Nguyễn Gia Kiểng - Vượt lên trên ngày 30 tháng 4

Sài Gòn 31-3-1975, trên chiếc xe đưa tôi về bộ. Tôi im lặng
và ông tài xế cũng im lặng. Một lúc sau ông nói một cách như
xa vắng: "Đà Nẵng mất rồi". Tôi cũng vẫn im lặng. Ông tài
xế nói tiếp: "Các ông phải làm gì chứ nếu không thì hỏng
hết rồi !". Câu nói của ông như một nhát dao cắt vào ruột
tôi. Tôi biết làm gì bây giờ. Tôi cũng đang còn chờ sự sụp
đổ của miền Nam như ông.

Câu nói cuối cùng của ông tài xế ngày hôm nay tôi cũng còn
nghe rất rõ. Nó vẫn đọng trong tai tôi, bởi vì nó tóm gọn
cả một giai đoạn lịch sử và một thảm kịch của dân tộc
này. Ông tài xế có một người con trai tử trận trong quân
lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông là một công chức thâm niên. Ông
là một người đại diện rất tiêu biểu cho những người dân
thuộc phe quốc gia. Ông chưa bao giờ được hưởng một vinh
quang nào, một đặc lợi nào. Nhưng ông đã chấp nhận tất
cả. Đã nhịn nhục, đã chịu đựng và đã đặt tin tưởng
vào các ông lớn để ngăn chặn không cho cộng sản thôn tính
miền Nam. Tôi không biết lý do gì khiến ông chống cộng. Có
lẽ ông thuộc nề nếp nho giáo, hay vì ông có cảm tình với
một người chống cộng nào đó, hay vì ông ghét một người
cộng sản nào đó, hay trong gia đình ông có người đã là nạn
nhân cộng sản. Hay chỉ vì lý do giản dị là ông sinh sống ở
vùng quốc gia. Nhưng ông chống cộng thực sự và ông đã chấp
nhận trả cái giá rất đắt cho sự chọn lựa chính trị đó:
một đời sống tăm tối nghèo khổ và một đứa con tử trận.

Nhưng bây giờ đất nước sắp rơi vào tay cộng sản. Những
chịu đựng và hy sinh của ông đã trở thành vô ích. Các ông
lớn đã phản bội ông. Đối với ông tài xế tôi cũng là
một ông lớn, dù là trên thực tế tôi chẳng lớn chút nào.
Tôi hổ thẹn như một tên lưu manh bị lật tẩy, như một kẻ
quịt nợ. Tôi thương hại cho thế hệ của tôi và cho chính
bản thân tôi. Trong số những người ở lứa tuổi 30 chúng tôi
có một vài phần tử may mắn đã lên được tới những địa
vị tạm gọi là cao nhưng sự thực chưa ai đạt tới một
địa vị quyết định để có thể thay đổi được tình thế.
Ngay cái địa vị hiện nay, chúng tôi cũng chỉ đã đến vừa
đúng lúc để nhận phần hổ nhục, bởi vì dầu sao chúng tôi
cũng đã thuộc vào vai cấp lãnh đạo và sự sụp đổ của
miền Nam trước hết là do sự phản bội của những người
lãnh đạo. Một sự phản bội liên tục từ lâu chứ không
phải chỉ bắt đầu với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.

Thực ra, phe chống cộng không có lãnh đạo mà cũng không có
cả một nhân sự chính trị.

Nhân sự chính trị là yếu tố trọng tâm của mọi dân tộc.
Nó là hiện thân của chủ quyền quốc gia. Nó là di sản của
lịch sử. Nó không thể tự nhiên mà có. Sự hình thành của
một giai cấp chính trị chỉ có thể là kết quả của nhiều
cố gắng liên tục qua nhiều thế hệ. Nhưng từ một thế kỷ
nay chúng ta không có nhân sự chính trị.

Trước đây ta có giai cấp sĩ. Đó dĩ nhiên không phải là giai
cấp chính trị đáp ứng mọi tiêu chuẩn cần có của một giai
cấp chính trị của thời đại này, nhưng cũng đã đủ cho
tới hết nửa đầu thế kỷ 19. Từ nửa sau thế kỷ 19, một
thách đố mới xuất hiện. Thách đố này là sự va động với
nền văn minh tây phương. Nó đặt lại tất cả mọi vấn đề.
Nó đòi hỏi phải thay đổi tất cả, nó đảo lộn tất cả.
Nó quan trọng và khó khăn hơn tất cả mọi cuộc thách đố
khác mà dân tộc ta đã từng gặp trong quá trình dựng nước
và giữ nước. Lúc đó lại chính là lúc chúng ta chưa phục
hồi sau hơn 200 năm nội chiến khốc liệt, kế tiếp là những
cuộc trả thù báo oán của Gia Long, rồi cuộc ly khai của Lê
Văn Duyệt, rồi những vụ giết hại công thần, những thanh
toán trong gia tộc nhà Nguyễn, những vụ cấm đạo và giết
giáo dân. Chúng ta đã không đủ sức khỏe tinh thần và thân
xác để đương đầu với thách đố đó. Chúng ta đã thất
bại và mất nước.

Giai cấp sĩ đã thất bại và tệ hơn nữa đã từ nhiệm.
Nguyễn Khuyến, người đại diện tiêu biểu nhất của giai
cấp sĩ, người đã đậu thủ khoa cả ba kỳ thi lớn và đã
có một nhân cách được cả nước kính phục, bỏ về quê làm
ruộng. Cùng lúc ấy cô Tư Hồng, một cô gái giang hồ lấy
viên thiếu tá quân trấn người Pháp tại Hà Nội và trở
thành một mệnh phụ phu nhân kiểu mới. Một giai cấp đã rút
lui nhường chỗ cho một giai cấp khác.

Cuộc đô hộ của người Pháp đã kéo dài quá lâu. Con cháu
Nguyễn Khuyến mai một đi và tiêu hóa vào quần chúng. Giai cấp
sĩ tan rã. Trong khi đó đám con cháu của cô tư Hồng đã tiến
lên, đã trở thành giàu có và bề thế, đã đi học, đã đậu
cử nhân, tiến sĩ, luật sư, kỹ sư.v.v. Họ đã trở thành
một giai cấp thượng lưu mới. Nhưng lớp thượng lưu mới này
không phải là một nhân sự chính trị mà chỉ là một công
cụ của guồng máy thuộc địa. Họ chỉ là trung gian tiếp tay
cho sự thống trị của người Pháp. Họ đứng trong hàng ngũ
chống đối với cuộc đấu tranh dành lại chủ quyền dân
tộc. Trong đại bộ phận họ là những người đã từ bỏ
hoặc phản bội dân tộc.

Nói tóm lại chúng ta không còn giai cấp sĩ và không có một
nhân sự chính trị kể từ khi ta mất chủ quyền.

Dĩ nhiên là chúng ta vẫn còn những kẻ sĩ, vẫn còn những con
người bất khuất dám liều chết cho nền độc lập dân tộc.
Nhưng đó chỉ là những cá nhân chứ không phải là một giai
cấp chính trị. Đó là một bất hạnh rất lớn cho chúng ta
bởi vì một quốc gia không thể không có một nhân sự chính
trị.

Một bất hạnh khác cũng to lớn không kém là chúng ta thiếu
hẳn một tư tưởng riêng của dân tộc. Chúng ta không có
những triết gia và những nhà tư tưởng. Trong suốt dòng lịch
sử trừ một vài trường hợp ngoại lệ như Nguyễn Trãi, Lê
Quí Đôn, chúng ta đã không chịu đầu tư vào một việc mà
bất cứ một dân tộc lớn nào cũng phải làm là tạo cho mình
một hệ thống tư tưởng riêng. Về mặt tư tưởng chúng ta
đã chỉ luôn luôn rập khuôn theo Trung Hoa và đi sau Trung Hoa
một bước. Sang đến thế kỷ 20, một danh sĩ uy tín như Huỳnh
Thúc Kháng vẫn còn cho rằng: "Đạo lý là đạo lý Khổng
Mạnh"!

Cuộc đấu tranh chống Pháp giành độc lập của ta đã diễn ra
trong cái bối cảnh tồi tệ ấy. Thoạt đầu là đám sĩ phu
Cần Vương, Văn Thân hoàn toàn lỗi thời, rồi đến lớp thanh
niên vừa tới tuổi trưởng thành như Phạm Hồng Thái, Nguyễn
Thái Học, v.v... Tất cả chỉ nói lên được tinh thần bất
khuất của dân tộc ta chứ không đạt được một tầm vóc quy
mô nào. Tất cả chỉ tố cáo sự yếu nhược của chúng ta:
không có người lãnh đạo mà cũng không có tư tưởng chỉ
đạo.

Chính trong hoàn cảnh đó mà chủ nghĩa cộng sản đã được du
nhập vào nước ta. Nó đã gặp một hoàn cảnh vô cùng thuận
lợi. Ít ra nó đem đến một tư tưởng mới. Dù tư tưởngđó
hay hay dở nhưng đã có một tư tưởng chỉ đạo.

Một điều cần phải nhận định ngay là những người lãnh
đạo phong trào cộng sản cũng không phải là một giai cấp
chính trị mới của dân tộc. Họ cũng ở trong một hoàn cảnh,
trên lý thuyết, tương tự như đám quan lại trong chính quyền
thuộc địa Pháp. Họ cũng chỉ là trung gian của phong trào
cộng sản quốc tế như những người kia là trung gian cho chế
độ thuộc địa pháp.

Hồ Chí Minh đã về Việt Nam không phải với tư cách một nhà
cách mạng Việt Nam mà với tư cách một người được sự uỷ
quyền của đệ tam quốc tế.

Chỉ có điều khác biệt là phong trào cộng sản quốc tế lúc
đó đứng về phía các dân tộc bị áp bức và do đó trên
thực tế người cộng sản gần với dân tộc Việt Nam hơn là
những người làm quan cho Pháp. Sự khác biệt này đã khiến
đảng cộng sản ở trong một địa vị hơn hẳn so với những
người chống đối họ trong các chính quyền quốc gia sau này.

Mặt khác, vì là thành phần của phong trào cộng sản quốc tế
nên không những họ được sự hỗ trợ của cả một liên minh
quốc tế mà còn thừa hưởng được những kinh nghiệm đấu
tranh rất quí báu. Do đó đảng cộng sản Việt Nam so với các
đảng cách mạng thuộc phe quốc gia đã tranh đấu có kỹ
thuật hơn, có phương pháp hơn, có đường lối hơn, nói chung
là có hiệu năng cao hơn.

Một thí dụ là họ đã biết sử dụng tối đa giai đoạn dễ
dãi khi Mặt Trận Nhân Dân [Front Populaire] lên cầm quyền tại
Pháp để phối hợp hoạt động tuyên truyền quần chúng công
khai với hoạt động xây dựng tổ chức bí mật và đã bành
trướng được ảnh hưởng một cách mạnh mẽ. Trong khi đó phe
quốc gia từ sau thất bại 1929 đã hoàn toàn rút vào vòng bí
mật và chỉ còn vài hoạt động khủng bố lẻ tẻ. Các lãnh
tụ phần lớn đã trốn ra nước ngoài, số còn lại thì chỉ
lo làm sao thoát được màng lưới mật thám của Pháp. Khi
chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu cán cân lực lượng
đã lệch hẳn về phía người cộng sản.

Một biến cố khác đã có tác dụng làm cho sự thắng thế
của đảng cộng sản tở thành tuyệt đối là nạn đói năm
1945. Đảng cộng sản đã lợi dụng được thảm kịch này
bởi vì quần chúng sau khi hơn một triệu người chết đói vào
tháng ba năm Ất Dậu đã trở thành vô cùng nhạy cảm trước
những tiếng gọi vô sản chuyên chính, đấu tranh giai cấp, xóa
bỏ giàu nghèo, v.v.

Nói tóm lại, vừa có hỗ trợ quốc tế vừa có đường lối
rõ rệt, vừa làm việc có phương pháp có kỹ thuật, lại gặp
thời cơ thuận lợi nên đảng cộng sản đã nắm được thời
cơ năm 1945 sau khi Nhật đầu hàng. Năm 1946, khi các lãnh tụ
nòng cốt của phe quốc gia bỏ trốn sang Trung Hoa, lực lượng
của phe quốc gia kể như đã bị xóa bỏ. Những phần tử
quốc gia còn lại trong nước phần thì ngã theo đảng cộng
sản, phần thì bị thủ tiêu, phần thì bỏ cuộc, hòa nhập
vào dân chúng. Phe quốc gia không còn nữa.

Người ta đã nói nhiều về Chính Phủ Liên Hiệp Quốc-Cộng
năm 1946.

Nhiều người đã kết luận rằng bài học đó cho ta thấy hễ
liên hiệp với cộng sản là chết. Sự thực phức tạp hơn
nhiều. Khi một người bị cảm sốt thì không phải lỗi tại
cái hàn thử biểu. Tại khắp vùng Đông Nam Á, trong các cuộc
cạnh tranh và đụng chạm giữa phe quốc gia và phe cộng sản,
có những lúc họ hợp tác với nhau và cũng có những lúc họ
chống đối nhau, nhưng ở đâu phe cộng sản cũng thất bại,
trừ ở Việt Nam. Sự thất bại của phe quốc gia và sự thắng
lợi của phe cộng sản ở Việt Nam là một ngoại lệ chứ
không phải là một thông lệ. Sự kiện đó là do ở hai nguyên
nhân mà ta vừa phân tích. Đó là sự thiếu vắng của một
nhân sự chính trị và sự thiếu vắng của một đồng thuận
quốc gia.

Các đảng quốc gia đã là nạn nhân của hai sự thiếu vắng
đó. Còn đảng cộng sản thì khác. Họ chỉ là một thành
phần của đảng cộng sản quốc tế nên sự thiếu vắng một
nhân sự chính trị thuần túy dân tộc không những không có
hại mà còn có lợi cho họ. Họ đã có chủ nghĩa vô sản
quốc tế nên sự thiếu vắng của một tư tưởng dân tộc
không những không có hại mà còn có lợi cho họ. Trái lại khi
người ta tranh đấu trên lập trường thuần túy dân tộc thì
hai yếu tố đó không có không được. Đó là tất cả vấn
đề.

Một sự lẫn lộn danh từ đã đưa đến sự đồng hóa phe
quốc gia với các chính quyền kế tiếp được Pháp và Mỹ
đỡ đầu sau này. Sự thực thì các lực lượng quốc gia đã
tan rã từ năm 1946 và không có liên hệ gì với các chính phủ
Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, v.v... Khi Bảo Đại được người
Pháp đem về đứng đầu chính quyền do họ thành lập để làm
công cụ chống đối lại mặt trận Việt Minh, một guồng máy
nhà nước được thành lập lấy tên là Quốc Gia Việt Nam.
Chữ "quốc gia" ở đây, dịch từ chữ "état" của tiếng Pháp
hay "state" của tiếng Anh, có nghĩa là một nước không có đầy
đủ chủ quyền, khác với một nước cộng hòa chẳng hạn,
chứ không có nghĩa là "lấy đất nước và dân tộc làm
trọng" đối chọi với chủ nghĩa vô sản quốc tế. Những
người lãnh đạo Quốc Gia Việt Nam của Bảo Đại này hoàn
toàn không liên hệ gì với những lực lượng quốc gia trước
đây. Có một vài nhân vật thuộc các lực lượng cách mạng
của phe quốc gia đã tham gia với chính quyền Bảo Đại, nhưng
đó chỉ là những chọn lựa cá nhân mà thôi. Trong đại bộ
phận guồng máy nhà nước của Quốc Gia Việt Nam là những tri
phủ, tri huyện, đốc phủ sứ, thông phán của guồng máy thực
dân cũ. Họ là những người đã đứng về phía ngoại nhân,
chống đối lại cuộc tranh đấu giành chủ quyền dân tộc,
những người mà ta có thể xem như những đứa cháu nội, cháu
ngoại của cô Tư Hồng.

Sự khác biệt này rất quan trọng nhưng cho tới nay ít người
nhấn mạnh.

Cho nên cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954)
không phải là một cuộc đấu tranh quốc - cộng mà chỉ là
một cuộc tranh chấp giữa người cộng sản Việt Nam và những
người Việt Nam theo Pháp. Trong cả hai hàng ngũ, đều có những
người Việt Nam thực sự yêu nước nhưng nói chung ý nghĩa
của cuộc tranh chấp là như vậy. Và nói chung chính nghĩa
thuộc về phe cộng sản nhiều hơn.

Năm 1954, Ngô Đình Diệm về nước và Quốc Gia Việt Nam trở
thành nước Việt Nam Cộng Hòa. Đó đã có thể là một tập
hợp dân tộc mới mang một ý nghĩa mới. Nhưng sự thực đã
không phải như vậy.

Ngô Đình Diệm cũng không phải là một người của đấu tranh
giành độc lập dân tộc, trái lại không ít thì nhiều ông
cũng đã tiếp tay đàn áp cuộc đấu tranh này. Ông Diệm cũng
không phải là một mẫu người hào kiệt theo truyền thống
Việt Nam. Ông học hành tầm thường và cũng không tỏ ra có
một thành tích cá nhân nào đáng kể. Ông dựa vào bề thế
của thân phụ, đi học trường dành cho con quan rồi ra làm quan
ngay từ tuổi niên thiếu. Vì thế Ngô Đình Diệm không có tư
cách để làm hình tượng của một đất nước Việt Nam vừa
tái sinh. Ông Diệm trên thực tế cũng chỉ là trung gian, mặc
dầu là một trung gian có bề thế hơn và có tư cách hơn những
người trung gian trước ông, để thi hành chính sách của Mỹ
tại Việt Nam. Khi ông Diệm không còn phù hợp với yêu cầu
của người Mỹ, họ đã giết ông.

Ông Diệm chết, một đám tướng tá đã từng là công cụ của
Pháp và giờ đây đang là công cụ của Mỹ lên thay thế để
tiếp tục vai trò trung gian của những kẻ không bao giờ đặt
vấn đề chủ quyền dân tộc.

Với Nguyễn Cao Kỳ, rồi Nguyễn Văn Thiệu miền Nam đã có
thể có một hy vọng khác. Thời gian đã trôi qua và những con
người cũng đã thay đổi. Thiệu cũng như Kỳ xuất phát từ
quần chúng. Họ đã có thể là hạt nhân cho một sự đổi
mới nhất là khi sự hiện diện của một lớp người mới,
xuất phát từ quần chúng, trong guồng máy chính quyền miền Nam
càng ngày càng đông đảo. Nhưng họ quá tầm thường và đã
chọn con đường tiếp tục sự nghiệp của những đứa cháu
nội, cháu ngoại của cô Tư Hồng thay vì tiếp tục sự nghiệp
dựng nước và giữ nước từ ngàn năm trước của ông cha.
Miền Nam đã có một hiến pháp dân chủ xứng đáng được sự
tán đồng của các dân tộc tiến bộ, nhưng Nguyễn Văn Thiệu
bằng trò hề độc diễn năm 1971 đã biến nó thành một mớ
giấy lộn. Thiệu đã làm nản lòng những người có thiện chí
và làm tê liệt mọi sinh lực quốc gia, gây sự khinh bỉ đối
với chế độ trên khắp thế giới và nhất là tại Hoa Kỳ,
quốc gia đỡ đầu cho Việt Nam Cộng Hòa.

Kể từ năm 1968 trở đi bất cứ một chính phủ Hoa Kỳ nào
cũng chỉ có thể có một chính sách duy nhất là tìm cách rút
khỏi Việt Nam bằng cách này hay cách khác. Có thể nếu không
có vụ Watergate và Nixon không bị buộc phải từ chức thì sự
thất bại của miền Nam sẽ khác. Nhưng sự sụp đổ của
Việt Nam Cộng Hòa là điều không tránh khỏi.

Hình ảnh vẫn còn rõ rệt trong đầu óc tôi trong những ngày
cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa là một kỷ lục
ghê gớm: một bé gái 12 tuổi cõng đứa em 3 tuổi trên lưng
chay bộ gần 200 cây số đường rừng từ Pleiku tới Nha Trang
giữa bom đạn và cướp bóc. Em bé đó xứng đáng được dân
tộc này tạc tượng để làm chứng cho can đảm và tình yêu.
Em bé đó giờ đây ra sao? Có thể đã trở thành một người
mẹ. Đứa em trai có thể đang làm nghĩa vụ quân sự tại
Kampuchia. Tôi ao ước họ sẽ có hạnh phúc, nhưng tôi tin rằng
họ đang khổ, và rất khổ.

Ngày 30-4-1975, đoàn quân chiến thắng của cộng sản tiến vào
Sài Gòn trong một niềm hân hoan không tả nổi. Sự vinh quang
của họ chỉ có thể so sánh được với sự hổ nhục của
chúng tôi.

Sự thất bại của Việt Nam Cộng Hòa là một điều nằm trong
cái lô gích của lịch sử. Cái gì xảy ra năm 1975 đã chỉ là
hậu quả tất yếu của những gì đã xảy ra năm 1946, và cái
gì xảy ra năm 1946 đã chỉ là hậu quả của những gì đã
xảy ra trước đó. Tất cả qui vào hai nguyên nhân: đất nước
chúng ta thiếu một nhân sự chính trị và một cơ sở tư
tưởng. Phần còn lại chỉ là chi tiết.

Chính thể Việt Nam Cộng Hòa đã chết. Nhưng khi đất nước
thống nhất người ta đã khám phá ra rằng chế độ Cộng sản
tại miền Bắc còn tồi tàn hơn nhiều. Chế độ Việt Nam
Cộng Hòa đã là một chế độ cực kỳ thối nát và đã xứng
đáng với cái chết ô nhục của nó. Nhưng ít ra nó đã chứng
minh một điều: một chế độ tự do dù tồi tệ tới đâu
vẫn còn hơn một chế độ cộng sản.

Vài năm sau, khi tôi ra khỏi vòng lao lý tôi đã khóc rất lâu
bền nấm mồ đứa con duy nhất của tôi chết trong lúc tôi ở
tù. Con tôi được bốn tháng lúc tôi và vợ tôi bị bắt. Chế
độ biết chúng tôi có một con thơ nhưng vẫn giam giữ cả tôi
lẫn vợ tôi. Đó chỉ là một chi tiết. Và chế độ cộng
sản không quan tâm đến những chi tiết. Bỗng nhiên tôi tự
hỏi tại sao tôi lại khóc lâu như vậy và tôi hiểu rằng tôi
sẽ khóc cho đứa bé này ngay cả nếu nó không phải là con
tôi. Tôi khóc cho một đứa con duy nhất xinh đẹp của một kỹ
sư và một bác sĩ. Một đứa bé mà cuộc đời đã hứa cho
tất cả, nhưng cuối cùng đã chết như một đứa con mồ côi
cả cha lẫn mẹ và đã được chôn cất sơ sài trong cái nghĩa
trang tiều tụy này.

Tôi tự hỏi cái gì đã xảy ra? Tại sao tôi lại phải vào tù,
tại sao vợ tôi lại phải vào tù? Tại sao các bạn bè tôi
lại có người được trả tự do, có người vẫn còn bị giam
giữ và tại sao đất nước này bỗng dưng trở thành tiêu
điều như ngày hôm nay? Tại sao những người cầm quyền lại
dốt nát và đần độn trong khi những người tinh khôn và có
kiến thức lại bị gạt ra ngoài lề xã hội? Cái gì đang
diễn ra trong đầu óc người sĩ quan cộng sản trên chiếc xe
đạp tồi tàn kia? Và tại sao ở nơi đâu trong thành phố này
người ta cũng gặp những khẩu hiệu khổng lồ "Đời Đời
Nhớ Ơn Chủ Tịch Hồ Chí Minh Vĩ Đại"? Tất cả như không có
thực. Tất cả như một câu chuyện bịa đặt. Nhưng tất cả
có thực. Bởi vì thân thể tôi còn mang những thương tích của
tù đày. Và bởi vì có ngôi mộ nhỏ bằng xi măng này trên đó
tôi đang ngồi im lặng với hai dòng nước mắt tuôn tràn.

Tôi bỗng cảm thấy một sự khinh bỉ kim khí thuỷ tinh với
những con người chỉ rút được những bài học tồi tệ từ
cuộc sống của chính mình. Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường
Chinh, Phạm Hùng, v.v. tất cả đều đã vào tù ra khám. Nhưng
những con người tầm thường này đã không học được gì
đáng học. Ở tù, họ đã chỉ học được cách tổ chức nhà
tù. Bị hành hạ, họ đã chỉ học được kỹ thuật để hành
hạ người khác.

Mười ba năm đã trôi qua kể từ ngày đất nước thống nhất
dưới chế độ cộng sản. Đã có nhiều bài báo và tác phẩm
rất giá trị về biến cố này. Nhưng phần đông vì nhìn quá
sát biến cố nên có lẽ đã thiếu sự bao quát và không nói
lên được cái lô gích của một giai đoạn lịch sử với
những bài học cần rút tỉa.

Biến cố 30-4-1975 không phải chỉ có những khía cạnh tiêu
cực.

Đất nước đã thống nhất. Dù sự thống nhất đó đã không
diễn ra trong những điều kiện thoả mãn được mọi người
nhưng Việt Nam cũng đã giải quyết được một vấn đề vẫn
còn nhức nhối đối với Đức và Triều Tiên. Nước Việt Nam
thống nhất là một quốc gia có tầm vóc và có tiềm năng phát
triển quan trọng.

Chiến thắng cộng sản ít ra cũng đã giản dị hóa cục diện
đất nước. Trước đây chúng ta vừa có tập đoàn chóp bu
cộng sản vừa có tập đoàn tham nhũng của miền Nam, ngày nay
chúng ta chỉ còn một đối thủ cần phải loại bỏ. Chúng ta
không còn phải làm những chọn lựa miễn cưỡng, đau lòng.

Nó cũng đã cho chúng ta những bài học có thể rất hữu ích
cho ngày mai.

Trước hết, là một kẻ đã đứng trong hàng ngũ Việt Nam
Cộng Hòa và đã bại trận, tôi không thể nào quên được sự
hân hoan của những kẻ chiến thắng ngày 30-04-1975 và sự hổ
nhục của chính tôi lúc đó. Tôi đã hiểu bằng da bằng thịt
là thà làm người lính trong một đạo quân chiến thắng còn
hơn làm tướng trong một đạo quân chiến bại. Sau này nhìn
cung cách của một số người tranh đấu tôi nghĩ rằng họ
chưa sống hay chưa hiểu ngày 30-4-1975.

Nhưng bài học lịch sử lớn nhất mà ta phải rút ra cho cả
một giai đoạn lịch sử dài và đầy đau khổ này là chúng ta
không thể không có một nhân sự chính trị và một cơ sở tư
tưởng lành mạnh. Chúng ta không làm được gì hết nếu thiếu
hai điều kiện đó. Ngày nay nhân sự chính trị của ta rất ít
ỏi, vậy thì những con người hiếm hoi đó, dù ở cương vị
nào và ở đâu, phải ý thức rằng họ là một sắc tộc
thiểu số cần phải nương tựa nhau để sống. Sống đối
với họ có nghĩa là thực hiện sự nghiệp cứu nước và
đổi dòng lịch sử đang rất bất lợi cho dân tộc. Giữa họ
phải có tinh thần anh em, phải có sự kết nghĩa. Phải không
gặp mà đã là bạn, phải chưa quen mà đã là chí hữu. Một
cơ sở tư tưởng chung chỉ có thể là kết quả của một
cuộc thảo luận bộc trực và rộng khắp, trong đó không thể
có những ý kiến không được nêu ra mà cũng không thể có
những đề tài cấm bàn đến.

Một bài học khác của ngày 30-4-1975 là một thắng lợi hoàn
toàn cũng nguy hiểm và độc hại như một thất bại hoàn toàn.
Nó làm cho kẻ chiến thắng say sưa tới độ mê sảng và mất
trí. Nó che đậy những vấn đề cần phải giải quyết để
rồi khi những vấn đề ấy cuối cùng xuất hiện vì không còn
che dấu được nữa thì đã quá trầm trọng đến nỗi không
còn giải đáp. Những người tranh đấu vì tương lai đất
nước cũng phải chối từ cái mộng thắng lợi hoàn toàn như
quyết tâm không chấp nhận thất bại.

Một bài học đầy ý nghĩa nữa và có lẽ đáng để cho chúng
ta suy nghĩ nhất là thắng lợi chỉ có với những người xứng
đáng với thắng lợi. Người cộng sản đã thắng lợi hoàn
toàn năm 1975 nhưng rồi thắng lợi đã mau chóng vuột khỏi
tầm tay họ. Bởi vì họ không xứng đáng với thắng lợi. Năm
1975, họ được sự ngưỡng mộ của đại đa số nhân dân
Việt Nam và của cả thế giới. Chỉ vài năm sau họ trở thành
đối tượng thù ghét của cả nhân dân Việt Nam và của hầu
hết loài người. Trong số những người chống chính quyền
cộng sản ngày hôm nay, rất nhiều người chỉ mơ ước thắng
lợi mà không hề chuẩn bị để xứng đáng với thắng lợi.
Phải chăng chúng ta vẫn chưa rút được bài học đang diễn ra
ngay trước mắt chúng ta của những đối thủ mà chúng ta muốn
đánh bại?

Biến cố 30-4-1975 và những ngày sau đó cũng đã giúp ta suy
nghĩ và xác định lại lòng tin của ta ở một định luật
chính trị bất di bất dịch và không chấp nhận một ngoại
lệ nào. Đó là một chế độ không có chính nghĩa thì nhất
định phải sụp đổ. Các vận động tâm lý chiến của các
chính quyền quốc gia đã thành công phần nào trong việc làm cho
dân chúng ghê sợ cộng sản nhưng nó đã có tác hại trong tâm
não nhiều người. Nó làm nhiều người lý luận rằng cộng
sản không phải vì có chính nghĩa mà thắng thì cũng không
phải vì không có chính nghĩa mà sẽ thua. Sự thực thì trong
quá khứ đảng cộng sản đã có vai trò lịch sử và do đó
đã có chính nghĩa hơn hẳn những chính quyền đối diện với
họ.

Ngày nay đất nước đang bị đặt trước những vấn đề mới
trong đó đảng cộng sản không những không phải là giải đáp
mà còn là chướng ngại. Đảng cộng sản đang chắn ngang con
đường tiến tới của dân tộc, đang bơi ngược dòng thác
tiến hóa. Cho nên đảng cộng sản sẽ bị bánh xe lịch sử
nghiền nát. Bởi vì bánh xe lịch sử không bao giờ thương hại
những kẻ chắn đường nó.

Chế độ cộng sản sẽ sụp đổ không phải vì nó thiếu
đảng viên, quân đội, công an mà vì nó thiếu người. Nó sẽ
sụp đổ không phải vì nó thiếu vũ khí đạn dược mà vì nó
thiếu những tấm lòng. Nó đã mất vai trò lịch sử. Nó đã
mất hết chính nghĩa. Sự sụp đổ của chế độ cộng sản
Việt Nam là điều không thể tránh được và không thể đảo
ngược được bởi vì chế độ cộng sản đã mang cái thất
bại ở ngay trong lòng.

Đến lượt những người khác, đến lượt một lực lượng
dân tộc mới đứng lên cung hiến cho đất nước những giải
đáp thay thế.

Chúng ta phải vươn lên trên ngày 30-4-1975 và phải đoạn tuyệt
với cái lô gích của nó, phải giã từ cái tâm lý bại trận
cũng như cái tâm lý đắc thắng. Chúng ta phải chấm dứt với
một giai đoạn lịch sử và khởi hành vào một kỷ nguyên
mới.

Làm người Việt Nam trong thế kỷ 20 đã là một điều bất
hạnh thì làm người Việt Nam trong thế kỷ 21 phải là một
sự may mắn, một niềm vui và một nguồn hãnh diện. Thế giới
đã biết đến Việt Nam như là nạn nhân của cảnh huynh đệ
tương tàn, của óc độc đoán và độc quyền lẽ phải thì
thế giới sẽ phải biết đến Việt Nam sau này như là vùng
đất của sự bao dung, như là một mẫu mực thành công của
tình anh em tìm lại, của sự xây dựng lại trên hoang tàn đổ
nát.

Đó có thể là giấc mơ Việt Nam của chúng ta. Đó sẽ là di
sản mà thời đại chúng ta để lại cho con cháu. Đó sẽ là
dấu ấn của chúng ta trong lịch sử dân tộc cho mãi mãi sau
này khi bụi thời gian đã phủ lên những đam mê và dằn vặt
của những kiếp người ngắn ngủi.

Nguyễn Gia Kiểng
Thông Luận số 5, tháng 5-1988
© Thông Luận 2010

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4708), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét