Trần Vũ - Thiên hoàng Minh Trị và canh tân Nhật Bản

<center><img src="http://tienve.org/home/images/meiji.jpg" /></center>

Cho đến giữa thế kỷ 19, sức mạnh của quân đội Nhật xây
dựng duy nhất trên kiếm pháp của giai cấp võ sĩ đạo. Tương
tự Đại Nam, tinh thần ái quốc và lòng can đảm làm nên sức
mạnh duy nhất của quân đội này. Tiến trình canh tân Nhật
Bản do vậy khởi điểm từ lưỡi kiếm samourai trên một mặt
bằng nông nghiệp lạc hậu. Dưới triều Minh Trị, tiến trình
này nhanh cấp kỳ.

Các sử gia hầu hết đều chuẩn thuận hai thời điểm: 1868
khởi đầu canh tân và 1894 hoàn tất hiện đại hóa quân đội
Nhật. Vì sao hai niên lịch này? Vì trước 1868, Nhật Bản chưa
sở hữu hạm đội viễn dương và đến 1894 thiên hoàng Minh
Trị đủ sức khai chiến với Mãn Thanh giành lấy Cao Ly, Lữ
Thuận khẩu và bán đảo Liêu Đông. Rồi vài năm sau, tranh
chấp Mãn Châu với Nga hoàng. Cả hai xung đột đều kết thúc
bằng chiến thắng vang dội của Hải quân Hoàng gia Nhật, đánh
chìm Hạm đội Bắc dương của Đinh Nhữ Xương tại Hoàng
hải, và đánh đắm hoàn toàn Hạm đội Bắc hải của đô
đốc Rojetsvensky tại eo biển Đối Mã. Canh tân Nhật Bản là
một thành tựu rực rỡ ― đã thực hiện trong vòng 25 năm.

Vì sao Nhật Bản, một đảo quốc với 42 triệu dân đã dám
tuyên chiến với Đại Thanh quốc, một lục địa với 350
triệu dân ở cuối thế kỷ 19, và dám tuyên chiến với đế
chế Nga, một đế quốc trải dài từ Thái Bình dương qua hết
Bắc Băng dương ở đầu thế kỷ 20 ? Rất khác quân đội
Phổ, một tập thể công dân, quân đội Nhật vẫn là một
tập thể thần dân. Nhưng tập thể quân nhân thần dân này,
một cách trái nghịch đã tập hợp lại trong một quân đội
quốc gia, mà cho đến 1868 chưa hiện hữu. Trước, vương quốc
Nhật Bản mang dáng dấp của một cung đình vua Lê, chúa Trịnh.
Quyền hành trong tay Mạc phủ, với các lãnh chúa địa phương
mà mỗi lãnh chúa thuê mướn các võ sĩ dùng làm quân đội
riêng. Vương quốc Nhật, như thế, bao gộp nhiều quân đội tư
nhân hay hoàng phái, khi kết hợp, khi đánh lẫn nhau, khi liên
kết từng phần để tranh giành quyền bính với Mạc phủ,
hoặc giúp Mạc phủ. Những quân đội này không mang sứ mệnh
quốc gia vì ăn lộc chúa. Sứ mệnh của các võ sĩ samourai là
bảo vệ lãnh chúa của mình. Canh tân trước tiên của Minh Trị
Mutsu-Hito nhằm thống nhất quốc gia, tức thống nhất hành
chánh và quân đội. Sức mạnh chính của Minh Trị là đã biết
cải tổ toàn phần cơ cấu xã hội dựa trên tinh thần Đại
hòa của vương quốc Yamato ― Vương quốc Đại Hòa xưa cũ.
Đại Hòa dân tộc là tinh thần cổ xưa của Nhật Bản.

Kể từ thế kỷ 12, xã tắc Nhật Bản không thay đổi. So với
Đại Nam đứng dừng từ thế kỷ 15, tổ chức triều chính
Nhật Bản bất động lâu hơn nữa. Cho đến khi đề đốc Perry
tái xuất hiện ở vịnh Yédo vào tháng 3-1854, với 250 đại bác
trí trên các thuyền chiến Hoa Kỳ, xã hội nhật Bản vẫn là
một xã hội phong kiến nhiều giai cấp, với các lãnh chúa cát
cứ có quyền đúc tiền riêng và quân đội riêng: Các lãnh
chúa daimio khiêm nhượng có trên 200 võ sĩ, trong lúc các lãnh
chúa ngự trị nhiều địa phương có đến hàng vạn samourai.
Toàn xứ Nhật chia làm 276 lãnh địa do 276 lãnh chúa cai quản,
toàn quyền sinh sát, tức toàn quyền sắp đặt công lý cá
nhân, với nhiều đơn vị tiền khác nhau mà đứng đầu là sứ
quân Chôgoun ― một chúa Trịnh của thiên hoàng. Tổng số
samourai lên đến 500 ngàn. Chỉ có các võ sĩ có quyền mang
kiếm, không phải lao động, không đóng thuế, và không bị áp
dụng hình luật phổ thông, thậm chí có quyền "thế thiên hành
đạo" nếu bị giai cấp thứ dân rônin bất kính. Sứ quân
Tokugawa sở hữu ¼ tổng số đất của đảo Bản châu, đảo
lớn nhất chiếm 60% diện tích nước Nhật, và chiêu tập
dưới trướng 50 ngàn võ sĩ. Thiên hoàng chỉ là một vua Lê
mờ nhạt, với các hoàng thân tạo ra giai cấp quý tộc kugé
chỉ chiếm giữ một số ít đất đai. Trong suốt tám thế kỷ,
Mạc phủ ngăn cấm thiên hoàng tiếp xúc với các lãnh chúa,
ngược lại các lãnh chúa không được quyền lên đế đô Kyoto
gặp thiên hoàng, tất cả phải thông qua sứ quân. Trong suốt
tám thế kỷ, thiên hoàng không biểu trưng quốc gia Nhật Bản
mà duy nhất làm một hình bóng dòng dõi thần linh theo truyền
thuyết.

Ngay sau khi đăng quang vào năm 1868, Minh Trị hiểu ra tức khắc,
không thể hiện đại hóa quân đội mà không cải cách toàn
diện xã hội. Sáng suốt của thiên hoàng Mục Nhân là đã ý
thức trong bất kỳ mọi cải cách sâu rộng, sẽ xảy ra thiệt
hại cho một hay nhiều giai cấp, vì phải tước đặc quyền
của một bộ phận dân chúng để trao cho nhiều bộ phận dân
chúng. Nguy cơ lật đổ là khả dĩ. Nếu trầm trọng sẽ trở
thành nội chiến, hay ít hơn, tạo ra bất mãn ly khai và thụ
động làm suy giảm tiềm lực đất nước. Giải pháp Đại
Hòa, xây dựng trên tinh thần Đại Hòa truyền thống của
vương quốc Yamato từng hiện hữu cho đến thế kỷ 12, sẽ
được Minh Trị áp dụng.

Công thức canh tân của Mitsu-Hito có thể tóm lược vào một
nguyên tắc: San hòa đồng đều quyền lợi và hy sinh.

Với Đại Hiến chương ban hành ngày 6 tháng 4-1868, còn gọi
<em>Khế ước 5 điểm</em>, Minh Trị hiệu triệu quốc dân và
cam kết: 1/ Xóa bỏ thể chế phong kiến. 2/ Thâu thập tri thức
của toàn thế giới. 3/ Thực hiện ý nguyện chính đáng của
mọi tầng lớp. 4/ Sự tham gia của quần chúng vào việc nước
làm nền tảng của thể chế mới. 5/ Toàn dân bình đẳng.

Không còn sứ quân chôgoun, lãnh chúa daimio, quý tộc kugé, võ
sĩ samourai hay cùng đinh rônin. Minh Trị trao trả tất cả đất
đai của sứ quân và lãnh chúa cho nông dân, mà cho đến khi đó
cày ruộng thuê cho lãnh chúa, phải giao nộp tất cả thóc lúa
đổi lấy tiền công. Tất cả nông dân, ai đang cày thuê bao
nhiêu sào ruộng thì trở thành chủ điền của các sào ruộng
ấy, thay vì nộp toàn bộ hoa lợi cho lãnh chúa, được giữ
lại và chỉ đóng thuế thu nhập theo gặt hái và thuế thổ
trạch. Với tiền thuế này, Minh Trị bồi hoàn đất đai cho
lãnh chúa, thu hồi cung điện, lâu đài làm dinh thự chính phủ,
trợ cấp hàng tháng đủ bảo đảm phú quý cho lãnh chúa với
điều kiện phải rời khỏi địa phương để lên sống ở
Kyoto. Giải thể các võ sĩ, cho về quê, hưởng phụ cấp để
sinh sống. Biện pháp đối với giai cấp quý tộc hoàng phái
không khác. Trên mặt tài chánh, đồng yen, đơn vị tiền tệ
quốc gia ra đời; trên mặt giáo dục, tiểu học bắt buộc cho
cả hai giới tính, bắt buộc nam giới lên đến trung học; trên
mặt truyền thông, báo chí tư nhân phát hành đầu tiên năm
1871, bốn năm sau trên 100 nhật trình và tập san định kỳ.

Các sử gia đặt câu hỏi vì sao sứ quân và các lãnh chúa đã
đầu hàng nhanh chóng như vậy, sau tám thế kỷ ngự trị? Các
sử gia cùng tìm ra câu trả lời: Sự suy vi của Mạc phủ
Tokugawa, vì không giải quyết được nạn đói 1837 và hoàn toàn
bất lực nhục nhã trước sự khiêu chiến của Âu Mỹ, đã
đưa đến khinh thường rồi bất phục tòng của các lãnh chúa
là một nguyên nhân. Lòng trung quân của một số lãnh chúa phê
phán sứ quân chuyên quyền là một nguyên nhân khác. Nhưng
nguyên nhân chính nằm trong sự phân rã của giai cấp lãnh chúa,
khiến các lãnh chúa khiêm nhượng muốn quay về với thiên
hoàng trước nguy cơ sẽ bị các lãnh chúa mạnh hơn tiêu diệt,
các lãnh chúa cấp trung bình thiếu đoàn kết không cùng phù
trợ một lãnh chúa mạnh nào để tạo ra thế lực đối kháng.
Sau cùng, vì giữa các lãnh chúa mạnh thường trực kình chống
nhau, không ai muốn đối thủ trở thành sứ quân thay thế Mạc
phủ. Trên tổng số 276 lãnh chúa, duy nhất 17 lãnh chúa chống
lại thiên hoàng.

Với giai cấp võ sĩ, mà tiền phụ cấp quá ít, cũng như đặc
quyền mang gươm biến mất, Minh Trị nhanh chóng nhận ra phải
vận dụng, thay vì lãng quên. Các samourai được mời gọi gia
nhập quân đội hoàng gia, cảnh sát, hành chánh, kỹ nghệ mà
với truyền thống võ sĩ đạo tinh tuyền, cùng khả năng
được tôi luyện, giai cấp này nhanh chóng chiếm lĩnh các chức
vụ chỉ huy trong tân quân đội Nhật Bản, và ở các ban ngành
khác, đặc biệt trong kỹ thuật. Một cách gián tiếp, Minh Trị
đã chuyển hóa giai cấp võ sĩ thành một giai cấp kỹ trị.
Các samourai mà truyền thống hiến thân, xả thân, xem trọng danh
dự, khinh thường cái chết, sẽ từ bất mãn vì quyền lợi
thâu hẹp, sang phục vụ và trở thành nhân tố thực hiện canh
tân vì đã tìm lại được vị trí trong xã hội.

Đối với giai cấp thứ dân rônin, quyền sở hữu đất đai
hơn một ân huệ, một thức tỉnh đất đai thuộc về quốc gia
mà quốc gia thuộc về dân, không thuộc một thiểu số nào.
Các nông dân khi tham gia quân đội, ý thức đang tham gia bảo
vệ chính quyền lợi đất đai, quyền thụ hưởng một công lý
minh bạch duy nhất, và vị thế bình đẳng của bản thân, gia
đình mình. Cải cách sâu đậm này của Minh Trị khiến hình
ảnh thiên hoàng trở nên biểu tượng quốc gia vì biểu trưng
cho quyền lợi chung. Vẫn còn là thần dân trong một quân đội
hoàng gia, nhưng việc quân đội này phụng sự thiên hoàng trở
nên tương đồng với việc phụng sự quốc gia. Một bước đi
vĩ đại trong lịch sử Nhật Bản đã thoát ra khỏi thời kỳ
Mạc phủ.

Các tóm lược trên, nằm trong chính sách "San hòa quyền
lợi". Còn sự "San hòa hy sinh" vì canh tân?

Để thủy sư đô đốc Ito Sukeyuki có thể chỉ huy một hạm
đội hiện đại vào năm 1894, tiến vào biển Hoàng hải giao
chiến với hạm đội Mãn Thanh, dân Nhật đã phải hy sinh rất
nhiều. Vào năm 1893, khi Bộ Hải quân quyết định mua thêm hai
tuần dương hạm nặng 12 ngàn tấn của Anh, Bộ Tài chánh đã
từ chối với sự đồng ý của thủ tướng Hirobumi Ito vì lý
do ngân khố sắp cạn. Quốc hội Kokkai, với Hạ viện Shugi-in
và Thượng viện Sangi-in, và kể cả Hội đồng Trưởng lão
Genro chuẩn y.

Thiên hoàng Minh Trị đã can thiệp tức khắc, bằng đạo dụ
ngày 10 tháng 2-1893: <strong>"Nếu chúng ta phạm bất kỳ một sai
lầm nào trong an ninh quốc phòng, sai lầm này sẽ đè nặng lên
dân tộc chúng ta trong suốt một thế kỷ."</strong> [*]

Minh Trị quyết định cắt lương công chức, tỷ lệ thuận
với mức lương và chức vụ. Số lương tiết kiệm dùng thanh
toán phí tổn của hai tuần dương hạm. Vẫn giữ vững tinh
thần Đại Hòa, Minh Trị xuống chiếu cho phép tất cả con em
công chức bị trừ lương được ưu tiên thi vào các trường
trung học, đại học, học viện quân sự, cũng như cao học
hành chánh hay công sở và ưu tiên được chọn ban, ngành, binh
chủng. Ưu tiên, không có nghĩa đương nhiên thâu nhận mà không
qua thi tuyển, ngược lại vẫn phải hội đủ sức khoẻ, khả
năng, trình độ và trí thông minh, tuy nhiên mỗi con em gia đình
đã đóng góp cho hai tuần dương hạm của đất nước sẽ
được tăng thêm điểm, xem như quốc gia cộng cả công lao của
cha mẹ vào điểm học vấn. Việc ưu tiên cứu xét còn cho phép
các gia đình công chức cấp thấp một cơ may thăng tiến xã
hội ở thế hệ thứ nhì. Đây chỉ là một chi tiết, nhìn
rộng ra, tất cả nguồn vốn đầu tư của nước ngoài và cả
vay mượn của chánh phủ đều dùng cho mục đích canh tân mà
không tiêu xài cho mục đích tiện nghi. Nhật Bản không cải
tạo đường sá, ngoài các quốc lộ chính dẫn đến hải
cảng; không xây các đô thị nhà ở cao cấp, dân Nhật vẫn
tiếp tục sống trong những ngôi nhà gỗ, cửa giấy, chật
hẹp. Bốn công trình lớn: mỏ than Chikouho trên đảo Cửu châu,
đường hỏa xa, điện lực, dẫn thủy canh nông - lâm thủy
sản, dù đem đến thêm chút tiện ích và lương thực cho dân
Nhật, vẫn không ra ngoài mục đích xây dựng quân đội mạnh.
Tuyến đường xe hỏa nhằm vận chuyển khí cụ, nguyên vật
liệu, điều phối các đơn vị quân đội; điện lực và than
đá cần thiết để phát triển công nghiệp; khai thác quy mô
canh nông - lâm thủy sản nhằm gia tăng dự trữ lương thảo
của quân đội, tránh nạn đói trong quá khứ giúp tăng dân số
để tăng quân, và sau hết khuếch trương xuất cảng trả vốn
vay ngân hàng.

Năm 1878, chính phủ ra luật trái phiếu, bắt buộc dân Nhật
phải mua công khố phiếu dài hạn với lãi suất thấp nhằm
tài trợ tuyến đường xe hỏa Tokyo-Kobé, là một hình thức
bắt buộc hy sinh ― để xây dựng hạ tầng cơ sở. Tuy khá
gần với khái niệm "dân quyền" và "nghĩa vụ" của Gneisenau,
sự hy sinh của dân chúng Nhật cao hơn mức ghi trong hiến pháp.
Tiêu biểu là để có quyền chọn dân biểu của mình, mỗi cử
tri phải mua lá phiếu với giá 15 yen để bỏ vào thùng phiếu.
Cử tri có nghĩa vụ phải đến phòng phiếu nhưng muốn có dân
quyền phải góp thêm tài chánh.

Sự san hòa hy sinh này vừa mang tính chất lý tưởng, vừa cụ
thể, vừa áp đặt từ quyết tâm của thượng tầng.

Một khía cạnh khác của tinh thần Đại hòa còn nằm trong cách
Minh Trị đã ân xá phó tổng tài hải quân Takeaki Enomoto,
người đã theo sứ quân sau cùng Tokugawa Yoshinobu làm phản. Sau
khi dẹp yên, Minh Trị đã trao cho Enomoto chức phó đô đốc
rồi bộ trưởng quốc phòng Nhật Bản. Vì khả năng tổ chức
của Enomoto, mà cũng vì muốn tránh phân ly, cần hợp sức của
toàn dân.

Đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam, tinh thần Đại Hòa có
thể hiểu giản dị là đi tìm đồng thuận xã hội để đạt
sức mạnh hiệp nhất. Để có sự đồng thuận này, một chính
quyền không nghiễm nhiên vĩnh viễn cai trị đất nước mà
phải do toàn dân bầu phiếu là bắt buộc. <strong>Bài học canh
tân Nhật Bản là bài học phải cải tổ cấu trúc - thể chế
- xã hội để có thể cải cách toàn diện. Canh tân, trước
nhất, là canh tân chính trị.</strong>

----------------------
[*]Meiji Mutsu-Hito, Rescrit du 10 février 1893, dẫn theo sử gia Pierre
Renouvin, trong tập Câu hỏi Viễn Đông,; chương Mâu thuẫn
Hoa-Nhật 1894-1895, trang 142, Nxb Librairie Hachette, 1947

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140710/tran-vu-thien-hoang-minh-tri-va-canh-tan-nhat-ban),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét