Trần Văn Tùng - Học để thất nghiệp

<center><img
src="http://www.danluan.org/files/u5219/272013totnghiepthatnghiep-1.jpg"
width="580" height="420" alt="272013totnghiepthatnghiep-1.jpg" /></center>
<center><em>Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.</em></center>

Sự khác biệt căn bản nhất trong cạnh tranh kinh tế trước
đây và thời đại ngày nay ở chỗ con người đang tạo ra lợi
thế cạnh tranh. Nhiều quốc gia không có tài nguyên thiên nhiên
lại có cơ hội tốt cho việc phát triển các ngành công nghiệp
nhờ vào sức mạnh trí tuệ. Thành công tại Đông Á là một
thí dụ được nhắc tới nhiều lần trong các công trình nghiên
cứu của các tổ chức quốc tế. Lester Thurow(2003), một trong
những nhà kinh tế học hàng đầu của Hoa Kỳ cho rằng: Vũ khí
cạnh tranh quyết định trong thế kỷ XXI là giáo dục và kỹ
năng của người lao động.

Tuy nhiên, ở Việt Nam "<b>học để thất nghiệp</b>" là
một hiện tượng đáng quan tâm.

Theo tôi có mấy nguyên nhân.


<b>1. Mất cân đối cơ cấu giáo dục đại học.</b>

Chúng ta có thể thấy cơ cấu giáo dục đại học của Việt
Nam đang mất cân đối nghiêm trọng. Theo số liệu năm 2005 của
Bộ Giáo dục và đào tạo thì ngành kinh tế, luật chiếm tới
43% số sinh viên, trong khi đó khoa học cơ bản và khoa học công
nghệ mỗi ngành chỉ chiếm tỷ lệ 15%. Nông lâm, ngư nghiệp,
một ngành được coi là chủ lực của kinh tế Việt Nam chỉ
chiếm 3,1% số sinh viên. Hiện tượng thừa cử nhân luật, kinh
tế đang là phổ biến. Nếu cứ kéo dài tình trạng này sẽ
không có lợi, bởi vì thiếu lực lượng lao động khoa học
công nghệ sẽ là vật cản lớn cho quá trình tiếp nhận vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài chất lượng cao, không thúc
đẩy hoạt động sáng tạo. Hậu quả, người Việt Nam trở
thành lực lượng lao động làm thuê, bị lệ thuộc lâu dài.

Trong các thập kỷ 1970, 1980 tại sao các quốc gia Đông Á như
Nhật Bản, Hàn Quốc, và một số vùng lãnh thổ khác như Đài
Loan, Hồng Kông lại tập trung nhiều hơn cho giáo dục khoa học
công nghệ? Bởi vì, <i>thứ nhất</i> khoa học công nghệ biến
đổi rất nhanh. <i>Thứ hai</i>, khoa học công nghệ là động
lực cho quá trình đổi mới các công ty, tạo ra các sản phẩm
trí tuệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. <i>Thứ
ba</i>, xuất khẩu công nghệ và chuyển giao công nghệ trong
hoạt động đầu tư ra nước ngoài thu được nguồn lợi lớn.
<b>Khi lực lượng lao động có kỹ năng dồi dào, Nhật Bản,
Hàn Quốc đã mau chóng tiếp thu, cải tiến công nghệ nhập
khẩu từ các nước phương Tây và mau chóng chuyển đổi từ
những ngành gia công như dệt may, giày dép sang các ngành công
nghiệp có giá trị gia tăng cao, leo lên nấc thang mới trong quá
trình toàn cầu hoá, tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn
cầu nhờ việc sản xuất ra các hàng hóa có hàm lượng công
nghệ cao </b>. Công nghiệp điện tử, ô tô, đóng tàu, có đủ
khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Trái với
Nhật Bản, Hàn Quốc thì Malayxia và Thái Lan do trình độ nhân
lực thấp, trong các thập kỷ 1970, 1980 dòng vốn đầu tư
nước ngoài vào các nước này chậm chạp. Do đó các nước
này phải nhập khẩu lao động có kỹ năng, Malayxia là thí dụ
điển hình, hàng năm phải nhập khẩu gần 1 triệu kỹ sư
điện tử, chế tạo máy, năng lượng điện, dệt may… từ
Ấn Độ,Trung Quốc và Philippines để thu hút đầu tư nước
ngoài.

Các nghiên cứu trước đây về kinh tế Đông Á đều cho
rằng, lợi ích thu được từ hệ thống giáo dục là do đầu
tư ngân sách quốc gia ở mức cao. <b>Điều đó không hoàn toàn
đúng, bởi vì theo Báo cáo phát triển con người của Liên Hợp
quốc năm 2001, thì định hướng phát triển giáo dục khoa học
công nghệ mang lại lợi ích không kém so với ngân sách đầu
tư cho giáo dục</b>. Nhiều quốc gia đang xem xét lại chính sách
đầu tư phát triển giáo dục theo cơ cấu ngành nghề và bậc
học.

<b>2. Lực lượng lao động khoa học và công nghệ thiếu
hụt.</b>

Nhiều quốc gia đang đặc biệt chú ý tới công nghệ thông
tin. Ấn Độ là một thí dụ điển hình. Sự cất cánh của
công nghệ Ấn Độ là một hiện tượng thần kỳ và đang đe
doạ tới nhiều quốc gia, kể cả Hoa Kỳ trong lĩnh vực dịch
vụ và công nghệ thông tin. <b>Năm 2000 Ấn Độ mới xuất khẩu
được hơn 4 tỷ USD sản phẩm phần mềm máy tính, thì đến
năm 2010, con số đó là hơn 70 tỷ USD, chiếm tới 33% tổng giá
trị xuất khẩu của quốc gia</b>. Hiện tại đã có hơn 300
công ty xuyên quốc gia trong số 500 công ty lớn nhất trên thế
giới có hợp đồng mua sản phẩm phần mềm của Ấn Độ. Trí
tuệ Ấn Độ đang có giá, làm cho tỷ lệ kỹ sư phần mềm
của Hoa Kỳ thất nghiệp tăng gấp đôi, hiện là 4,6%, kỹ sư
quản trị mạng thất nghiệp lên tới 7,7% vào năm 2011. Số
lượng kỹ sư công nghệ thông tin của Ấn Độ làm việc tại
Bangalore là 150.000 người, nhiều hơn cả thung lũng Silicon của
Hoa Kỳ hiện là 120.000 người vào năm 2011, ít nhất 1/3 sản
lượng của ngành công nghệ thông tin của Hoa Kỳ được thực
hiện tại nước ngoài mà chủ yếu từ Ấn Độ. Ấn Độ đang
tiếp quản nhiều việc làm từ các quốc gia khác, bởi vì
lương kỹ sư công nghệ của Ấn Độ hàng năm là 10.000 USD,
bằng 1/8 mức lương của đồng nghiệp Hoa Kỳ. Chính nguồn
chất xám, chỉ số IQ cao, chi phí thấp, nói tiếng Anh thành
thạo giúp cho Ấn Độ vượt qua Trung Quốc trong việc gây ảnh
hưởng với Hoa Kỳ, ít nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông
tin. Chưa bao giờ Hoa Kỳ chịu áp lực cạnh tranh gay gắt như
bây giờ trước đối thủ nước ngoài. Ấn Độ đang nỗ lực
đảm bảo đáp ứng nhu cầu lao động trí thức trong nước và
cả nước ngoài trong tương lai. Ngoài công nghệ thông tin, lĩnh
vực phân tích tài chính cũng là thế mạnh của các chuyên gia
Ấn Độ. Các công ty chứng khoán phố Wall đã chuyển giao
nhiều hợp đồng phân tích tài chính cho các trung tâm thuộc
miền Nam Ấn Độ. Bởi vì nguồn nhân lực Ấn Độ được
hưởng dịch vụ giáo dục chất lượng cao về toán, khoa học
cơ bản và công nghệ. Những năm gần đây, nhân lực công
nghệ thông tin qua đào tạo của Việt Nam tăng đáng kể. Tuy
nhiên giá trị xuất khẩu phần mềm của Việt Nam chủ yếu
từ FPT chỉ khoảng hơn 80 triệu USD, chủ yếu là gia công cho
Nhật Bản. Không biết bao giờ có sản phẩm"Made in Việt
Nam". Nhân lưc khoa học, công nghệ trong các ngành cơ khí,
luyện kim, vật liệu, hóa dầu, điện tử…đều thiếu hụt.
Dẫn đến công nghiệp phụ trợ không thể phát triển được.
FDI vào Việt Nam phải chịu giá mua công nghệ quá cao từ các
nhà đầu tư, trong số đó hầu hết là công nghệ lạc hậu
trung gian. Mục tiêu đặt ra đến năm 2020 Việt Nam trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng có tới nay hơn
65% giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp là hàng gia công
lắp ráp. Công nghiệp Việt Nam vẫn chỉ là gia công lắp ráp
sử dụng nhiều lao động, sản phẩm chế tạo chiếm tỷ lệ
thấp.

Ở Việt Nam, giáo dục từ xưa đến nay được thừa nhận là
cơ chế để lựa chọn nhân tài. Nhiều năm trôi qua, tình hình
đổi khác, đáng buồn là không ít sinh viên học giỏi thực
sự lại không tìm được việc làm theo đúng chuyên môn đào
tạo. Đó là nguyên nhân thôi thúc dòng người có trình độ
chuyên môn cao ở Việt Nam tiếp tục tới Hoa Kỳ và một số
quốc gia công nghiệp khác. <b>Bởi vì lực lượng lao động có
trình độ chuyên môn cao chỉ có thể phát huy được trong môi
trường công nghệ luôn thay đổi, nói khác đi là tại các
quốc gia thực hiện chính sách mở cửa thị trường</b>. Các
nghiên cứu gần đây của Ngân hàng thế giới cho rằng kinh tế
Đông Á tiếp tục tăng trưởng cao trong các thập kỷ 1970 - 1980
là do đóng góp của công nghệ nhập khẩu. Nguồn nhân lực khoa
học công nghệ làm chủ được công nghệ nhập khẩu.

<b>3. Không nhận thức đúng vai trò và chính sách sử dụng trí
thức bất hợp lý.</b>

Lý thuyết tăng trưởng kinh tế chứng minh rằng khoa học công
nghệ góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội, bảo
đảm an ninh quốc gia, thì đội ngũ trí thức phải được coi
trọng hơn. Lịch sử hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cho
thấy trí thức Việt Nam rất yêu nước. Tuy nhiên chính sách
sử dụng dường như đang đi trái với quy luật phát triển.
Bởi vì ai muốn được bổ nhiệm chức vụ cao trong cơ quan Nhà
nước thì người đó phải là đảng viên, phải qua các lớp
học chính trị tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Chúng ta thiếu cán bộ có năng lực là do không bổ nhiệm
những người ngoài đảng. Chế độ lương bổng, điều kiện
làm việc và phân biệt đối xử đã hạn chế khả năng đóng
góp của đội ngũ trí thức cho sự nghiệp phát triển kinh tế
- xã hội. Tuyển dụng công chức không công khai, nếu công khai
thì lộ đề,chạy tiền. Quê tôi ở Nghệ An đất học,về quê
mấy đứa cháu tốt nghiệp đại học loại khá không xin
được việc. Chúng nó bảo phải đút lót hàng trăm triệu may
ra mới có một chỗ làm việc. Dân nghèo thì lấy tiền đâu, do
đó cơ quan nhà nước lại chỉ là con cháu quan chức hoặc con
cháu người có tiền toàn một lũ dốt nát<b>. Ai hiểu cho nỗi
khổ của các gia đình nông dân vay nợ cho con học đại học,
học xong lại về quê cày ruộng</b>? Tệ hại hơn, những trí
thức có tên tuổi nêu nhiều ý kiến đổi mới theo xu thế
phát triển muốn phá bỏ hệ thống giáo dục nô dịch khác
với nghị quyết của đảng CSVN luôn bị gây khó khăn, bị
buộc tội có âm mưu lật đổ chính quyền.

<b>4. Chương trình đào lạc hậu, không phù hợp với chuẩn
mực quốc tế</b>.

Một câu hỏi được đặt ra là tại sao các loại bằng cấp
của Việt Nam chỉ có giá trị nội địa và không được các
nước khác công nhận? Có thể trả lời ngay đó là do chất
lượng đào tạo thấp và không theo các chuẩn mực quốc tế.

Tôi nhận thấy sinh viên Việt Nam yếu hơn sinh viên các nước
khác không phải hoàn toàn do phương pháp giảng dạy mà là do
giáo trình được dùng để giảng dạy ở bậc đại học và
sau đại học lạc hậu.

Thời kỳ 1960-1970, Khoa Toán - Cơ Đại học Tổng hợp Hà Nội
nơi tôi từng học là khoa đào tạo có chất lượng tốt. Có
thể hồi đó Khoa Toán Đại học Tổng hợp Hà Nội áp dụng
chương trình và giáo trình của Khoa Toán - Cơ Đại học quốc
gia Maxcơva mang tên Lomonoxov. Giáo trình là công cụ rất quan
trọng ở các trường đại học phương Tây để giúp cho sinh
viên tự nghiên cứu. Thời kỳ Việt Nam chưa mở cửa, các sinh
viên khoa kinh tế của các trường đại học Việt Nam muốn
hiểu sâu lý thuyết kinh tế thì không có cách nào khác là
phải đào sâu học thuyết Mác. <b>Học thuyết Mac với giá trị
cốt lõi của nó là thặng dư lao động, đấu tranh giai cấp,
công hữu hóa làm việc theo năng lực hưởng theo nhu cầu không
còn đúng. </b>Paul Samuelson người được giải thưởng Nobel kinh
tế cho rằng Mác sai lầm khi cho rằng công nhân bị các nhà tư
bản bóc lột thậm tệ, <b>không nhận thấy đóng góp của công
nghệ, tri thức</b> <b>quản lý trong giá trị thặng dư lao động
nên Mác đề xướng luận điểm đấu tranh giai cấp, công hữu
hóa (</b>Todd R.Buchholz, New Ideas from dead Economics, 1989<b>)</b>. Tuy
nhiên, cho tới ngày nay nó vẫn còn đất sống, ngăn chặn quá
trình phát triển những quốc gia theo con đường xã hội chủ
nghĩa. Hệ thống trường đảng mở ra khắp các thành phố, các
tỉnh tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền thuế của dân, nhưng
không có đóng góp đáng kể cho phát triển nguồn nhân lực khoa
hoc công nghệ, trong khi nhiều lý thuyết của Adam Smith, Ricardo,
Keynns, Lucas, Romer nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ,
vốn nhân lực đối với tăng trưởng và cạnh tranh kinh tế
lại ít được truyền bá ở Việt Nam.. <b>Phương pháp giáo
dục của Việt Nam vừa giáo điều lại vừa bị đóng khung
trong khuôn khổ ý thức hệ chính trị Mác-Lênin, đã hạn chế
khả năng sáng tạo của sinh viên, không giúp họ nhận biết
được xu thế phát triển của thời đại. Tệ hại hơn chỉ
biết nói theo, làm theo.</b>

Như vậy để đánh giá chất lượng và so sánh quốc tế về
chất lượng giáo dục đại học cần phải có chuẩn mực
quốc tế. Chuẩn mực đó là dựa vào chương trình đào tạo,
giáo trình, phương pháp đào tạo đã được nhiều trường
đại học trên thế giới sử dụng.

Những năm chiến tranh, lúc đó ông Tạ Quang Bửu làm Bộ
trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, giáo dục
đại học Việt Nam được UNESCO đánh giá cao. Sau nhiều năm,
qua bao đời bộ trưởng họ đã đưa ra các quyết định cải
cách giáo dục. Có người triển khai việc thay đổi chữ viết,
có người sao chép mô hình đại học hai giai đoạn, có người
hô hào xã hội hoá giáo dục cho mở trường dân lập, có
người yêu cầu tăng đầu tư, có người phát động một số
phong trào, đề ra chiến lược mới trong khi chiến lược cũ
chưa được thực hiện và chưa tổng kết. <b>Bộ giáo dục
đào tạo không có biện pháp điều chỉnh cơ cấu giáo dục
đại học, sinh viên về khoa học công nghệ chiếm tỷ lệ
thấp, nhưng các trường đại học công và tư vẫn đua nhau thu
hút sinh viên các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh… những
ngành dễ học, học những kiến thức chung chung không được
thực hành. Hậu quả là hàng trăm nghìn cử nhân, thạc sỹ ra
trường không có việc làm</b>. So với GS Tạ Quang Bửu thì các
vị bộ trưởng đời sau kém xa ông về tầm nhìn và động cơ
trong sáng khi đưa ra các quyết định phát triển giáo dục. Do
dó, người dân không an tâm khi cho con em đến trường, khi mà
đủ thứ gian dối không được ngăn chặn, khi phải tiếp tục
đón nhận các thông tin cải cách giáo dục nửa vời và nhận
thấy chất luợng giáo dục không tương xứng với mức đầu
tư.




***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140825/tran-van-tung-hoc-de-that-nghiep),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét