Howard W. French - Ván cờ Nguy hiểm của Trung Quốc

Những nỗ lực ngày càng mãnh liệt của Trung Quốc để vẽ
lại biên giới hàng hải khiến vừa cả láng giềng và lẫn Hoa
Kỳ lo ngại nguy cơ chiến tranh. Nhưng liệu sự gây hấn ấy là
để phản ảnh một chính quyền đang lớn mạnh hay là một
chính quyền đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng chính
danh?

Tại những bến cảng thanh bình dọc bờ biển của Palawan, một
hòn đảo hình thanh kiếm ở bờ tây Philippines, những chuyến
phà đầy ắp hành khách di chuyển ngược xuôi giữa các thị
xã tĩnh lặng, và chủ buôn mang đầy rau quả tươi. Vào những
ngày Chúa Nhật, các thị trấn tràn ngập dân chúng ăn mặc sang
trọng để đi dự lễ nhà thờ. Từ những cầu cảng kế cận,
các ngư phủ ra khơi với những chuyến hải hành nhiều ngày
trên những chiếc bancas của họ. Những con tàu hai thân thô sơ,
buồm thấp mà họ đã quen dùng qua bao thế hệ.

Trong đất liền, những con phố hẹp và đông đúc râm ran với
tiếng <em>pút pút</em> của những chiếc xe lam. Những bảng
hiệu ở các cửa hiệu và nhà hàng dọc khu phố hầu hết là
tiếng Triều Tiên, tiếng Việt, hoặc tiếng Hoa cũng như tiếng
Tagalog của Philippines.

Những vùng biển bao bọc vùng đất này, từ mũi cực nam của
bán đảo Triều Tiên cho đến quần đảo Indonesia, đã đóng vai
trò như là một giao lộ rộng mở cho giao lưu văn hóa, thương
mại, và di cư không ngừng. Trong quá khứ, các sử gia của khu
vực đã từng gọi vùng biển bao gồm Hoa Đông và biển Đông
là Địa Trung Hải của Đông Á. Thế nhưng gần đây nó đã
bắt đầu được so sánh với phần khác của Châu Âu, một
vùng phân mảnh mà nó nổi tiếng vì đã khai mào Đệ Nhất
Thế Chiến: vùng Balkan.

Cách bờ Palawan vào quãng 25 dặm là tiền đồn của một cuộc
tranh giành ngày càng nguy hiểm và khó lường. Nguồn gốc của
nó là ở chỗ những nỗ lực gia tăng của Trung Quốc nhằm vẽ
lại bản đồ hàng hải của vùng này chẳng khác gì Nga đang
vẽ lại bản đồ chính trị ở những nơi như Crimea và
Ukraine--chỉ có điều ở đây mức độ to lớn hơn nhiều, có
nhiều quốc gia can dự, và phức tạp hơn nhiều.

Với động thái trơ trẽn hơn bao giờ hết, Bắc Kinh đã bắt
đầu khẳng định những chủ quyền với hơn 80 phần trăm của
biển Nam Trung Hoa, vùng biển mà họ gọi là "<em>đường chín
đoạn</em>", một kỷ tích thời kỳ dân tộc chủ nghĩa vào
đầu thế kỷ 20, khi mà nó được khởi thủy vẽ ra để phản
ảnh quan điểm của Trung Quốc về cái nhìn phiến diện truyền
thống của họ. Bản đồ này không có sự nhìn nhận của
quốc tế và chẳng ai để ý cho đến khi Trung Quốc vực nó
dậy gần đây. Bây nó có mặt trong tất cả bản đồ của
Trung Quốc. Kể từ năm 2012, nó được in trong những hộ chiếu
mới cấp cho công dân Trung Quốc.

Còn được gọi là đường lưỡi bò, theo cách nó khoanh vùng
biển phía nam của Trung Quốc, đường vạch bao phủ một vùng
gồm khoảng 40 phần trăm giao thương của thế giới và phần
lớn lộ trình của nhập khẩu dầu của Trung Quốc, qua ngõ Eo
biển Malacca, như thể thông qua lỗ kim. Một câu nói từ thế
kỷ 16 rằng là "<em>Ai làm chủ Malacca thì nắm lấy yết hầu
của Venice</em>" vẫn nói lên tầm quan trọng hàng hải của khu
vực này.

Cư dân ở những tiền đồn như Palawan ở rìa phía đông của
<em>"chín đoạn</em>" đã cảm thấy bị bao vây rồi. Ngư dân ra
khơi đi vào vùng biển mà tổ tiên họ bao thế hệ trước tự
do hải hành nay bị đặt vào thế nguy hiểm nơi tranh chấp hỏa
đầu chiến tuyến. "<em>Dân địa phương sợ phải ra khơi về
phía tây vì có nhiều tàu Trung Quốc--tàu quân sự,</em>" chủ
thuyền Edwin Seracarpio ở tuổi 52 cho tôi hay vào một buổi sáng
bên cầu tàu chờ đợi bạn đi biển trở về. "<em>Người Trung
Quốc nói nó luôn thuộc về sở hữu của họ.</em>"

Nếu Trung Quốc có thể áp đặt ý thích của họ ở vùng biển
Đông, ít ra là năm bên đang có tranh chấp--tất cả đều là
những quốc gia Á Châu nhỏ và yếu hơn--sẽ bị giới hạn vào
một vùng biển nhỏ hẹp duyên hải. Trung Quốc sẽ giành
được nhiều an ninh hơn cho những tuyến đường biển của
việc cung cấp dầu và các hàng hóa khác; độc quyền tiếp
cận những ngư trường phong phú và những mỏ dầu tiềm năng
dưới lòng đáy biển; một vùng đệm lớn hơn chống lại cái
mà Trung Quốc gọi là những sự xâm nhập của Hải quân Hoa
Kỳ. Và sau cùng là thanh thế và vị thế mà họ đã mưu cầu
để trở thành bá chủ vùng Thái Bình Dương và tự xác lập
cơ sở của họ để thúc đẩy đòi hỏi hàng thập niên là
Đài Loan thống nhất với Trung Quốc. Có thể nói rằng là họ
sẽ đạt được sự bành trướng lãnh thổ lớn nhất hơn bất
kỳ cường quốc nào kể từ sự sát nhập phần lớn những
dải đất của Châu Á vào nửa đầu thế kỷ 20 của đế
quốc Nhật Bản.

Sự bành trướng của Trung Quốc đã được dự đoán từ lâu.
Nhiều nhà quan sát đã cho rằng một cuộc chiến tranh Lạnh
mới với Trung Quốc đang trỗi dậy tìm cách gạt bỏ ảnh
hưởng quân sự của Hoa Kỳ khỏi tây Thái Bình Dương là không
thể tránh khỏi. Dĩ nhiên bất cứ một cuộc xung đột nào như
thế sẽ nguy hiểm khi nó diễn ra bởi vì Hoa Kỳ chắc chắn
sẽ chống trả tận lực những nỗ lực này. Thế nhưng điều
ngạc nhiên--và đáng lo--là thời biểu cho cuộc xung đột này,
hay ít ra là giai đoạn đầu, đã dường như tăng tốc trong
quãng hai năm vừa qua. Một cách bất thình lình và hùng hổ,
Trung Quốc đã bắt đầu khuếch trương các lợi ích quân sự
trong khắp khu vực làm các nước láng giềng và Hoa Kỳ bị
bất ngờ.

Kể từ giữa năm 2013, Trung Quốc dường như, thoạt tiên, gây
hấn hầu như bừa bãi với tất cả mọi bên ở phía đông
của họ. Vào tháng Bảy, một nhóm chiến hạm Trung Quốc, khởi
hành từ một cảng phía bắc, lần đầu tiên đã làm một vòng
hải trình quanh chu vi Nhật Bản. Bắc Kinh có vẻ như đang gửi
đi hai thông điệp: rằng là họ đã sẵn sàng đương đầu
với đối thủ truyền kiếp và rằng là Trung Quốc sẽ không
bị giới hạn bởi cái mà họ gọi là Chuỗi Đảo thứ Nhất.
Chuỗi dài những quần đảo kéo dài dọc bờ biển của Trung
Quốc cản trở hải quân tiếp cận Thái Bình Dương bao la.

Ngay trước lễ Tạ Ơn năm ngoái, Bắc Kinh đã bất ngờ ra
thông báo về một "<em>vùng nhận dạng phòng không,</em>" tuyên
bố kiểm soát không lưu vùng trời bao phủ hầu hết vùng biển
nằm giữa Trung Quốc và Nhật Bản, bao gồm cả những vùng
được tuyên bố chủ quyền bởi không chỉ Nhật Bản mà còn
bởi Nam Triều Tiên. Vùng mà họ thông thường có mối quan hệ
êm thắm giữa các bên. Ngũ Giác Đài, thường hay cử máy bay
giám sát xuyên vùng này thường xuyên, ngay lập tức tuyên bố
rằng họ sẽ không đếm xỉa đến đòi hỏi của Trung Quốc;
tuy nhiên Hoa Kỳ đã khuyến cáo các hãng hàng không dân dụng
tuân theo những quy định mới của Trung Quốc.

Chỉ ít ngày sau khi vùng nhận dạng phòng không được công
bố, hàng không mẫu hạm duy nhất của Trung Quốc mang tên
<em>Liêu Ninh</em>, một tàu vừa được tân trang từ tàu dùng
rồi mua từ Ukraine năm 1998, lần đầu tiên làm chuyến hải
hành đi theo với một nhóm đủ bộ chiến hạm tác chiến. Đó
gần như là một sự tái hiện ngoại giao pháo hạm kinh điển
của các quốc gia phương Tây cách đây một thế kỷ. Với sự
hộ tống của hai khu trục hạm và hai chiến hạm săn ngầm,
<em>Liêu Ninh</em> rẽ sóng trực chỉ vào vùng biển Đông đang
trong tranh chấp. Vào đầu tháng 12, ngay trước khi nó có thể
đến khu vực tranh chấp gần Philippines và Việt Nam, một trong
những tàu hộ tống chạm trán với một tàu của Hoa Kỳ trong
một cuộc thử thách nguy hiểm, tuần dương hạm <em>Aegis
Cowpens</em>.

Tàu của Hoa Kỳ đang theo dõi việc triển khai của <em>Liêu
Ninh</em> ở vùng biển quốc tế. Khi tàu của Trung Quốc bất
ngờ rẽ lái vào hải trình và ngừng ngay phía trước tàu
<em>Cowpens </em>buộc nó phải chuyển hướng khẩn cấp để
tránh một vụ va chạm. Theo báo chí nhà nước của Trung Quốc,
lý do tàu Trung Quốc không nhường đường là vì <em>Cowpens
</em>đã vi phạm "<em>lớp phòng thủ nội tuyến</em>" của đoàn
tàu Trung Quốc, một vùng ngăn chặn chưa từng được nghe đến
bao giờ che phủ hơn 2800 dặm vuông--tương đương một nửa
diện tích bang Connecticut. Sau vụ rắc rối này, Hải quân Hoa
Kỳ nhấn mạnh một cách khó nhọc rằng việc cơ động tránh
va chạm của Hoa Kỳ không nên được xem là một tiền lệ.
"<em>Quân đội Hoa Kỳ, lực lượng của tôi ở trong vùng trách
nhiệm Thái Bình Dương sẽ hoạt động tự do ở hải phận
quốc tế,</em> " Đô đốc Samuel J. Lockler, chỉ huy Bộ tư lệnh
Thái Bình Dương tuyên bố. "<em>Chốt lại là như vậy. Chúng
tôi sẽ hoạt động ở đó...Và đó là thông điệp cho tất
cả quân đội đang hoạt động trong vùng đó.</em>"

Tháng Giêng năm 2014, một nhóm tàu hải quân Trung Quốc khác đã
tuần tra Bãi cạn James, vùng mà cả Đài Loan lẫn Malaysia tuyên
bố chủ quyền. Trong một buổi lễ được trình chiếu công
khai trên boong tàu, các thủy thủ đã cùng xướng "<em>tuyên
thệ quyết tâm</em>" để bảo vệ những lợi ích hàng hải
của Trung Quốc.

Vào tháng Hai, ba tàu chiến Trung Quốc tuần tra Ấn Độ Dương,
lần đầu tiên đi qua ngõ hẹp Eo biển Sunda giữa quần đảo
Java và Sumatra và sau cùng cơ động không báo trước đến ngay
sát lãnh thổ của Úc ở Đảo Giáng Sinh. Trung Quốc là đối
tác thương mại lớn nhất, không hài lòng với thỏa thuận
của đồng minh truyền thống của Hoa Kỳ đã đồng ý vào năm
2011 cho phép Hoa Kỳ bắt đầu luân chuyển lên đến 2500 thủy
quân lục chiến ở một căn cứ huấn luyện ở bắc Úc. Đó
là một phần xoay trục trong tuyên bố của chính quyền Obama,
một sự dịch chuyển các lực lượng quân đội Hoa Kỳ sang
Thái Bình Dương, và là một sự phản ánh tầm quan trọng ngày
càng tăng của khu vực đối với nền kinh tế thế giới.

Thẩm Đinh Lực, một nhà phân tích an ninh nổi tiếng Trung Quốc
giải thích việc tuần tra này cho một phóng viên của Sydney
Morning Herald: "<em>Hoa Kỳ đã can thiệp việc thống nhất Đài
Loan với đại lục Trung Quốc, và những đồng minh khu vực đã
phục vụ ý đồ can thiệp quân sự của họ. Úc nằm trên bàn
cờ chiến lược cho ý đồ đó...Úc không nên mong đợi có
quyền đi theo Hoa Kỳ để đe dọa Hoa Kỳ mà không tự làm hại
mình.</em>"

Những tháng sau đó đều có nhịp độ tương tự, những khiêu
khích của Trung Quốc chỉ có gia tăng mạnh hơn. Vào đầu tháng
Năm, gần 80 tàu của Trung Quốc, có tin là có cả bảy chiến
hạm, hộ tống một giàn khoan nước sâu trị giá 1 tỷ đô Mỹ
được kéo ra chỉ cách 120 hải lý bờ biển Việt Nam và sẵn
sàng hoạt động. Trung Quốc tuyên bố rằng là giàn khoan
được triển khai trong vùng lãnh hải của họ cho dù là bờ
biển của Việt Nam gần hơn--và cho dù là vị trí này nằm
trong vòng 200 hải lý của Việt Nam, một phạm vi thuộc vùng
đặc quyền kinh tế của các quốc gia có bờ biển. Cuộc
giằng co kéo dài, bao gồm các tàu của Trung Quốc dùng vòi
rồng để đuổi đối phương và húc các tàu từ cả hai phía.
Rút cục, đối diện với lực lượng áp đảo, Việt Nam chỉ
còn cách điên tiết phản đối ngoại giao. (Vào giữa tháng
Bảy, Trung Quốc tuyên bố rằng là giàn khoan đã hoàn thành
nhiệm vụ của nó và sẽ di chuyển đến Đải Hải Nam của
Trung Quốc.)

Qua năm tháng, Trung Quốc đã sử dụng những chiến thuật ít
gây hấn nhưng không kém phần trâng tráo để khẳng định
kiểm soát ở Thái Bình Dương--nổi bật nhất là việc xây
dựng những đảo nhân tạo ở vùng biển đang trong tranh chấp
ở quần đảo Trường Sa. Ở những đảo mới này và các thực
thể địa lý xa xôi khác, Trung Quốc đã xây dựng những căn
cứ và nhà ở cho binh sĩ Trung Quốc. Họ có vẻ hy vọng là sẽ
dùng sự hiện diện của họ trên những hòn đảo để yểm
trợ và khẳng định những tuyên bố chủ quyền ở vùng biển
chung quanh.

Dù muốn hay không những hành động khiêu khích này có vẻ
trông thế nào đi nữa thì cuộc tranh đấu mà Trung Quốc đã
khởi động để làm bá chủ phía tây Thái Bình Dương là
chẳng có ý bạt mạng tý nào. Thay vì thế nó nên được hiểu
một cách hay nhất là một sự phối hợp nhuần nhuyễn từ
hậu trường. Chừng nào Trung Quốc còn làm theo ý mình, những
bước đầu tiên sẽ diễn ra ở biển Đông. Nơi này là nơi mà
Trung Quốc hưởng lợi từ một sự chênh lệch và ngày càng gia
tăng lực lượng so với những quốc gia nhỏ hơn như Việt Nam,
Philippines, Đài Loan, Malaysia, Brunei, Indonesia. Thế nhưng sự tranh
giành này sẽ trở nên kiên quyết hơn bao gồm Nhật Bản và
ngoại vi của họ nếu tính toán sai lầm sẽ không mang lại xung
đột trở thành hiện thực sớm hơn. Trong năm vừa rồi, tôi
đã chu du khắp khu vực, nói chuyện với những nhà ngoại giao
quan trọng và chiến lược gia quân sự của các quốc gia láng
giềng của Trung Quốc--những quốc gia mà bây giờ đang hối
hả để đối phó những vụ xâm nhập của Trung Quốc--để
biết tình hình sẽ ra sao và Hoa Kỳ sẽ can dự ra sao, dù có
chủ ý hay không đi nữa. Những gì sau đây là cái nhìn của
họ về bàn cờ chiến lược và nước đi có thể được chơi
ở Thái Bình Dương--và khi nào mà mọi thứ sẽ đi vào những
nước cờ nguy hiểm.

<strong>Giết Gà Dọa Khỉ</strong>

Đối thủ chính của Trung Quốc ở biển Đông là Việt Nam và
Philippines. Các nhà phân tích ở cả hai quốc gia lo ngại rằng
Bắc Kinh sẽ tìm lấy một trong số họ ra làm gương theo câu
châm ngôn của Trung Quốc là giết gà dọa khỉ. Câu hỏi đặt
ra là nước nào sẽ là gà; nước nào sẽ bị Trung Quốc hiếp
đáp và làm nhục để dạy một bài học cho những láng giềng
khác rằng chống cự là vô ích và sẽ chẳng có yểm trợ kiên
quyết từ Hoa Kỳ.

Hiện nay chỉ có Việt Nam là quốc gia duy nhất trong vùng nỗ
lực đặt ra giới hạn đáng kể lên tham vọng hàng hải của
Trung Quốc nhưng lại không có một thỏa thuận quốc phòng với
Hoa Kỳ. Điều này đưa đến việc họ là một mục tiêu hấp
dẫn. Mặt khác, ngay cả khi họ dường như chỉ nhỉnh hơn một
phần ba mươi của Trung Quốc, Việt Nam có một truyền thống
tranh đấu đám gờm như Hoa Kỳ đã từng nếm trải vào thập
niên 60. Trung Quốc cũng vậy, họ chắc phải quen với thiên
hướng chống ngoại xâm: Việt Nam đã đẩy lui cuộc xâm lăng
của Trung Quốc vào biên giới phía Bắc vào năm 1979 làm Trung
Quốc thiệt hại hơn 20000 binh sĩ. Dẫu vậy sự kiện này đã
bị kiểm duyệt khỏi ý thức của quốc gia từ lâu. Và cũng
như họ đã làm vào lúc bắt đầu cuộc chiến bị lãng quên
đó, truyền thông của Trung Quốc gần đây đã nói đến nhu
cầu cần "<em>dạy cho Việt Nam một bài học</em>" hoặc bắt nó
phải "<em>trả một giá đắt.</em>"

Cho dù hai quốc gia là đồng minh về ý thức hệ, mối quan hệ
của họ qua nhiều thế kỷ trải qua những đợt sóng xâm lăng
và đô hộ làm ảnh hưởng sâu đậm thái độ họ nghĩ về
nhau. "<em>Xâm lược nằm trong máu của họ, và chống ngoại xâm
nằm trong máu của chúng tôi</em>" là cách một nhà phân tích
chính trị Việt Nam đúc kết lịch sử đau thương hai ngàn năm
giữa hai nước trong một bài báo trên <em>The New York Times
</em>vào tháng Năm.

Không một ai trong hàng tá các nhà ngoại giao và quan chức mà
tôi gặp ở Việt Nam có bất cứ ảo tưởng nào về một
chiến thắng trong một cuộc đối đầu trực diện với Trung
Quốc về hải quân hay về mặt khác. Thế nhưng Việt Nam đã
nhiều lần tìm ra những phương cách độc đáo để đương
đầu với kẻ thù được vũ trang tốt hơn và lớn hơn. Lịch
sử của việc vượt qua những thời khắc ngặt nghèo này đã
đem lại cho Hà Nội một thái độ tự tin mà đôi khi phảng
phất vẻ ngạo mạn.

"<em>Chúng tôi là một nước nhỏ nhưng mỗi khi Trung Quốc muốn
dùng vũ lực nhắm vào Việt Nam, chúng tôi đã chặn đứng
họ,</em>" một nhà phân tích quân sự nổi tiếng của Việt Nam
cho tôi hay ở Kuala Lumpur vào đầu năm nay. Chúng tôi gặp gỡ
tại một phòng tiếp tân ở tòa đại sứ của nước ông.
Phòng được trang hoàng với ghế nệm, máy điều hòa không khí
ồn ào, và tranh cổ động phai màu. Cao trên tường, một nơi
trang nghiêm, treo một chân dung của Hồ Chí Minh đang cười.
"<em>Trong cuộc xung đột Malvinas, Argentina bắn chỉ có ba hỏa
tiễn Exocet; một trong số đó đánh chìm một tàu của Anh,</em>"
ông nói. "<em>Nếu người Trung Quốc đến với Liêu Ninh, chúng
tôi sẽ đánh bại họ.</em>"

Hà Nội vừa mới tiếp nhận hai tàu ngầm do Nga chế tạo, lớp
Kilo--bốn chiếc nữa sẽ được giao trong nay mai--và nhà phân
tích quân sự giải thích rõ ràng việc tậu hàng đắt đỏ
đối với một đất nước với thu nhập bình quân đầu
người chỉ khoảng 1900 USD: nước của ông cần có thể đánh
chìm tàu của Trung Quốc nhằm đẩy cái giá phải trả cho sự
gây hấn của Trung Quốc đến mức không chấp nhận được cho
Trung Quốc. "<em>Từng tý một, chúng tôi đang gỡ bỏ dây thòng
lọng</em>" mà Trung Quốc đã tròng vào cổ của nước của ông,
ông nói với tôi.

Việt Nam phải cân nhắc việc họ đáp trả khiêu khích của
Trung Quốc vì hai nước có sự mối quan hệ kinh tế ngày càng
gắn bó. Vào năm 2012, trong một cuộc thời điểm căng thẳng
với Manila, Trung Quốc đã dừng việc nhập khẩu chuối từ
Philippines làm hàng đống hàng bị thối rữa ở cảng. Ngay khi
những căng thẳng dâng cao lúc dàn khoan dầu được kéo vào
vùng biển của Việt Nam, giao dịch thương mại giữa hai nước
giảm đột ngột với truyền thông Trung Quốc cảnh cáo khả
năng về những hậu quả kinh tế lâu dài.

Đối với Việt Nam, sự kiện dàn khoan dầu đã không đạt
đến ngưỡng cửa của chiến tranh. Nhiều quan chức Việt Nam
đã nói với tôi rằng một nỗ lực chiếm lấy những đảo
đang trong tranh chấp của Việt Nam (như họ làm vào năm 1974 và
1988) sẽ dẫn đến chiến tranh. Việc triển khai dàn khoan dầu
đã dấy lên những cuộc biểu tình dữ dội ở Việt Nam nơi
mà những cuộc biểu tình là hiếm có. Vào ngày đầu tiên, 11
tháng Năm, hàng trăm người có mặt một cách ôn hòa ở Hà
Nội, mang theo biểu ngữ với khẩu hiệu "<em>Bảo vệ chủ
quyền đất nước.</em>" Vào những ngày tiếp theo, những đám
đông đổ đến những khu công nghiệp, tấn công doanh nghiệp
Trung Quốc. Các nhà phân tích Việt Nam nói rằng sự kiện bất
ổn, mà nhiều ngưòi biểu tình thiệt mạng, đã cho thấy một
cảnh báo rõ rệt là tính chính danh của chính quyền sẽ sụp
đổ nếu nó không đáp trả bất cứ một cuộc chiếm đảo
mới nào của Trung Quốc.

Nhiều nhà phân tích phương Tây xem cách tiếp cận của Trung
Quốc ở Thái Bình Dương là một kiểu gia tăng có tính toán.
Trong đó một sự hiện diện của Trung Quốc và những quyền
lợi trên thực tế của Trung Quốc trong những vùng tranh chấp
được củng cố từ từ trong một chuỗi những khiêu khích mà
chúng vừa nhỏ để làm cho những sự chống đối khó khăn về
chính trị nhưng về lâu dài thì chúng tạo ra tiền lệ cho
nguyên trạng. Người Trung Quốc tất nhiên là có tên cho phương
pháp này: chiến lược bắp cải. Một vùng bị bao vây từ từ
bởi những "<em>lá cải</em>" riêng rẽ--một chiếc tàu đánh cá
chỗ này, một chiếc tàu hải giám chỗ kia--cho đến khi nó bị
bao phủ bởi nhiều lớp như một cây bắp cải.("<em>Salami
slicing</em>"--cắt lát salami--là tên gọi khác cho chiến lược
này.)

Dĩ nhiên là Trung Quốc sẽ thỏa mãn nếu Việt Nam đơn giản
chấp nhận những mở rộng từ từ về đòi hỏi lãnh hải và
lãnh thổ của họ. Thế nhưng nhịp độ và cường độ của
những hành động của Trung Quốc gần đây cho thấy là Bắc
Kinh có thể sẵn sàng chiến đấu với Hà Nội đặc biệt là
nếu Việt Nam bị nhận thấy là nước sẽ bị đánh trước
tiên. Điều này rút cục cho thấy là việc Trung Quốc triển
khai dàn khoan dầu, hậu thuẫn bởi một đội tàu nên được
hiểu ra sao: nó sẽ hỗ trợ cho việc hợp pháp hóa những tuyên
bố chủ quyền của Trung Quốc nếu Việt Nam chẳng làm gì, và
nó sẽ cho một cơ hội đập ruồi với một trận chiến giới
hạn--và có lẽ sẽ ban hành những cấm vận làm tê liệt kinh
tế--nếu Hà Nội quật lại.

Tất nhiên, đương đầu với lực lượng áp đảo của Bắc
Kinh, một số quan chức Việt Nam gần đây đã cảnh báo rằng
cho dù hành động quân sự từ phía họ là hấp dẫn về cảm
xúc, và có lẽ không tránh khỏi, nó có thể không làm gì hơn
là sụp bẫy của Trung Quốc. Nếu câu hỏi của việc đương
đầu với Trung Quốc trở nên gắn chặt với sự tồn tại
của chế độ thì tất cả những gì đạt được từ chiến
tranh là sự thất bại dư luận, mỉa mai thay, và việc thay
đổi chế độ ở Việt Nam.

Nếu Trung Quốc đang tìm kiếm một đối thủ nhỏ hơn để làm
gương ở biển Đông--để cho thấy là kẻ bắt nạt sẽ chắc
chắn muốn gì được đó, rằng nhân nhượng thì tốt hơn là
chống cự--Philippines là một mục tiêu khả dĩ khác. Cho đến
gần đây, Philippines nổi bật vì sự yếu kém của nó. Lấy ví
dụ phi đội vận tải C-130 đã có thời là lớn của quốc gia
nay chỉ còn hai hay ba chiếc còn hoạt động. Trong vòng 20 năm,
Philippines đã bỏ lơ quân đội của họ mà vốn dĩ nó chẳng
mạnh từ đầu.

Bắc Kinh đã bắt đầu bận rộn thay đổi nguyên trạng ở
vùng biển tranh chấp ở biển Đông. Ở những hòn đảo trong
tranh chấp, họ đang xây dựng các cầu tàu hải quân, đường
băng, và thậm chí trường học cho trẻ em của binh sĩ Trung
Quốc đồn trú. Song song, họ đã dùng các tàu hải giám hay
những tàu cá về hình thức để chiếm lĩnh những bãi cạn hay
bãi ngầm đang trong tranh chấp. Các tàu cá được trang bị GPS
và điện đài,và các thuyền trưởng nhận trợ cấp vì họ
đóng vai trò một hệ thống cảnh báo sớm cho Bắc Kinh về
động thái của những tàu nước khác. Trung Quốc phản ứng
với hầu hết những vụ xâm nhập vào vùng biển tranh chấp
bằng việc sử dụng ngày càng tinh vi và mạnh mẽ lực lượng
cảnh sát biển để tránh vẻ quân sự hóa bề ngoài.
Philippines, cũng như hầu hết các quốc gia trong khu vực, không
thể đọ sức với những tàu như vậy ngoài việc dùng tàu
hải quân, điều mà trông có vẻ như làm xung đột leo thang
đối với thế giới bên ngoài. Để chắc ăn, những tàu hải
quân Trung Quốc thường lãng vãng ở phía sau để khuyếch
trương thanh thế và sẵn sàng trong trường hợp khẩn cấp.

Những nỗ lực đối phó của Manila để khẳng định chủ
quyền của họ ở những đảo nhỏ và bãi cạn ngoài khơi của
họ cũng tài tình không kém thế nhưng rốt cuộc lại phản ánh
sự tuyệt vọng. Nổi tiếng nhất là vụ năm 1999, quốc gia này
ủi bãi một con tàu rỉ sét thừa hưởng từ Hoa Kỳ, còn
được biết đến với tên <em>Sierra Madre</em>, ngay ở Bãi Cỏ
Mây (Second Thomas Shoal--ND) ở Trường Sa, 105 hải lý về phía
Tây của Palawan. Các thủy thủ vẫn trú trên tàu đang tan vỡ
là bằng chứng khẳng định quyết tâm của Manily về chủ
quyền ở bãi cạn. Dẫu vậy sự tồn tại của họ ngày càng
phụ thuộc vào trò mèo vờn chuột với Hải quân Trung Quốc vì
nó tìm cách cắt đứt tiếp tế của các thủy thủ này.

Vào tháng Giêng, Gilberto G.B. Asuque, lúc đó là trợ lý thư ký
về các vấn đề hải dương, gặp tôi ở một phòng hội nghị
với đầy bản đồ hàng hải ở bộ ngoại giao của Philippines.
<em>"Người Trung Quốc liên tục bảo chúng tôi kéo bỏ tàu
đi,</em>" ông nói, ngụ ý con tàu Sierra Madre. Khi tôi hỏi ông ta
là liệu nước ông không được trang bị tốt cho một cuộc so
găng có thể, ông ta trả lời, "<em>Chẳng phải điều đó hơi
quá rõ ràng?</em>" Asuque nói thêm rằng vì tình thế mà
Philippines đã phải chọn việc đưa xung đột với Bắc Kinh ra
trước thế giới bất cứ khi nào có thể. Nếu Trung Quốc
chọn dùng vũ lực, ông giải thích, cộng đồng quốc tế sẽ
ủng hộ kẻ yếu thế.

Nước này đã dùng phương pháp tương tự trong việc theo đuổi
một vụ kiện chống lại Trung Quốc theo Công ước LHQ về
Luật Biển. LHQ không có quyền lực buộc Trung Quốc thi hành
bất cứ phán quyết nào. Thế nhưng ở vị trí nước yếu hơn,
Philippines đang dựa vào việc sỉ nhục quốc tế để buộc
Trung Quốc tuân thủ hiệp ước mà họ đã thông qua vào năm
1996. "<em>Chúng tôi được lợi mọi đằng và chẳng có gì để
mất,</em>" Harry Roque, giáo sư luật của Đại Học Philippines
nói với tôi. Ông là ngưòi góp phần thuyết phục chính quyền
theo đuổi vụ kiện chống Trung Quốc.

Tại Vịnh Oyster ở bờ biển trung tây của Palawan, chính quyền
Philippines mới đây đã động thổ xây dựng một căn cứ hải
quân mới với những hy vọng muộn màng nhằm đẩy lui anh chàng
hàng xóm khổng lồ và quả quyết. Chỉ trong năm ngoái đây
thôi, Manila đã nhanh chóng tậu hai tàu khu trục qua sử dụng
từ Ý, hàng loạt máy bay trực thăng tiêm kích và các loại
khác,và một hạm đội tàu tuần duyên. Tổng thống Benigno
Aquino đệ Tam thường xuyên nhắc đến việc mua sắm này là
một nỗ lực nhằm bảo đảm cho nước ông ít ra là có khả
năng ngăn cản tối thiểu. Chẳng có gì nghi ngờ là ông ta
nhắm đến Trung Quốc.

Quan trọng nhất, hồi tháng Tư, Philippines đã ký một thỏa
thuận phòng thủ chung với Hoa Kỳ. Một tháng sau khi thỏa
thuận,trong một bài diễn văn ở West Point, Tổng thống Hoa Kỳ
Obama nhấn mạnh thông điệp của thỏa thuận. "<em>Hãy để tôi
nhắc lại một nguyên tắc mà tôi đưa ra từ đầu nhiệm kỳ
của tôi: Hoa Kỳ sẽ sử dụng quân lực, đơn phương nếu
cần, khi những lợi ích cốt lõi cần đến--khi công dân chúng
ta bị đe dọa, khi đời sống chúng ta bị lâm nguy, khi an ninh
của các đồng minh của chúng ta bị nguy hiểm.</em>"

Sẽ có ý cho rằng thỏa thuận và những lời bình luận của
Obama sẽ làm nản lòng Trung Quốc, và đó là nhận định chung
không thắc mắc ở Hoa Kỳ--thế nhưng ở Thái Bình Dương, giá
trị ngăn chặn của thỏa thuận có vẻ ít chắc chắn hơn.
Tất nhiên, một cựu cố vấn an ninh quốc gia người Philippine
nói với tôi rằng bởi vì chuyện gan dạ--mục tiêu là hất
cẳng Hoa Kỳ vì Trung Quốc coi biển Đông là ao nhà của
họ--có vẻ như là động lực chính đằng sau những động
thái quả quyết mới đây của Trung Quốc. Họ có thể bây giờ
coi Philippines là một mục tiêu hấp dẫn hơn. Bây giờ Manila có
sự hậu thuẫn công khai của Hoa Kỳ, tìm một cách nào đó
để hạ nhục Philippines sẽ cho phép Bắc Kinh chứng tỏ điều
lớn hơn. Suy nghĩ này được tỏ tường sinh động trong những
lời bình luận gần đây của Thiếu Tướng Chu Thành Hổ, giáo
sư của Đại học Quốc phòng Trung Quốc. Nói chuyện với đài
truyền hình ở Hương Cảng vào tháng Sáu, ông ta cảnh báo các
đồng minh của Hoa Kỳ ở Châu Á là Hoa Kỳ đã trở thành một
con hổ giấy. Ông ta liên hệ phản ứng của Washington đến
khủng hoảng Ukraine với "<em>rối loạn cường dương</em>."

Từ quan điểm của Trung Quốc, kịch bản hoàn hảo có thể là
lực lượng vũ trang còn thiếu kinh nghiệm của Philippines liều
lĩnh sử dụng các vũ khí mới có, dẫn tới một cuộc trạm
chán quân sự giới hạn. Điều đó sẽ giúp Trung Quốc phô
trương ưu thế và có thể đưa ra yêu sách chủ quyền mới và
mạnh hơn với các rạn san hô trong vùng--có lẽ trong vùng biển
giàu dầu mỏ. Hoa Kỳ có thể khó mà đáp trả trong trường
hợp nguy cấp như vậy. Đối với một số người giới tinh hoa
ở Trung Quốc, cơ hội lột trần Hoa Kỳ chỉ là một đồng
minh không tin cậy ở Thái Bình Dương thật là cám dỗ.

Nếu những nguy cơ về việc hạ nhục Hoa Kỳ trong việc hậu
thuẫn (hay là thất bại hậu thuẫn) một nước yếu hơn như
Philippines là cao thì nguy cơ đối với Trung Quốc cũng là đáng
kể. Lịch sử hải quân của Trung Quốc kể từ thế kỷ 19 có
đầy những thất bại, thoạt tiên là chống lại những cường
quốc Châu Âu và kế tiếp là chống lại một Nhật Bản đang
lên. Nhật Bản đánh bại anh hàng xóm của họ trong một trận
quyết định vào năm 1895. Bất cứ sự thất bại nào với
Philippines sẽ là một sự bẽ mặt mà nó có thể gây mất ổn
định Đảng Cộng sản một cách tiềm tàng. Và Washington có
thể lật tẩy Bắc Kinh, bảo vệ Philippines, nếu giả sử Trung
Quốc cố đuổi binh lính Philippines ra khỏi tiền đồn rỉ sét
<em>Sierra Madre</em>. Điều này có thể cho thấy Trung Quốc hóa ra
là một con hổ giấy.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141204/howard-w-french-van-co-nguy-hiem-cua-trung-quoc),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét