Phạm Quang Tuấn - Tác dụng pháp lý của thư Phạm Văn Đồng qua lăng kính ba phán quyết Tòa án Quốc tế

<blockquote>Ba phán quyết của Tòa án Quốc tế mà học giả
Phạm Quang Tuấn trưng ra làm bằng chứng dưới đây có thể xem
là ba thiết chứng chỉ rõ tác dụng phản trắc đắc lực của
Công hàm/Công thư Phạm Văn Đồng nếu Việt Nam đem vấn đề
Hoàng Sa - Trường Sa ra trước Tòa án Quốc tế. Đọc xong không
ai không thảng thốt đến nhói tim. Điều ông Giám đốc Minh
triết Việt Nguyễn Khắc Mai nói cách đây ít lâu bỗng trở
thành một ám ảnh ghê gớm: "Công hàm Phạm Văn Đồng là
một tai họa cho Việt Nam trong vấn đề tranh chấp chủ quyền
biển đảo với Trung Quốc", là "một công thư phản
động", "có tác hại phản quốc" (Xem ở đây). Thử nghĩ,
công thư của một ông Thủ tướng là "phản động",
"phản quốc" thì bản thân ông Thủ tướng và bộ sậu
Chính phủ của ông ta là gì? Càng ngày càng thấy cái gọi
bằng liên minh cộng sản nhân danh chủ nghĩa vô sản quốc tế
trong thế kỷ XX chỉ ẩn giấu phía sau độc nhất mỗi mưu
đồ thôn tính lãnh thổ của nước lớn đối với nước nhỏ.

Alexandre Soljenitsyne đã từng khẳng quyết: "Quốc tế –
L'International – là một sai lầm, vì bản thân chữ "inter"
có nghĩa là giữa và giữa các quốc gia không có một nền văn
hóa chung nào cả" (L'international est une aberration, car "inter"
signifie entre et entre les nations il n'y a aucune culture commune). Ngu
dại thay những ai vì quá nôn nóng tìm đường cứu nước vào
những năm 20-30 thế kỷ trước, đem tấm lòng nhiệt huyết
băng vời sang Tàu sang Nga để chỉ mua lấy một sợi dây thừng
về quấn chân dân tộc.

Nhưng cho đến giờ phút này mà vị nào trong thế hệ cháu con
những con người ngu dại kia còn cuồng tưởng rằng bè lũ Trung
Nam Hải có thể cứu được thân phận "cùng hội cùng
thuyền" về ý thức hệ, hay đúng hơn là quyền lợi ích kỷ
cho phe đảng, thì không chỉ lú lẫn thôi đâu, mà chóng hay
chầy nhất định sẽ phải chịu sự phán xét khắc nghiệt
nhất của lịch sử. Quả như lời chí sĩ Phan Châu Trinh:
"Gớm thay một lũ hồ tinh / Nương hơi dựa bóng tập tành đã
quen".

Nguyễn Huệ Chi</blockquote>

Gần đây một số tác giả, trong đó có cả những luật sư,
đã phân tích giá trị pháp lý của thư (hoặc công hàm hay công
thư [1]) của Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1958) dựa theo các
nguyên tắc pháp lý quốc tế. Dĩ nhiên, biết những nguyên tắc
luật pháp nào phải áp dụng là điều rất quan trọng, nhưng
điều quan trọng chẳng kém là phải biết Tòa diễn giải và
áp dụng những nguyên tắc đó ra sao. Bài này duyệt qua phán
quyết của Tòa án Quốc tế về ba vụ án tranh chấp chủ
quyền: đảo Pedra Branca, Đông Greenland và đền Preah Vihear.

Trong vụ Pedra Branca có một lá thư từ một viên Đổng lý
tương tự như thư Phạm Văn Đồng. Vụ Đông Greenland không có
văn kiện chính thức mà chỉ có một lời nói từ một vị
Ngoại trưởng. Vụ Preah Vihear không có văn kiện hay lời nói
nào từ bỏ chủ quyền của mình hay công nhận chủ quyền của
nước khác. Cả ba việc này đều đóng một phần quan trọng
đưa đến việc Tòa xử mất chủ quyền. Từ đó, ta sẽ có
thể suy ra vài điều về tác dụng của thư Phạm Văn Đồng
nếu chủ quyền Hoàng sa - Trường sa được đem ra kiện trước
tòa. Người nào không có thì giờ đọc hết có thể đi thẳng
đến câu cuối (kết luận 14) bài này.

<strong>Lưu ý:</strong>

Vài lý lẽ trong bài này có thể khiến tác giả bị gọi là
"thân Tàu" hay "Việt gian". Trong bối cảnh Việt Nam có
thể kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế, xin hãy coi bài này
như một cố gắng kiểm điểm áo giáp của mình trước khi ra
trận, xem có lỗ thủng nào không để tìm cách vá lại. Nếu
tìm ra lỗ thủng thì "Việt gian" "thân Tàu" không phải
là người kiểm điểm, mà chính là người gây ra lỗ thủng.

<strong>Phần I. Ý định trong thư Phạm Văn Đồng</strong>

Như ta sẽ thấy trong các phần sau, ý định (intention) diễn tả
trong một lá thư hay văn kiện chiếm một vai trò chính yếu
trong sự phân xử của Tòa án Quốc tế. Vì có nhiều ý kiến
khác nhau về nội dung của thư Phạm Văn Đồng nên cần xem
lại thư này nói gì. Nguyên văn thư Phạm Văn Đồng như sau ([A]
và [B] do tác giả bài này đánh số thêm để tiện việc bàn
luận):

<blockquote>Kính gửi đồng chí Chu Ân Lai,

Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa tại
Bắc Kinh.

Thưa đồng chí Tổng lý

Chúng tôi xin trân trọng thông báo tin để đồng chí Tổng lý
rõ:

[A] Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và
tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ
nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận
của Trung-quốc.

[B] Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng
quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân
Trung-hoa trên mặt biển.

Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng lý lời chào rất trân
trọng.

Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958

PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính phủ
nước Việt-nam dân chủ cộng hoà</blockquote>

Thư này "ghi nhận và tán thành bản tuyên bố" ngày 4/9/1958
của Trung Quốc mà nội dung như sau (theo bản tiếng Anh của Bộ
Ngoại giao Mỹ viện dẫn tạp chí Peking Review [2]):

<blockquote>Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:

(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, gồm Trung Quốc đất liền và các
đảo dọc bờ, Ðài Loan và các đảo lân cận, quần đảo
Penghu và tất cả các đảo khác trên biển cả thuộc Trung
Quốc.

(2) Đường cơ sở của lãnh hải thuộc đất liền Trung Quốc
và các đảo dọc bờ biển là các đường thẳng nối liền
các điểm cơ sở trên bờ và các đảo ngoại biên dọc bờ
biển [offshore outlying islands]; Vùng biển 12 hải lý tính ra từ
các đường cơ sở là lãnh hải của Trung Quốc. Vùng biển bên
trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển
Giongzhou, là nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong
đường cơ sở, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu,
đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo
Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongding, là các đảo thuộc nội hải
Trung Quốc.

(3) Nếu không có sự cho phép của Chính phủ Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa, máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được
đi vào hải phận Trung Quốc và vùng trời trên hải phận này.

(4) Những nguyên tắc trong đoạn (2) và (3) bên trên cũng áp
dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu,
quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], quần đảo
Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Trường Sa], và tất cả các đảo
khác thuộc Trung Quốc.

Ðài Loan và Penghu hiện còn bị chiếm đóng bởi Hoa Kỳ. Ðây
là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ
và chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ðài Loan và
Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các
phần đất này trong tương lai. Đây là vấn đề nội bộ của
Trung Quốc, các nước ngoài không được xen vào.</blockquote>

Thư Phạm Văn Đồng là một lá thư chính thức (công thư hay
công hàm), ký tên và đóng dấu bởi Thủ tướng một quốc gia,
người đứng đầu Chính phủ, nhân danh Chính phủ để nói và
đầy đủ tư cách để đại diện quốc gia của mình.

Bức thư gồm hai câu chính: câu đầu (A) bày tỏ lập trường,
thái độ: tán thành bản tuyên bố của Trung Quốc. Câu sau (B)
nói về hành động cụ thể: chỉ thị cho các cơ quan Nhà
nước phải tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc.

Nhiều tác giả và phát ngôn viên Việt Nam (chẳng hạn [3]) cho
rằng vì thư Phạm Văn Đồng không viết rõ những chữ "Hoàng
sa" và "Trường sa" nên không thể nói là đã chấp nhận
chủ quyền Trung Quốc ở hai quần đảo trên. Họ cho rằng bản
tuyên bố nói về bề rộng 12 hải lý là ý chính, những ý
khác (kể cả hải phận quanh Hoàng sa - Trường sa) chỉ là ý
phụ, thư Phạm Văn Đồng chỉ tán thành ý chính này chứ không
tán thành những ý phụ. Những người sính ngôn ngữ luật gọi
đây là "nguyên tắc bốn góc": chỉ được hiểu từ những
gì được viết ra trong văn bản, không được suy diễn thêm.

Có người còn viện dẫn nguyên tắc "phải giải thích văn
bản theo cách nào ít hại nhất cho tác giả" trong luật quốc
tế. Tuy nhiên, dù giải thích "trong bốn góc" và "ít hại
nhất" thì cũng vẫn phải hợp lý và tuân theo những nguyên
tắc logic phổ quát và các định luật ngôn ngữ căn bản.
Chẳng hạn, trong vụ Pedra Branca ta sẽ thấy Tòa hiểu câu
"[chúng tôi] không đòi hỏi sở hữu [đảo này]" là
"[chúng tôi] không đòi hỏi chủ quyền [đảo này]", dù theo
luật pháp thì không có sở hữu chưa chắc là không có chủ
quyền.

Thử áp dụng nguyên tắc "trong bốn góc", ta đọc thấy
rằng ông Phạm Văn Đồng đã "ghi nhận và tán thành bản
tuyên bố". Lưu ý chữ "bản", nói về cả văn bản, chứ
không phải chỉ nói về một trong những tuyên bố trong văn
bản: mặc nhiên là ông Phạm Văn Đồng đã tán thành toàn bộ
nội dung của bản tuyên bố đó. Nếu chỉ tán thành một phần
và không tán thành phần khác thì không thể nói là tán thành
bản tuyên bố được. Bản tuyên bố nói trong đoạn 4 rằng
lãnh hải Trung Quốc bọc quanh Hoàng Sa và Trường Sa, tức là
ông Phạm Văn Đồng đã tán thành điều đó, không cần phải
nhắc lại trong thư của mình.

Lấy ví dụ, khi tòa án hỏi nhân chứng: "Ông/bà có hứa sẽ
nói sự thật, tất cả sự thật và không gì khác ngoài sự
thật?" (Do you swear to say the truth, the whole truth and nothing but
the truth?), nhân chứng chỉ cần trả lời "I do" là đủ
hiểu họ hứa tất cả những điều được hỏi, chứ không
thể hiểu là họ chỉ hứa phần 1 nhưng không hứa phần 2 hay
3, v.v., và chắc chắn là không thể cãi rằng "tôi chỉ nói
'I do' chứ tôi đâu có hứa gì đâu?". Hoặc trong thủ tục
kết hôn, khi được hỏi "Anh/chị có hứa/thề sẽ..." (theo
sau là nhiều lời hứa) cô dâu chú rể chỉ cần trả lời
"Có" (I do) chứ không cần phải nhắc lại tất cả các lời
hứa người hành lễ vừa đọc.

Có người cho rằng câu B trong thư Phạm Văn Đồng làm hẹp
lại nghĩa của câu A: câu A tán thành chung chung, câu B mới
viết cụ thể là tôn trọng hải phận 12 hải lý. Khi mà nói
về một điều tức là loại ra hay bác bỏ những điều không
nói. Lý luận đó chỉ có thể đúng nếu không có đoạn "tán
thành bản tuyên bố" trong câu A, vì không thể vừa tán thành
một bản văn vừa không tán thành nhiều điều trong bản văn
đó. Hơn nữa, câu B không phải là làm rõ nghĩa câu A như
nhiều người lý luận, mà nói về một hành động cụ thể
(chỉ thị các cơ quan...) phát sinh từ sự tán thành trong câu A.

Có người cho rằng Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa không
cần thiết phải tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường Sa
vì những đảo này đang dưới sự quản lý của Việt Nam cộng
hòa. Lý luận như vậy là lẫn lộn chủ quyền với sự quản
lý. Hiến pháp Việt Nam dân chủ cộng hòa nói rõ rằng nước
Việt Nam là một nước thống nhất không thể phân chia, tức
là Việt Nam dân chủ cộng hòa tự coi là có chủ quyền trên
mọi phần đất Việt Nam từ bắc tới nam, và mọi hải đảo.

Có người [4] viết rằng, dựa theo "nguyên tắc thực lòng"
(principle of good faith) trong luật quốc tế, vì Chính phủ Việt
Nam dân chủ cộng hòa là những người rất yêu nước, đã
từng hy sinh xương máu để bảo vệ chủ quyền đất nước
nên họ không thể thực lòng muốn nhường lãnh thổ cho nước
khác, do đó Tòa án Quốc tế sẽ không nhìn nhận ý định đó
trong thư Phạm Văn Đồng. Diễn giải "thực lòng" theo kiểu
này thì thật kỳ quặc, vì như vậy mỗi nước sẽ có quyền
tha hồ tuyên bố, ký hiệp ước lừa bịp các nước khác, rồi
tuyên bố rằng tôi không "thực lòng" (in good faith) khi viết
hay ký những văn kiện đó và do đó chúng không ràng buộc tôi
được! Diễn giải kiểu đó thì "nguyên tắc thực lòng"
sẽ phải gọi là "nguyên tắc dối trá" (principle of bad
faith)!

Thực ra, sự "thực lòng" trong giao dịch quốc tế phải
hiểu là người viết hay ký thực lòng hiểu ý nghĩa của cái
mình đang viết hay đang ký như thế nào, và sẽ thực lòng thi
hành những gì đã hứa, chứ không có nghĩa là khi mình nói
dối, nói mà "không thực lòng", thì không sợ sẽ bị ràng
buộc. Nguyên tắc này cần thiết để diễn dịch những hiệp
ước, văn kiện trong đó có thể có sự hiểu lầm do khác
biệt văn hóa chẳng hạn, và để đảm bảo là mỗi nước
thực tâm thi hành những điều đã hứa [5].

Nếu ông Phạm Văn Đồng thực lòng chỉ tán thành việc cho bề
rộng lãnh hải Trung Quốc rộng 12 hải lý thì ông vẫn có thể
bỏ đoạn A đi, chỉ viết rằng: "Chính phủ nước Việt-nam
dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định về hải phận 12
hải lý của Trung-quốc và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước
có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý
ấy". Như vậy chẳng đủ biểu lộ sự đoàn kết với nước
anh em hay sao? ("Tôn trọng" chưa chắc đã là "tán thành",
tôn trọng nói về hành xử, tán thành nói về thái độ, tâm
ý.)

Nói tóm lại, khó chối cãi rằng trong thư Phạm Văn Đồng,
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã tán thành hay chấp
nhận Trung Quốc có chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường sa. Ít
nhất, thư này không phản ứng gì về câu "áp dụng cho...
quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], quần đảo Nam Sa [Trường Sa]"
trong bản tuyên bố của Trung Quốc: ta sẽ thấy là điều này
rất quan trọng.

<strong>Phần II. Vụ án Pedra Branca</strong>

<strong>Tóm tắt vụ án</strong>

Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge là những đảo nhỏ nằm
trong eo biển Malacca giữa Singapore và Malaysia. Thế kỷ 19 trở
về trước những đảo này thuộc về vương quốc Johor, nay là
một bang của Malaysia. Năm 1844 Johor cho phép chính quyền thuộc
địa Anh xây và sau đó liên tục cai quản một hải đăng trên
Pedra Branca. Năm 1979 Malaysia (quốc gia kế thừa Johor) công bố
một bản đồ vẽ nhóm đảo này nằm trong lãnh hải của mình.
Singapore (quốc gia kế thừa chính quyền thuộc địa Anh) phản
đối. Hai nước đưa ra Tòa án Quốc tế phân xử năm 2003. Tòa
xử là Pedra Branca thuộc về Singapore, Middle Rocks thuộc về
Malaysia, còn South Ledge là đảo chìm khi nước lên, nên theo
luật biển chủ quyền sẽ tùy thuộc nằm trong lãnh hải của
nước nào (lãnh hải khu này chưa phân định xong) [6, 7].

Một sự kiện nổi bật trong quá trình này xảy ra năm 1953. Năm
đó, chính quyền thuộc địa Anh viết thư cho Johor yêu cầu làm
rõ tình trạng pháp lý của Pedra Branca. Quyền Đổng lý Tiểu
bang (Acting State Secretary) Johor viết thư trả lời. Vì đáp thư
Johor được tòa coi là có ý nghĩa rất quan trọng trong vụ án
này, và có nhiều điểm tương đồng với thư Phạm Văn Đồng,
nên cần biết rõ nội dung của nó. Nguyên văn lá thư như sau
(đoạn 196 trong [6]):

<blockquote><em>"I have the honour to refer to your letter... dated 12th
June 1953, addressed to the British Adviser, Johore, on the question of the
status of Pedra Branca Rock some 40 miles from Singapore and to inform you
that the Johore Government does not claim ownership of Pedra Branca."

dịch:

Tôi xin trân trọng đề cập đến thư của ngài ngày 12 tháng 6
năm 1953, gửi cho Cố vấn Anh, Johore, về tình trạng của Pedra
Branca cách Singapore khoảng 40 dặm và xin thông báo rằng Chính
phủ Johore không đòi quyền sở hữu Pedra
Branca."</em></blockquote>

<strong>Những tiêu chuẩn pháp lý được Tòa áp dụng</strong>

Tòa đã xác định những tiêu chuẩn pháp lý được áp dụng
như sau ("đoạn xxx" chỉ những đoạn có số thứ tự trong
phán quyết của Tòa [6]):

· Muốn kết luận là đã có sự thay đổi chủ quyền thì cần
có những bằng cớ rõ rệt, không thể nghi ngờ, căn cứ vào
cách hành xử hai bên và những sự kiện liên hệ (đoạn 122).

(122. Critical for the Court's assessment of the conduct of the Parties is
the central importance in international law and relations of State
sovereignty over territory and of the stability and certainty of that
sovereignty. Because of that, any passing of sovereignty over territory on
the basis of the conduct of the Parties, as set out above, must be manifested
clearly and without any doubt by that conduct and the relevant facts. That is
especially so if what may be involved, in the case of one of the Parties, is
in effect the abandonment of sovereignty over part of its territory.)

· Luật pháp quốc tế không nhấn mạnh vào hình thức (chẳng
hạn, một hiệp ước chuyển nhượng chủ quyền), thậm chí
không cần hai bên nói ra (tacit), mà tập trung vào ý định
(intention) của hai bên. Sự thay đổi chủ quyền có thể suy
diễn từ cách hành xử của hai bên.

(120. Any passing of sovereignty might be by way of agreement between the two
States in question. Such an agreement might take the form of a treaty,[...]
The agreement might instead be tacit and arise from the conduct of the
Parties. International law does not, in this matter, impose any particular
form. Rather it places its emphasis on the parties' intentions (cf. e.g.
Temple of Preah Vihear (Cambodia v. Thailand), Preliminary Objections, I.C.J.
Reports 1961, pp. 17, 31).)

· Nếu một nước không phản ứng khi cần thiết, chẳng hạn
khi nước khác khẳng định chủ quyền trên vùng đất của
mình, thì chủ quyền có thể coi là đã chuyển qua nước kia.
Hành xử này gọi là sự đồng ý hay chấp nhận ngầm
(acquiescence).

(121. Under certain circumstances, sovereignty over territory might pass as a
result of the failure of the State which has sovereignty to respond to
conduct à titre de souverain of the other State or, as Judge Huber put it in
the Island of Palmas case, to concrete manifestations of the display of
territorial sovereignty by the other State (Island of Palmas Case
(Netherlands/United States of America), Award of 4 April 1928, RIAA, Vol. II,
(1949) p. 839). Such manifestations of the display of sovereignty may call
for a response if they are not to be opposable to the State in question. The
absence of reaction may well amount to acquiescence. The concept of
acquiescence "is equivalent to tacit recognition manifested by unilateral
conduct which the other party may interpret as consent..." (Delimitation of
the Maritime Boundary in the Gulf of Maine Area (Canada/United States of
America), Judgment, I.C.J. Reports 1984, p. 305, para. 130). That is to say,
silence may also speak, but only if the conduct of the other State calls for
a response.)

<strong>Tóm tắt lý luận và phán quyết của Tòa</strong>

Để phân xử chủ quyền, Tòa đã xem xét quá trình liên quan
đến chủ quyền trong từng giai đoạn lịch sử:

(i) Thời kỳ 1844 trở về trước: Sau khi xem xét những bằng
chứng lịch sử, Tòa kết luận rằng ở thời điểm 1844, Pedra
Branca và Middle Rocks thuộc về Johor (nay là một tiểu bang của
Malaysia).

(ii) Trong thời gian 1844-1852, Johor đã cho phép Anh xây hải đăng
trên Pedra Branca. Tòa không kết luận gì về sự kiện này, và
cho rằng việc này không có nghĩa là Johor từ bỏ chủ quyền.

(iii) Từ 1852 tới 1952, Johor không có động thái nào khẳng
định chủ quyền trên các đảo liên hệ.

(iv) Năm 1953, để trả lời một lá thư từ Đổng lý Thuộc
địa (Colonial Secretary) Singapore hỏi về chủ quyền Pedra Branca,
quyền Đổng lý Tiểu bang (Acting State Secretary) Johor viết lá
đáp thư như đã nói, khẳng định là Johor "không sở hữu"
Pedra Branca. Tòa viết trong phần Kết luận rằng lá thư này
"có ý nghĩa lớn" ("has major significance" đoạn 275) và
kết luận rằng ở thời điểm 1953 Johor đã hiểu (understood),
tức là đã chấp nhận, rằng họ không còn chủ quyền trên
Pedra Branca (đoạn 223).

(v) Trong khoảng thời gian 1953-1980 Singapore đã nhiều lần khẳng
định chủ quyền trên Pedra Branca nhưng Johor/Malaysia không phản
ứng. Không những thế đã có những tài liệu và bản đồ
Malaysia cho thấy rằng Pedra Branca thuộc Singapore.

Căn cứ vào quá trình trên, Tòa kết luận rằng vị trí hai bên
đã dần dà "tiến hóa hội tụ" (convergent evolution) về một
quan điểm chung: chủ quyền Pedra Branca thuộc Singapore. Tuy nhiên
Middle Rocks được cho là (vẫn) thuộc về Malaysia, vì không có
một quá trình "tiến hóa hội tụ" tương tự.

Có thể tóm tắt phán quyết của Tòa như sau: Johor/Malasia đã
mất chủ quyền Pedra Branca vì cách hành xử của họ trong suốt
nhiều năm cho thấy rằng họ không còn coi đảo này thuộc về
họ.

<strong>Nhận xét về phán quyết Pedra Branca</strong>

· Tuy đòi hỏi bằng chứng rõ rệt, không thể nghi ngờ được
cho việc thay đổi chủ quyền, nhưng Tòa coi rằng hình thức
của bằng chứng (chẳng hạn hiệp ước chính thức) không quan
trọng, mà quan trọng là ý định (intention hay understanding) của
hai bên, thông qua cách hành xử.

· Tòa đã xử cho Singapore được chủ quyền Pedra Branca, mặc
dù ở thời điểm 1844 chủ quyền thuộc Johor (Malaysia) và sau
đó không hề có hiệp ước nào chính thức chuyển nhượng
chủ quyền.

· Tòa không căn cứ vào một văn kiện hay biến cố nào duy
nhất, mà căn cứ vào một quá trình theo đó quan điểm của hai
bên dần dần thay đổi theo cùng một hướng: sự thụ động
của Johor/Malaysia từ 1844 tới 1952, đáp thư Johor 1953, sự thụ
động của Malaysia khi Singapore thi hành chủ quyền trong thời
gian 1953-1980.

· Tuy nhiên, tòa coi đáp thư Johor (1953) là "có ý nghĩa lớn"
(has major significance) bởi vì nó cho thấy rằng ở thời điểm
đó, Johor không còn coi Pedra Branca là của mình nữa.

· Để ý là Tòa viết (đoạn 222) rằng trong thư này chữ
"sở hữu" - ownership – phải hiểu là "chủ quyền" –
sovereignty, mặc dù Malaysia đã yêu cầu Tòa phân biệt hai khái
niệm đó (đoạn 198): ta thấy là nguyên tắc diễn giải "ít
hại nhất" hay "trong bốn góc" không thể đánh bại một
cách hiểu hợp lý.

· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor là một văn
kiện chính thức từ bỏ chủ quyền (đoạn 226), nhưng tòa
không chấp nhận (đoạn 228) vì nó chỉ được viết để trả
lời một câu hỏi, nên không có tác dụng quyết định về
mặt pháp lý (conclusive legal effect) [8].

· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor gây ra estoppel
(đoạn 226), nhưng tòa không chấp nhận (đoạn 228) vì thư đó
không hội đủ các điều kiện cho estoppel, đặc biệt là nó
đã không khiến cho Singapore làm gì thiệt hại cho mình. [9].

· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor là một hành
động đơn phương có tính cách ràng buộc (binding unilateral
undertaking) (đoạn 226), nhưng Tòa không đồng ý (đoạn 229) vì
đáp thư Johor không viết trong bối cảnh Anh tuyên bố chủ
quyền trên Pedra Branca hay đang có tranh chấp, mà chỉ là để
trả lời một câu hỏi [8].

· Tuy ba thỉnh nguyện trên của Singapore bị bác, nhưng điều
đó không thay đổi kết quả tối hậu: Malaysia vẫn thua kiện.

<strong>Phần III. Vụ án Đông Greenland</strong>

<strong>Tóm tắt vụ án</strong>

Đảo Greenland được người Na Uy khám phá và định cư từ
khoảng thế kỷ 10-11. Từ 1380 tới 1814 Na Uy là một phần của
Đan Mạch. Đan Mạch đã kiểm soát Greenland và chủ quyền của
Đan Mạch được một số nước khác ngầm công nhận
(acquiesce). Tuy nhiên, những cơ sở của Đan Mạch đều nằm ở
Tây Greenland và do đó Na Uy khi đã độc lập cho rằng Đan Mạch
không có chủ quyền ở Đông Greenland. Sau nhiều thương nghị
không có kết quả, năm 1931 Đan Mạch đem vụ này ra Tòa Công
lý Quốc tế Thường trực (Permanent Court of International Justice),
tiền thân của Tòa án Quốc tế. Năm 1933 Tòa xử Đan Mạch
được chủ quyền toàn đảo Greenland [10].

<strong>Câu trả lời của Ngoại trưởng Ihlen</strong>

Bài này không đi vào chi tiết vụ án mà chỉ nói về một sự
kiện quan trọng mà Tòa cho là có tính cách quyết định. Ngày
14/7/1919 trong một cuộc gặp mặt giữa Ngoại trưởng Đan Mạch
và Ngoại trưởng Na Uy, Ngoại trưởng Đan Mạch nói rằng Đan
Mạch sắp yêu cầu các nước công nhận chủ quyền Đan Mạch
trên toàn thể Greenland, và hy vọng việc này sẽ không gặp khó
khăn từ phía Na Uy. Ngoại trưởng Na Uy, ông Ihlen, nói rằng sẽ
xem xét vấn đề, và ngày 22/7, trong một cuộc gặp mặt khác,
Ihlen nói rằng Na Uy sẽ không gây khó dễ ("ne fera pas de
difficultés") về vấn đề này. Câu nói này được chính
Ngoại trưởng Ihlen ghi nhận trong một biên bản, mà Tòa dịch
từ tiếng Pháp như sau:

<em>"The Danish Government has for some years past been anxious to obtain
the recognition of all the interested Powers of Denmark's sovereignty over
the whole of Greenland, and it proposes to place this question before the
above-mentioned Committee at the same time. During the negotiations with the
U.S.A. over the cession of the Danish West Indies, the Danish Government
raised this question in so far as concerns recognition by the Government of
the U.S.A., and it succeeded in inducing the latter to agree that,
concurrently with the conclusion of a convention regarding the cession of the
said islands, it would make a declaration to the effect that the Government
of the U.S.A. would not object to the Danish Government extending their
political and economic interests to the whole of Greenland.

The Danish Government is confident (he added) that the Norwegian Government
will not make any difficulties in the settlement of this question.

I replied that the question would be examined.

14/7 - 19 Ih."

"II. To-day I informed the Danish Minister that the Norwegian Government
would not make any difficulties in the settlement of this question.

22/7 - 19 Ih."</em>

Tòa nhận xét về câu trả lời của Ihlen như sau (các đoạn
đánh số là từ phán quyết của Tòa [10] ):

· Câu trả lời của Ihlen không có nghĩa là Ihlen công nhận Đan
Mạch có chủ quyền Đông Greenland (tức là Ihlen có thể hiểu
rằng ở thời điểm đó, Đan Mạch chưa coi là mình có chủ
quyền Đông Greenland nhưng đang dự định mở rộng chủ quyền
sang đó) (đoạn 188).

· Tuy nhiên câu trả lời của Ihlen là một lời hứa <strong>có
tính cách ràng buộc Na Uy</strong>, bởi nó xuất phát từ một
Ngoại trưởng, đứng trên cương vị đại diện nước mình
để trả lời đại diện ngoại giao một nước khác, về một
vấn đề thuộc thẩm quyền của ông ta. Tòa nhấn mạnh là
kết luận này không thể nào chối cãi được (beyond dispute)
(đoạn 192).

· Tòa coi tuyên bố của Ihlen là vô điều kiện và có tính
cách quyết định (definitive) (đoạn 195).

· Do đó, Na Uy không được phản đối hay tranh giành (contest)
chủ quyền của Đan Mạch ở Đông Greenland, và dĩ nhiên không
được chiếm đóng phần đất nào ở Greenland (đoạn 202).

<strong>Nhận xét về phán quyết của Tòa</strong>

· Chỉ một lời nói (có biên bản) của một người có thẩm
quyền đại diện quốc gia cũng có thể ràng buộc quốc gia đó
về vấn đề chủ quyền. Điều này minh chứng rõ nguyên tắc
"Luật pháp quốc tế không nhấn mạnh vào hình thức" mà ta
đã thấy ở Phần II.

· Điều này cũng cho thấy là quan niệm "mọi sự thay đổi
chủ quyền phải do quốc hội phê duyệt" là sai lầm. Quan
niệm này đôi khi thấy trong các bài báo Việt Nam.

· Điều này cũng cho thấy là những bàn cãi trong cộng đồng
và truyền thông tiếng Việt về gọi thư Phạm Văn Đồng là
công hàm hay công thư là hoàn toàn vô bổ. Dù gọi là gì đi
nữa thì nó cũng đã được ký tên và đóng dấu bởi một
Thủ tướng, người đầy đủ thẩm quyền đại diện Chính
phủ, và tuyên bố lập trường của Chính phủ.

<strong>Phần IV. Vụ án đền Preah Vihear</strong>

<strong>Tóm tắt vụ án</strong>

Preah Vihear là một ngôi đền cổ nằm sát biên giới Thái
Lan-Cambodia. Đền này xây trên đỉnh một vách đá, cũng là
đường phân thủy, chạy đại khái theo hướng đông-tây, nhìn
về phía nam (vùng thấp) là Cambodia, nhìn về phía bắc (vùng
cao) là Thái Lan.

Năm 1904, Thái Lan và Pháp (đại diện thuộc địa Cambodia) ký
một hiệp ước về biên giới, theo đó thì sẽ dùng đường
phân thủy làm biên giới ở khu vực này. Hai nước thành lập
một ủy ban liên hợp để xác định biên giới. Áp dụng
nguyên tắc đường phân thủy thì Preah Vihear thuộc Thái Lan. Tuy
nhiên, năm 1907 sở địa đồ Pháp trình ủy ban liên hợp biên
giới một địa đồ theo đó thì đường biên giới vẽ chệch
về phía bắc đường phân thủy, khiến Preah Vihear nằm trong
lãnh thổ Cambodia. Việc đó gây tranh chấp và được đưa ra
phân xử tại Tòa án Quốc tế năm 1962. Tòa xử cho chủ quyền
Preah Vihear thuộc về Cambodia [11].

<strong>Lý lẽ của Thái Lan</strong>

Cambodia chủ yếu dựa vào bản đồ 1907 để chứng tỏ chủ
quyền của mình. Những lý lẽ chính của Thái Lan là:

1. Hai nước đã ký hiệp ước thỏa thuận nguyên tắc dùng
đường phân thủy làm biên giới, theo đó thì Preah Vihear thuộc
Thái Lan. Bản đồ 1907 là do Pháp vẽ và công bố, Thái Lan
không dự phần, và đã vẽ sai vì không theo đúng đường phân
thủy. Không có văn kiện chính thức nào nói rằng bản đồ
này được ủy ban liên hợp 1904 chấp nhận.

2. Thái Lan đã liên tục thi hành chủ quyền ở đền Preah Vihear
bằng cách chiếm đóng, quản lý.

<strong>Phán quyết của Tòa</strong>

Tòa chấp nhận rằng bản đồ 1907 "không có tính cách ràng
buộc" ([11], trang 19). Tuy nhiên, nguyên tắc dùng đường phân
thủy trong hiệp định biên giới 1904 cũng không ràng buộc nếu
cả hai bên thỏa thuận không áp dụng nó trong trường hợp nào
đó ("it was certainly within the power of the Governments to adopt such
departures") ([11], trang 20). Vấn đề là có sự thỏa thuận này
không ở Preah Vihear, và điều này tùy thuộc vào ủy ban liên
hợp 1904.

Tòa nhận xét rằng:

· Bản đồ 1907 đã được trình cho mọi thành viên ủy ban
liên hợp 1904 và công bố rất trọng thể, gửi cho nhiều sứ
quán Thái Lan và nhiều cơ quan quốc tế. Tuy nhiên, không có
lời phản đối nào từ Thái Lan. Tòa cho rằng do đó Thái Lan
đã đồng ý ngầm (acquiesce).

· Thái Lan nói rằng chỉ những viên chức thấp của họ thấy
bản đồ 1907. Tòa cho rằng đó là lỗi của Thái Lan, nước
này phải chịu hậu quả. Hơn nữa, sự sai biệt giữa đường
biên giới và đường phân thủy quá rõ rệt nên không thể
viện cớ lầm lẫn ([11], trang 24).

· Năm 1934-35, Thái Lan tự làm bản đồ lấy và nhận thấy sự
sai biệt, nhưng vẫn không nói gì.

· Năm 1937, Thái Lan vẽ một bản đồ cho thấy Preah Vihear nằm
trong lãnh thổ Cambodia.

· Năm 1947 Thái Lan và Pháp thương nghị ở Washington để hòa
giải về các vấn đề biên giới, nhưng Thái Lan không đưa ra
vấn đề Preah Vihear.

· Chuyến viếng thăm đền của bộ trưởng nội vụ Damrong năm
1930 như là khách của Pháp được coi là đặc biệt quan trọng.
Năm 1930, một công sứ Pháp tại Cambodia lấy tư cách "chủ
nhà" mời Hoàng thân Damrong, Bộ trưởng Nội vụ Thái Lan,
tới thăm Preah Vihear và trương cờ Pháp tại đó. Ông này tới
thăm mà không nói gì để khẳng định chủ quyền của Thái
Lan. Tòa viết như sau: "Khó có thể tưởng tượng một sự
khẳng định chủ quyền rõ ràng hơn thế từ phía Pháp. Việc
đó đòi hỏi một phản ứng. Thái Lan đã không làm gì", và
việc đó cho thấy có vẻ Thái Lan đã "ngầm công nhận"
(tacit recognition) chủ quyền của Cambodia trên Preah Vihear.

(When the Prince arrived at Preah Vihear, he was officially received there by
the French Resident for the adjoining Cambodian province, on behalf of the
Resident Superior, with the French flag flying. The Prince could not possibly
have failed to see the implications of a reception of this character. A
clearer affirmation of title on the French Indo-Chinese side can scarcely be
imagined. It demanded a reaction. Thailand did nothing. Furthermore, when
Prince Damrong on his return to Bangkok sent the French Resident some
photographs of the occasion, he used language which seems to admit that
France, through her Resident, had acted as the host country. The explanations
regarding Prince Damrong's visit given on behalf of Thailand have not been
found convincing by the Court. Looking at the incident as a whole, it appears
to have amounted to a tacit recognition by Siam of the sovereignty of
Cambodia (under French Protectorate) over Preah Vihear, through a failure to
react in any way, on an occasion that called for a reaction in order to
affirm or preserve title in the face of an obvious rival claim.)

· Về việc Thái Lan đã chiếm đóng hay quản lý Preah Vihear,
Tòa cho là những hành động này thường là do chính quyền
địa phương, và không đủ để triệt tiêu (cancel out) lối
hành xử im lặng của chính quyền trung ương.

· Năm 1949, Pháp viết thư cho Thái Lan yêu cầu rút lính gác
Thái khỏi đền, nhưng Thái Lan không trả lời.

· Năm 1954 Cambodia (mới độc lập) gửi một lá thư tương tự,
nhưng Thái Lan không trả lời.

Vì những lý do trên Tòa phán quyết với đa số 9/3 rằng chủ
quyền Preah Vihear thuộc về Cambodia.

<strong>Nhận xét về phán quyết Preah Vihear</strong>

· Thái Lan và Pháp (đại diện Cambodia) đã ký hiệp ước biên
giới ghi rõ là đường biên giới đi theo đường phân thủy,
và theo điều khoản đó thì Preah Vihear phải thuộc về Thái
Lan.

· Thái Lan không hề ký một hiệp ước hay có một tuyên bố
đơn phương nào từ bỏ chủ quyền Preah Vihear.

· Tuy nhiên, dùng nguyên tắc acquiescence (đồng ý ngầm), Tòa
đã cho rằng Thái Lan không có chủ quyền vì đã nhiều lần
không phản ứng trước những hành động hay tài liệu có thể
hiểu là khẳng định chủ quyền của Pháp hay Cambodia.

· Tòa cho rằng hành động chiếm đóng hay quản lý của Thái
Lan không đủ để triệt tiêu thái độ im lặng, ngầm đồng ý
của nước này khi cần phải có phản ứng.

<strong>KẾT LUẬN</strong>

Về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, Tòa Án Quốc Tế dựa
vào nội dung và ý định trong các văn kiện, cũng như vào các
hành động và sự kiện, hơn là vào hình thức văn kiện.

"Ý định" phải hiểu là ý định diễn tả trong văn
kiện, chứ không phải ý định ngầm của kẻ muốn giấu giếm
hay ngần ngại thổ lộ ý định thật như có người đã giải
thích.

Những nguyên tắc "chỉ đọc trong bốn góc của văn
bản", "phải hiểu cách nào ít hại nhất cho người viết"
không thể đánh bại một cách hiểu hợp lý (xem cách Tòa diễn
giải lá thư của Johor trong vụ Pedra Branca).

Chỉ một lời nói (có biên bản) của một đại diện có
thẩm quyền (như ngoại trưởng) cũng có thể ràng buộc một
quốc gia về vấn đề chủ quyền (xem vụ Đông Greenland).

Acquiescence - đồng ý ngầm, không nói gì khi cần thiết
phải nói, tức là khi nước khác khẳng định chủ quyền trên
đất của mình hay đất có tranh chấp bằng văn kiện hay hành
động - cũng có tác dụng như là lời nói hay văn kiện. Điều
này được thấy rõ trong vụ án đền Preah Vihear, khi Thái Lan
thua kiện dù không hề có tuyên bố gì từ bỏ chủ quyền.

Thư Phạm Văn Đồng không phản đối khẳng định chủ
quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa - Trường Sa, nên có thể
bị coi là acquiescence.

Hơn thế nữa, thư Phạm Văn Đồng có thể coi là đã tán
thành rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc.

Thư Phạm Văn Đồng không thể coi là một hiệp ước hay
văn kiện chính thức nhường chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa
cho Trung Quốc. Do đó, dùng những công ước về hiệp ước
quốc tế để tìm hiểu tác dụng thư này chưa chắc sẽ đưa
đến những kết luận chính xác.

Thư Phạm Văn Đồng có lẽ không đủ để gây ra estoppel
khiến Việt Nam không có quyền tuyên bố chủ quyền trên Hoàng
Sa - Trường Sa.

Tuy nhiên, nếu thư Phạm Văn Đồng là một yếu tố khiến
Trung Quốc giúp Việt Nam dân chủ cộng hòa trong chiến tranh
Việt Mỹ, gây tổn thương cho binh lính hay nhân viên Trung Quốc
trong cuộc chiến đó, thì có thể estoppel sẽ được áp dụng
[9]. (Điều tai hại là chính người Việt cũng có khi đưa ra lý
lẽ này để giải thích thư Phạm Văn Đồng!)

Tuy nhiên, tập trung vào khía cạnh estoppel của thư Phạm Văn
Đồng là một việc sai lầm. Nguy hiểm chính của nó không ở
chỗ đó.

Kết hợp thư Phạm Văn Đồng với các hành động và thái
độ khác của Việt Nam dân chủ cộng hòa trong thời gian
1954-75, nhất là sự im lặng trong trận chiến Hoàng Sa 1974, nếu
đem xử về chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa ở Tòa án Quốc
tế sẽ có khả năng không nhỏ là tòa sẽ xử rằng từ 1954
tới 1975 Việt Nam dân chủ cộng hòa đã chấp nhận chủ quyền
Hoàng Sa - Trường Sa thuộc về Trung Quốc.

Ngay cả khi Tòa cho rằng thư Phạm Văn Đồng không có ý
định nói gì về chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường Sa, kết
luận 12 ở trên vẫn chính xác (vì lý do đã nói ở kết luận
5).

Nếu đem xử về chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa ở Tòa án
Quốc tế mà đứng trên quan điểm Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hoàn toàn là kế tục (continuation, successor) của Việt
Nam dân chủ cộng hòa và không kế tục quốc gia nào khác, thì
có khả năng không nhỏ là Việt Nam thua kiện và mất hẳn chủ
quyền Hoàng Sa - Trường Sa.

<strong>CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU</strong>

[1] Ngay sau khi lá thư của Thủ tướng Việt Nam dân chủ cộng
hòa Phạm Văn Đồng được gửi đi, báo Nhân dân gọi nó là
"công hàm". Từ này sau đó được dùng rộng rãi. Gần đây
truyền thông trong nước thường gọi nó là công thư. Các nhà
nghiên cứu và truyền thông ngoại quốc thường chỉ gọi là
"Phạm Văn Đồng letter", cũng đôi khi gọi là diplomatic note.
Trong cộng đồng Việt Nam, cách gọi lá thư gần đây đã gây
nhiều tranh cãi, nhiều người cho rằng không gọi nó là công
hàm tức là cố ý giảm thiểu tầm quan trọng hay chính thức
của nó. Bài này sẽ theo tập tục ngoại quốc và gọi là
"thư Phạm Văn Đồng". Như bài này sẽ cho thấy, dù gọi nó
là gì thì giá trị pháp lý của nó cũng không thay đổi.

[2] www.state.gov/documents/organization/58832.pdf

[3] Nguyen Le Ha, Giá trị pháp lý công hàm Phạm Văn Đồng theo
luật pháp quốc tế và cơ hội ngàn vàng để Việt Nam xác
quyết chủ quyền trên hai nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa,

http://boxitvn.blogspot.fr/2014/07/gia-tri-phap-ly-cong-ham-pham-van-ong.html

[4] Cao Huy Thuần, Công hàm Phạm Văn Đồng - Góp ý về việc
giải thích.
http://www.diendan.org/viet-nam/gop-y-ve-viec-giai-thich-cong-ham-pham-van-dong.

[5] V. Lowe, International Law, OUP, 2007 pp. 116-117

[6] International Court Of Justice (2008) Case Concerning Sovereignty over
Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks and South Ledge
(Malaysia/Singapore), Judgment of 23 May 2008.
http://www.icj-cij.org/docket/files/130/14492.pdf

[7] Y. Tanaka (2008) Passing of Sovereignty: the Malaysia/Singapore
Territorial Dispute before the ICJ.
http://www.haguejusticeportal.net/index.php?id=9665

[8] Việc Tòa không chấp nhận ba thỉnh cầu của Singapore coi
đáp thư là văn kiện chính thức từ bỏ chủ quyền, là ràng
buộc hay gây estoppel có thể hơi khó hiểu nên cần biết chính
xác là câu hỏi trong lá thư của Anh nói gì. Nguyên văn câu
hỏi như sau: "It is [now] desired to clarify the status of Pedra Branca.
I would therefore be most grateful to know whether there is any document
showing a lease or grant of the rock or whether it has been ceded by the
Government of the State of Johore or in any other way disposed of." Câu
hỏi đó không nói rằng Anh có hay đòi chủ quyền Pedra Branca,
mà chỉ hỏi là Johor có còn giữ chủ quyền hay không, và do
đó Tòa đã đi tới những kết luận như trên.

[9] Trong luật quốc tế, estoppel là sự ngăn cấm một nước (A)
không được có những hành động mâu thuẫn gây hại cho nước
(B) khác, cụ thể là không thể làm ngược những gì mình đã
nói. Estoppel đòi hỏi ba yếu tố: thứ nhất, lời tuyên bố
của A phải rõ ràng, không thể hiểu lầm; thứ hai, lời tuyên
bố phải tự nguyện, vô điều kiện, và bởi người có thẩm
quyền; và cuối cùng, B phải làm gì thiệt cho mình hoặc lợi
cho A vì đã thực lòng tin vào lời tuyên bố của A. (First, the
statement creating the estoppel must be clear and unambiguous; second, the
statement must be voluntary, unconditional, and authorized; and finally,
there must be good faith reliance upon the representation of one party by the
other party either to the detriment of the relying party or to the advantage
of the party making the representation.) (M.L. Wagner (1986) Jurisdiction by
Estoppel in the International Court of Justice. California Law Review Volume
74, 1777-1804.)

[10] Permanent Court of International Justice (1933) Legal Status of Eastern
Greenland - Denmark v. Norway, Judgment.
http://www.worldcourts.com/pcij/eng/decisions/1933.04.05_greenland.htm

[11] International Court Of Justice (1962) Case concerning the temple of
Preah Vihear (Cambodia v. Thailand),
http://www.icj-cij.org/docket/files/45/4871.pdf.

[12] Article ler: La frontière entre le Siam et le Cambodge part, sur la
rive gauche du Grand Lac, de l'embouchure de la rivière Stung Roluos, elle
suit le parallèle de ce point dans la direction de l'est jusqu'à la
rencontre de la riière Prék Kompong Tiam, puis, remontant vers le nord,
elle se confond avec le méridien de ce point de rencontre jusqu'à la
chaîne de montagnes Pnom Dang Rek. De là elle suit la ligne de partage des
eaux entre les bassins du Nam Sen et du Mékong, d'une part, et du Nam Moun,
d'autre part, et rejoint la chaîne Pnom Paclang dont elle suit la crête
vers l'est jusqu'au Mékong. En amont de ce point, le Mékong reste la
frontière du royaume de Siam, conformément à l'article ler du traité du 3
octobre 1893. (theo [10], trang 14)

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140726/pham-quang-tuan-tac-dung-phap-ly-cua-thu-pham-van-dong-qua-lang-kinh-ba-phan-quyet),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét