Nguyễn Hưng Quốc - Tâm lý phản-trí thức

<a
href="http://www1.voanews.com/vietnamese/news/khinh-tri-thuc-08-07-2010-100186134.html">Bài
trước ghi nhận một sự kiện</a>: đảng Cộng sản, trong suốt
mấy chục năm vừa qua, rất khinh rẻ trí thức, hay nói theo
ngôn ngữ của Mao Trạch Đông, là coi trí thức giống như...
cục phân.

Nhưng có phải chỉ có chế độ cộng sản mới coi thường trí
thức?

Tôi ngờ là không. Tôi có cảm tưởng thái độ coi thường trí
thức đã có gốc rễ sâu xa trong lịch sử. Cộng sản chỉ
lập kỷ lục ở mức độ mà thôi.

Có thể nói văn hoá Việt Nam được xây dựng trên một nền
tảng: phản-trí thức (anti-intellectual).

Phản-trí thức là tâm lý hoài nghi, hơn nữa, thù nghịch với
trí thức, xem trí thức không bằng kinh nghiệm, lý trí không
bằng trực giác, lý thuyết không bằng thực hành, lý luận
không bằng quyền lực, tư tưởng không bằng tín điều. Trong
tâm lý phản-trí thức, tất cả những gì liên quan đến học
thuật và những gì có tính chất trừu tượng và uyên bác
đều bị xem là "cao vĩ", "viển vông", thậm chí "vu khoát";
chúng không những không đáng tin cậy mà còn đáng bị ghét
bỏ, chế diễu và loại trừ. Có thể nói một cách vắn tắt,
phản-trí thức thực chất là phản-lý thuyết, từ đó, nó
dẫn đến thái độ phản-hàn lâm và việc nghi kỵ những sự
phân tích có tính sách vở nói chung.

Tâm lý phản-trí thức có thể xuất hiện cả ở những người
vốn quen được nhìn như những người trí thức nếu họ chỉ
học như vẹt, học một cách nhồi sọ, học với thái độ
sùng kính kiến thức từ trong sách vở như những chân lý hiển
nhiên và bất biến. Đó không phải là nghịch lý vì bản chất
của trí thức không phải chỉ ở kiến thức mà chủ yếu là
ở lý trí; mà lý trí, ít nhất là từ cuối thế kỷ 17 trở
đi, đặc biệt với Kant, được hiểu như đồng nghĩa với
năng lực phê bình (1), trong khi phê bình, tự bản chất, lại
có tính chất nghi vấn, muốn đặt mọi sự thành vấn đề.

Chính vì thế mới có khái niệm chính sách giáo dục ngu dân
dưới các chế độ thực dân cũng như phát xít; cũng chính vì
thế mà mặc dù các lãnh tụ của họ lúc nào cũng kêu gọi
nâng cao trình độ văn hoá cho dân chúng trong nước, nhưng các
chế độ cộng sản, từ Liên Xô cho đến Trung Hoa và cả Việt
Nam nữa, trên căn bản, đều là những chế độ phản-trí
thức; và cuối cùng, cũng chính vì thế mà tâm lý phản-trí
thức có thể là một hiện tượng phổ biến ở ngay cả những
quốc gia có trình độ dân trí khá cao hoặc rất cao.

Nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của tâm lý phản-trí
thức rất đa dạng.

Dân chúng ghét trí thức vì trí thức đồng nghĩa với quyền
lực; nhà cầm quyền ghét trí thức vì trí thức đồng nghĩa
với tinh thần phê phán; giới lãnh đạo tôn giáo ghét trí
thức vì trí thức dẫn đến sự hoài nghi; giới kinh doanh ghét
trí thức vì muốn tập trung vào những lợi ích thực tế và
cụ thể; ngay chính một phần giới trí thức cũng ghét trí
thức vì trí thức bao giờ cũng có khuynh hướng dị hoá, phân
hoá và vượt bỏ, do đó, nó trở thành một đe doạ cho những
ai không sẵn sàng theo đuổi những hiểu biết mới vốn không
ngừng sinh sôi nẩy nở hầu như từng ngày, từng ngày.

Phản-trí thức, do đó, là thứ tâm lý phổ biến hầu như ở
khắp nơi trên thế giới. Đầu thập niên 60, Leonard Woolf nhận
định là "không có dân tộc nào khinh bỉ và nghi kỵ trí thức
và giới trí thức cho bằng người Anh" (2). Mấy năm sau đó,
Richard Hofstadter, một học giả Mỹ, đã viết hẳn một cuốn
sách nhan đề Anti-intellectualism in American Life để chứng minh
sự nở rộ của phong trào phản-trí thức tại Mỹ vào thập
niên 50 không phải là một hiện tượng bất bình thường mà
chỉ là sự bộc phát của một tâm lý tiềm tàng từ lâu trong
xã hội Mỹ (3).

Riêng tại Úc, từ rất lâu, giới nghiên cứu đã nhận ra
phản-trí thức là một đặc điểm nổi bật trong tâm lý của
quần chúng: đó là lý do tại sao nói chung phần lớn dân chúng
Úc thường sợ tự do, sợ những sự thay đổi, có khuynh
hướng thích giải quyết các vấn đề xã hội thông qua bộ
máy hành chánh hơn là qua sự thảo luận, thích những chính
khách bình dân, nói năng giản dị về những vấn đề cụ thể
trước mắt hơn là những chính khách có viễn kiến với những
chính sách lâu dài và do đó, mơ hồ (4). Tâm lý phản-trí thức
ấy có khi phát triển mạnh mẽ đến độ người ta sẵn sàng
ủng hộ những chính khách thiển cận, thậm chí, ngu dốt như
trường hợp của Pauline Hanson, một phụ nữ bán fish and chips
chuyển qua làm chính trị với lập trường bài thổ dân và
châu Á làm ầm ĩ dư luận tại Úc trong mấy năm trước đây.
Tuy vậy, theo tôi, có lẽ không ở đâu bệnh phản-trí thức
lại rõ rệt và trầm trọng như ở Việt Nam.

Ngày xưa, cả hơn một ngàn năm, mặc dù dân chúng, dưới ảnh
hưởng của Nho giáo, quý trọng giới trí thức, hơn nữa, thèm
thuồng địa vị của giới trí thức, nhưng hầu hết lại vẫn
nghi ngờ trí thức, cái mà họ hoàn toàn không tiếp cận
được. Mà chính giới trí thức cũng không hiểu hết ý nghĩa
và tác dụng của những kiến thức họ thu lượm được từ
sách vở vốn được viết và in ra ở Trung Hoa xa lơ xa lắc.
Kiến thức biến thành một trò chơi lắp ghép chữ nghĩa vừa
huyền bí vừa vô bổ. Khi đọc, người ta vẫn cắm cúi vào
các trang sách như bất cứ ở đâu khác, thậm chí còn sùng
kính hơn ở những nơi khác: với họ, mọi trang sách, từ vỡ
lòng đến cao cấp, đều có giá trị như những điển phạm,
một thứ Kinh Thánh. Thế nhưng, lạ, khi sống và khi làm việc,
bất cứ là việc gì, từ việc trồng một luống khoai cho đến
việc làm một cái nhà hay cả việc viết văn và làm thơ,
người ta chỉ nương cậy vào bản năng, trực giác và kinh
nghiệm của chính mình mà thôi.
Đến thời Pháp thuộc, đặc biệt từ đầu thế kỷ 20,
trước những ưu thế không thể chối cãi của nền văn minh
Tây phương, tâm lý quần chúng thay đổi theo hướng ngược
lại: người ta ít nhiều coi trọng trí thức vì hy vọng là
với nó, người ta có thể đẩy mạnh quá trình hiện đại hoá
đất nước để sớm thoát khỏi cảnh nô lệ, nhưng người ta
lại coi thường giới trí thức, vốn phần lớn, dưới mắt
họ, chỉ là những thư lại trong guồng máy chính quyền thực
dân, những kẻ, nói như Tú Xương, "sáng vác ô đi, tối vác
về".

Nhưng sự thay đổi này chưa kịp gây một ảnh hưởng đáng
kể nào ngoài một số cuộc tranh luận khá ngây thơ về các
vấn đề lý thuyết, từ chuyện duy tâm và duy vật đến
chuyện nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân
sinh thì cách mạng tháng Tám bùng nổ, mở đầu một kỷ nguyên
mới, với chủ trương đề cao giai cấp công nhân và nông dân,
ở đó, cả trí thức lẫn giới trí thức đều bị khinh bỉ.
Câu nói của Mao Trạch Đông, "trí thức là cục phân" trở
thành một "danh ngôn" và chính sách một thời (5). Sau này, vớ
được một câu nói của Goethe, qua sự trích dẫn của Lenin,
"Lý thuyết thì xám xịt mà cây đời thì mãi mãi xanh tươi",
người ta liền biến ngay tính chất phi lý thuyết trong văn hoá
Việt Nam thành một niềm tự hào.

Có thể nói, từ góc độ lịch sử, phản-trí thức là một
trong những truyền thống lớn của Việt Nam: đó là một trong
những nơi hiếm hoi trên thế giới không hề có và cũng không
cần có bất cứ lý thuyết nào. Không những không có lý
thuyết, chúng ta cũng không có những công trình nghiên cứu về
lý thuyết và thậm chí, không có cả những khái niệm mang tính
lý thuyết. Điều đó có nghĩa là, tính chất phản-trí thức
ở Việt Nam vô cùng phổ biến và sâu đậm.

Có thể nói, ở các nước khác, thường chỉ có quần chúng
bình dân mới ghét trí thức; ở Việt Nam, ngay cả giới trí
thức cũng ghét trí thức; ở các nước khác, đa số dân chúng
ghét lý thuyết; ở Việt Nam, hầu như tất cả mọi người
đều ghét lý thuyết. Ngoại lệ, nếu có, chắc cũng vô cùng
hoạ hoằn.

Nguyễn Hưng Quốc

<h2>Chú thích:</h2>

1. Xem Criticism and Culture: the Role of Critique in Modern Literary Theory
của Robert Con Davis và Ronald Schleifer (1991), Longman xuất bản
tại Anh, tr. 3-6.

2. Dẫn theo Richard Hofstadter (1966) trong cuốn Anti-intellectualism in
American Life, Vintage Books, New York, tr. 20.

3. Richard Hofstadter (1966), sđd.

4. Về chủ nghĩa phản-trí thức tại Úc, có thể đọc thêm
chương "Anti-intellectualism in Australia" trong cuốn Revolution from
Within, a Contemporary Theory of Social Change của J.D. Blake, Outlook
xuất bản tại Sydney, 1971, tr. 101-125.

5. Trong bài "Những bước thử nghiệm của một lớp người
viết chúng tôi" (Phạm Phú Phong ghi) in trong cuốn Cách mạng
kháng chiến và đời sống văn học, 1945-54, do Ban Văn học
Việt Nam hiện đại biên soạn, in lần 2, nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1995, nhà văn Nguyễn Thành Long kể: "Khi đọc tài liệu
'Văn Nghệ Diên An' của Mao Trạch Đông, tôi còn nhớ nguyên văn
một câu gây ấn tượng dai dẳng trong tôi: 'Trí thức là cục
phân'. Chúng tôi phải tin theo điều này và tự phủ nhận
bản thân mình." (tr. 527)

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/6037), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét