nhập quốc tế của Việt Nam
đã dẫn đến xu hướng xã hội dân sự du nhập vào Việt Nam
như một trào lưu tất yếu. Đến nay tại Việt Nam cũng đã
xuất hiện loại hình một số tổ chức phi chính phủ trong
nước (theo thuật ngữ quốc tế là "tổ chức phi chính phủ
địa phương"), cùng 600-700 tổ chức phi chính phủ nước
ngoài. Sự hình thành của các tổ chức này dựa vào thực
trạng đã và đang tồn tại nhiều vấn nạn xã hội ở Việt
Nam như tình trạng nghèo, tệ nạn xã hội, tệ nạn tham nhũng
và hoàn cảnh thiên tai.

Mặt khác, đã xuất hiện xu hướng quan tâm ngày càng tăng của
giới trí thức, sinh viên và tôn giáo đối với vấn đề xã
hội dân sự, liên quan đến cả khía cạnh tư tưởng và chính
trị của xã hội dân sự. Xu hướng này cũng phản ánh nhu cầu
phát triển hoạt động phản biện xã hội tại Việt Nam, với
tiếng nói chính bắt nguồn từ báo chí và các hội đoàn xã
hội.

<h2>Nói KHÔNG với xã hội dân sự!</h2>

Sau khi những báo cáo nghiên cứu ban đầu về xã hội dân sự
tại Việt Nam đã hoàn thành và được đặt lên bàn của giới
chức lãnh đạo, tưởng như con đường hình thành của xã hội
dân sự đã có thể bước đầu được xây dựng, thì Nhà
nước lại không chấp nhận sự tồn tại về pháp lý của
loại hình tổ chức phi chính phủ trong nước, bất chấp thực
tế đã tồn tại của nhiều tổ chức loại này ở nhiều
tỉnh thành.

Những cuộc hội thảo về xã hội dân sự cũng vì thế mà rơi
vào thinh không. Cho dù đã được nắn nót tổ chức bởi những
người nhiệt tâm với sự phát triển của dân chủ, nhưng hầu
hết những vấn đề dân chủ khi đụng chạm đến vấn đề
dân sự lại đã chỉ được thể hiện bởi khung lý thuyết
muôn thuở về lịch sử, vai trò, ý nghĩa, những tham khảo về
xã hội dân sự trên thế giới, một số con số thống kê hoàn
toàn không tách biệt được khu vực dân sự thuộc nhà nước
với khối dân sự không thuộc nhà nước, những kiến nghị
về chủ trương nhưng thiếu biện pháp triển khai của các nhà
khoa học…, để cuối cùng dẫn đến hệ quả là cũng như làn
sóng đơn thư khiếu nại về ô nhiễm môi trường của người
dân, vấn đề xã hội dân sự ở Việt Nam đã không nhận
được bất cứ một khuyến khích nào, thậm chí không hồi âm
đối với các kiến nghị dù chỉ về chủ trương từ phía
chính quyền trung ương.

Trung ương đã thế, còn thái độ của các chính quyền địa
phương thì thế nào? Một thực tế đáng quan ngại về mặt
bằng tri thức là chỉ có rất ít giới chức quản lý địa
phương hiểu được thực chất của xã hội dân sự. Trong khi
đó, phần lớn không hiểu gì hết và cũng không chịu hoặc
không muốn tìm hiểu. Ngay tại TP. Hồ Chí Minh, trong một cuộc
họp, một lãnh đạo của Ủy ban nhân dân thành phố đã đập
bàn với cấp dưới: "Cấm các anh nói về chuyện xã hội dân
sự!".

Mặt bằng dân trí của giới chức lãnh đạo đã tạo nên
phản ứng phụ ghê gớm đối với tri thức văn hóa của các
nhà nghiên cứu. Không một đề xuất nào về xã hội dân sự
được tán thành, cho đến lúc câu chuyện này rơi vào dĩ vãng
và chẳng còn ai trong chính quyền đoái hoài đến việc cái thai
nhi xã hội dân sự sống dở chết dở như thế nào.

Ở một thái cực ngược lại, những báo cáo của ngành công an
từ trung ương đến cấp địa phương lại như đổ thêm dầu
vào lửa khi luôn gắn kết xã hội dân sự với "Diễn biến
hòa bình" hay những gì tương tự. Ngay cả những bộ phận có
chức năng nghiên cứu sâu của ngành này cũng hiếm khi thực
hiện được những phân tích và đánh giá cơ bản và khách quan
về xã hội dân sự, từ đó dẫn đến hệ quả xã hội dân
sự là một thứ cần phải "dập tắt" hơn là 'nâng niu".

Có thể nói không quá rằng, bên cạnh sự ấu trĩ của chính
quyền về một vấn đề thời đại như xã hội dân sự, ngành
công an đã giúp biến sự ấu trĩ đó thành một bước lùi
rất sâu trong nhận thức về bản chất một phạm trù văn hóa.

<h2>Nói CÓ với xã hội dân sự!</h2>

Có quá nhiều việc để xã hội dân sự và các phong trào dân
sự của nó làm hơn là chú tâm đến chủ đề "thay đổi
thể chế" – như nỗi lo lắng mơ hồ không lúc nào ngớt
của ngành công an và giới chức chính quyền.

Trong tổng số đơn thư khiếu nại của người dân từ năm 2000
đến nay, mối liên quan đến vấn đề đất đai chiếm đến
70% và gần đây tỷ lệ đó càng tăng – 90%. Đất đai là vấn
đề chính trị chăng? Liệu vô số những đòi hỏi của người
dân bị giải tỏa về giá bồi thường sao cho thỏa đáng, chế
độ tái định cư phải được bảo đảm, môi trường sinh
sống làm ăn không bị xáo trộn, nạn nhũng nhiễu của cán bộ
nhà nước trong thủ tục đất đai phải được hạn chế…
lại mang động cơ chính trị?

Một khi đơn thư khiếu nại của người dân – nạn nhân không
được các cấp chính quyền lưu tâm hoặc bị bỏ qua không
thương tiếc – lẽ tự nhiên là trong người dân phải hình
thành phương thức phản ứng ở cấp độ cao hơn – khiếu
kiện tập thể đến các cơ quan chính quyền ở cấp cao hơn.
Đến lúc này, tính chất tập thể lại bị đồng hóa với
hành động gây mất trật tự và cả rối loạn xã hội, một
thứ mầm mống cho "các thế lực thù địch lợi dụng".
Hành động Tòa án Bến Tre xử "Hội thánh chuồng bò" –
những người giúp dân khiếu kiện đất đai – là một minh
chứng hiển nhiên cho tâm não đó.

Những mâu thuẫn xã hội nhẹ nhàng hơn cũng theo đó mà bị
dồn nén bởi một mâu thuẫn khác: mất dân chủ. Bất cứ
người dân nào dám thể hiện phản ứng của mình bằng hình
thức tập hợp, trương biểu ngữ, tuần hành… đều dễ dàng
bị quy kết thành hành vi "gây mất ổn định chính trị".

Vô hình trung, đất đai và những hệ lụy tạo ra từ các cấp
chính quyền địa phương đã tạo ra nhiệm vụ không thể thoái
thác cho xã hội dân sự. Từ một thai nhi xã hội dân sự chưa
thành hình, nhưng sau nhiều tác động phản cảm của chính
quyền, nó đã đang thành khối. Vụ việc diễn ra vào đầu
tháng 8/2011 ở giáo hạt Cầu Rầm – thuộc giáo phận Vinh ở
Nghệ An là một ví dụ điển hình.

Nhà thờ Cầu Rầm cũ (Cửa Nam) được xem là khu đất thánh và
giáo dân đã phản ứng quyết liệt đối với sự can thiệp
của chính quyền địa phương vào khu vực này. Tuy vụ việc
này chỉ là một trong rất nhiều vụ việc tranh chấp đất đai
giữa giáo hội Công giáo với chính quyền tại nhiều địa
phương, nhưng điểm đặc biệt là một cuộc diễu hành mang
tính phản kháng của hàng ngàn giáo dân trên khắp các đường
phố Vinh, với nhiều khẩu hiệu đòi trả lại đất, thực thi
công lý và hòa bình và cả tự do tôn giáo.

Hiện tượng diễu hành trên cho thấy điều gì? Không còn đơn
thuần là thái độ phản ứng được biểu hiện qua đơn thư
khiếu nại gửi đến các cấp, mà lời nói đã chuyển sang
hành động. Cuộc diễu hành ôn hòa đó về thực chất là một
cuộc phản kháng ôn hòa, và với sự kết tụ của hàng ngàn
con người thì có thể xác định là cuộc phản kháng ôn hòa
đó đã được tổ chức chu đáo với truyền thống kỷ luật
của nhà thờ. Sự gắn kết của khối người, cộng với
phương pháp tổ chức chặt chẽ, cũng cho thấy một triển
vọng rất gần là chính những cuộc phản kháng như vậy có
thể biến thành phong trào phản kháng diễn ra trên diện rộng
vào bất cứ thời điểm nào xảy ra xung đột giữa chính
quyền với người Công giáo.

<h2>Hướng đến những tổ chức dân sự hành động</h2>

Ở các nước phát triển, xã hội dân sự đã được định
hình như một loại thể chế có phạm vi hoạt động rất rộng
và với sức ảnh hưởng rất lớn. Còn ở những quốc gia như
Trung Quốc và Việt Nam, xã hội dân sự mới chủ yếu tồn
tại trên khái niệm, thậm chí là một khái niệm khá mơ hồ,
đặc biệt đối với tầng lớp công nhân và nông dân. Thế
nhưng nếu những giai tầng ít học hiểu được cái cốt lõi
của vấn đề là mục tiêu cuối cùng của xã hội dân sự
nhằm hạn chế bất công xã hội thông qua phương thức xúc
tác, tác động, can thiệp vào chính sách như nhiều tổ chức
phi chính phủ phương Bắc (cách gọi những tổ chức phi chính
phủ ở khối các quốc gia phát triển) đã làm và làm thành
công, thì quyền lợi của công nhân và nông dân sẽ gắn liền
với tổ chức dân sự, với giới trí thức.

Từ đó, nhiều bất cập, bất công về môi sinh, môi trường,
đất đai, lao động sẽ được tổ chức dân sự xúc tác hỗ
trợ người dân trong mối quan hệ với chủ đầu tư, doanh
nghiệp và chính quyền địa phương. Trong cuộc diễu hành của
giáo hạt Cầu Rầm ở Vinh, dù có thừa nhận hay không, một
hình thức tổ chức dân sự cũng đã ra đời trong lòng giáo
hạt và đang làm cái việc tạo ra tác động đối với chính
sách của chính quyền, nhằm thay đổi chính sách đó phù hợp
với lợi ích tinh thần của giáo dân.

Trong bài viết "Sự khó xử của nhà cầm quyền" (ngày
17/8/2011), khái niệm "xã hội dân sự mặc nhận" đã được
khơi gợi, đề cập đến tính tồn tại mặc nhiên của một
hình ảnh xã hội dân sự nào đó trong ý thức của những
người đang bước trên lề trái của con đường. Nhưng tất
nhiên, xã hội dân sự hoàn toàn có thể trở thành một cái gì
đó chính thống hơn là tình cảm mặc nhận, thành một định
chế có ích cho xã hội mà đến một lúc nào đó, chính quyền
sẽ mặc nhiên phải thừa nhận.

Nhưng muốn có được sự thừa nhận đó, tự thân xã hội dân
sự cùng những phong trào dân sự của nó phải tiến đến hành
động chứ không chỉ bằng những bài tham luận, diễn thuyết
trên các diễn đàn hội thảo, trong những khách sạn sang
trọng. Bởi nếu chỉ là diễn thuyết và lý thuyết, sự xa
cách với tầng lớp thu nhập thấp của xã hội vẫn duy trì
nguyên vẹn và sẽ không có một cánh tay nối dài nào có thể
đưa các giai cấp gắn quyện với nhau được.

Phong trào biểu tình phản đối Trung Quốc ở Hà Nội trong mấy
tháng qua đã "vô tình" có được một đóng góp lớn cho sự
khởi đầu của xã hội dân sự – một xã hội dân sự chỉ
mới manh nha ở Việt Nam – nhưng đang bắt đầu tiến vào con
đường của sự hành động.

Cũng như trường hợp giáo hạt Cầu Rầm ở Vinh, trong lòng
phong trào biểu tình ở Hà Nội đã dần hiện ra một tổ chức
dân sự – tổ chức của những người tự phát, tự nguyện,
đến từ nhiều nơi, từ nhiều tầng lớp và giới, nhưng cùng
chung một ý nguyện là bày tỏ sự phản ứng đối với những
an nguy quốc gia và cố gắng tìm cách hạn chế những bất
công xã hội. Tính khoa học trong tổ chức của phong trào này
đã được thể hiện qua "Cẩm nang biểu tình" – một văn
bản hoàn toàn không chính thống nhưng lại tập kết được
nguồn chất xám công phu.

Có lẽ trong tương lai không quá xa, tại nhiều tỉnh thành khác
ở Việt Nam, từ Hà Nội lan ra các tỉnh phía Bắc, rồi từ
phía Bắc lại lan vào phía Nam, những phong trào dân sự cùng
những tổ chức dân sự sẽ tiếp nối nhau phát triển, nhằm
thay đổi ít ra một chút gì đó trong chính sách và nạn nhũng
nhiễu của cán bộ chính quyền khiến cho quyền lợi người
dân nghèo bị thiệt hại nặng nề. Và cũng như cuộc biểu
tình tập trung về khiếu tố đất đai của hơn 500 người dân
các tỉnh thành phía Nam tại Văn phòng Quốc hội tại TP.HCM vào
giữa năm 2007, những phong trào dân sự và tổ chức dân sự,
bao gồm cả một số tờ báo có khuynh hướng phản ánh trung
thực các vấn đề kinh tế xã hội và hiện trạng tiêu cực,
sẽ có xu hướng gần lại với nhau trong mối chia sẻ những
tâm nguyện và phương pháp hành động.

Vào bất cứ thời gian nào sự gây hấn của Trung Quốc tạm
lắng, những vấn đề nội tại lại nên là trung tâm chú ý
của phong trào dân sự ở Việt Nam. Chính những vấn đề quốc
kế dân sinh mới đặt tiền đề cho tương lai của xã hội dân
sự ở Việt Nam, bởi chỗ đứng của giới trí thức đau đáu
với hiện tình đất nước chính là mối liên hệ và tình cảm
gắn bó với những người công nhân và nông dân bị đẩy vào
cảnh đói nghèo.

Hiện thời, xã hội dân sự ở Việt Nam mới chỉ đang bước
những bước đầu tiên, trong thời kỳ đầu tiên trên con
đường tự định hình nó. Nhưng nếu xu thế phong trào dân sự
và tổ chức dân sự hành động được thúc đẩy, quá trình
định hình đó sẽ ngắn lại đáng kể.

Đến một lúc nào đó, khi xã hội dân sự đã tự thân đứng
vững trong lòng xã hội Việt Nam, chính giới chức chính quyền
sẽ phải tìm cách tiếp cận, kể cả dựa vào phong trào và
tổ chức dân sự như một cách thức để trở thành "công
bộc" của nhân dân.

+ Cùng tác giả: – <a
href="http://anhbasam.wordpress.com/2011/08/21/2011/08/20/2011/08/17/269-s%e1%bb%b1-kho-x%e1%bb%ad-c%e1%bb%a7a-nha-c%e1%ba%a7m-quy%e1%bb%81n-d%e1%bb%91i-v%e1%bb%9bi-bi%e1%bb%83u-tinh-yeu-n%c6%b0%e1%bb%9bc/">Sự
khó xử của nhà cầm quyền đối với biểu tình yêu
nước.</a> - <a
href="http://anhbasam.wordpress.com/2011/08/21/2011/08/20/278-ngu%e1%bb%93n-c%c6%a1n-c%e1%bb%a7a-b%e1%ba%a3n-thong-bao-b%e1%ba%a5t-h%e1%bb%a3p-l%e1%bb%87/">Nguồn
cơn của bản thông báo bất hợp lệ</a>.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9688), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét