Làm sao tránh được bùng nổ trong mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc

Trong phiên họp thượng đỉnh tại California vào tháng sáu vừa
qua, Tổng Thống Hoa Kỳ Obama và Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình đã cùng tự kết ước sẽ tạo niềm tin giữa hai nuớc.
Từ đó, những diễn đàn thông tin chính thức được mở ra
(thí dụ như gần đây hai vị bộ trưởng quốc phòng của hai
nước thông báo hoạt động của diễn đàn đối thoại về
các vấn đề quân sự) nhằm bổ sung cho các diễn đàn đang có
như Diễn Đàn Đối Thoại Chiến Lược và Kinh Tế (gồm có
các nhà ngoại giao cao cấp và giới chức kinh tế). Nhưng dù
với những nỗ lực này, sự tín nhiệm giữa hai thủ đô - và
giữa hai quốc gia nói chung – vẫn còn quá ít, và khả năng
xung đột giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc do tình cờ hay ngay cả do
chủ tâm dường như đang gia tăng. Trước những phí tổn tiềm
tàng lớn lao của tranh chấp mà cả hai phiá sẽ phải gánh
chịu, cả hai đang hình dung làm sao tránh được vấn đề, đây
là một trong những thách thức quan trọng nhất cho thời gian
sắp đến.

Những yếu tố đang làm suy giảm niềm tin là chuyện dễ xác
định. Bối cảnh an ninh và kinh tế của Đông Á đang thay đổi
toàn diện, mà chủ yếu là bắt nguồn từ sự trổi dậy đáng
kể về kinh tế của Trung Quốc trong những thập niên vừa qua.
Bù lại, phép lạ kinh tế cho phép Trung Quốc tăng khả năng
quân sự và thăng tiến trong vai trò chính trị trong và ngoài khu
vực. Giới lãnh đạo và những nhà chiến lược lừng danh của
Trung Quốc cố nỗ lực để xác quyết rằng sự trổi dậy
của Trung Quốc sẽ là an hoà và không tạo đe doạ cho các lân
quốc hay trật tự kinh tế và chinh trị thế giới đang hiện
hữu. Nhưng một vài thành viên của cộng đồng thế giới vẫn
còn quan ngại và ngay cả nghi ngờ khi họ ghi nhận rằng lịch
sử và lý thuyết trong quan hệ quốc tế đã có nhiều thí dụ
dẫn chứng về tranh chấp bất nguồn từ xung đột giữa các
nước đang trỗi dậy và đang chiếm ưu thế.

Hơn thế, những hành động gần đây của Trung Quốc gây nhiều
nghi ngờ hơn, khi Trung Quốc có những cuộc hải tập đầy
kiên quyết trên biển Đông và Nam Trung Quốc và những hành vi
tuyên bố đơn phương "xác định bảo vệ vùng không phận"
chung quanh Đảo Điếu Ngự (mà người Nhật gọi là Đảo
Senkaku) trong vùng biển Đông Trung Quốc. Những nhà hoạch định
quân sự của Hoa Kỳ lo âu hơn về lộ trình hiện đại hoá
quân sự của Trung Quốc và về sách lược chống thâm nhập và
loại trừ khu vực (anti-access/area-denial, A2/AD), mà họ xem nỗ
lực của Trung Quốc là che đậy quá vụng về vì cốt làm suy
yếu khả năng của Hoa Kỳ trong việc bảo vệ quyền lợi và
hỗ trợ các kết ước với đồng minh trong vùng Tây Thái Bình
Dương.

Cùng thời điểm này, các cộng sự viên của Obama đang tận
lực cổ vũ cho sự chuyển hướng chiến lược, "chuyển
trục" hay "tái quân bình" hướng về châu Á. Chính quyền
Hoa Kỳ xác quyết là động lực này nhằm gia tăng ổn định
khu vực, đem lợi ích cho tất cả, hơn là ngăn chận hay đe
doạ Trung Quốc. Nhưng chỉ có một thiểu số người Trung
Quốc, đặc biệt là các giới chức thuộc lĩnh vực quân sự
và an ninh quốc gia, tin như vậy. Họ cũng đọc lịch sử và lý
thuyết về quan hệ quốc tế và kết luận rằng Hoa Kỳ cũng
giống như những cường quốc khác trước đó, nhất quyết duy
trì bá quyền, loại bỏ sự trổi dậy và làm cho Trung Quốc có
thể bị tổn thương. Để minh chứng hung đồ của Hoa Kỳ, họ
chỉ ra rằng những khả năng của Hoa Kỳ tăng lên, thí dụ như
mở rộng phòng vệ nguyên tử trong khu vực, những thoả ước
mới hay bổ sung việc thiết lập căn cứ tại Úc, Guam hay
Singapore, những thao diễn quân sự gần đây và chuyến bay thám
thính kề cận lãnh thổ Trung Quốc, cũng như lập trường kiên
quyết của những liên minh an ninh trong thời Chiến Tranh Lạnh.
Họ quả quyết khái niệm quân sự của Hoa Kỳ về trận tuyến
phối hợp không và hải quân đang hình thành có một biện minh
khả chấp, đó là muốn cưỡng chế Trung Quốc với đe doạ
sẽ ngăn chận trận tấn công phủ đầu.

Trước cảnh bất trắc xoay quanh tương lai của nền an ninh châu
Á, những hành động của mỗi phe có thể được hiểu và xem
như hợp pháp khi có những biện pháp ngăn chận khả năng thù
nghịch hay xâm lăng trong tương lai của đối phương. Nhưng
điều này chỉ đúng trong một lối suy nghĩ thuần lý ngắn
hạn, có thể làm phát sinh vòng lẩn quẩn trong trường kỳ,
gây sự bất tín trầm trọng và dẫn đến xung đột trong
tương lai do cách tiên tri của mình. Đó chính là lý do tại sao
cần phải chủ yếu tìm cách để vượt qua hay giảm thiểu
tình huống khó xử về mặt an ninh.

Một cách ngăn chận những xung đột không cần thiết là giảm
bớt vai trò hung hãn do những nhận thức sai lạc gây ra. Việc
này có thể biểu hiện từ hai chiều hướng hoàn toàn đối
nghịch: một là khi cảm nhận bị đe doạ mà không ai có chủ
định gây ra và hai là khi không tin ý định của đối phương
chỉ lo bảo vệ quyền lợi. Điều này có nghiã là thách thức
thực tế cho Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh là xua tan những lo sợ
sai lầm, trong khi duy trì ngăn chận bằng cách tạo ra những đe
doạ khả tín mà họ nghiêm túc chủ mưu. Điều qúy là lịch
sử và lý thuyết có đề ra bốn phương tiện hữu dụng trong
chiều hướng này: nguyên tắc kiềm chế, hỗ tương, minh bạch
và lòng kiên quyết.

Kiềm chế là ý muốn từ bỏ mọi hành vi có thể làm tăng
cường an ninh của phe mình nhưng sẽ thể hiện đe doạ cho phe
khác. Hỗ tương là cách đáp ứng đúng theo cách hành động
của đối phương - trong trường hợp này, kiềm chế được
hiểu như là dấu hiệu của lòng tự chủ kiên trì (đúng hơn
là yếu kém) và bị vấp phải một sự cạnh tranh hơn là tận
dụng. Tính minh bạch giúp xoa dịu những lo sợ do những động
thái tích cực có thể nhận ra được của đối phương mà ý
định thù nghịch còn dấu kín. Và sự kiên quyết đem lại
một khoảng cách an toàn làm khủng hoảng không leo thang và tạo
dễ dàng cho từng phe khởi động việc kiềm chế, hỗ tương
và minh bạch. Điều may mắn cho toàn thể chúng ta là hiện có
đủ các loại biện pháp thực tiễn để Hoa Thịnh Đốn và
Bắc Kinh có thể đảm nhận trong chính sách an ninh quốc gia
hầu có thể đem những phương tiện làm tăng thêm tín nhiệm
và giảm nguy cơ xung đột.

<h2>Tư duy theo truyền thống </h2>

Theo quan điểm của Hoa Thịnh Đốn, những ý định tương lai
cuả Trung Quốc có nhiều bất trắc trầm trọng, nó bắt
nguồn từ việc kinh phí quốc phòng gia tăng nhanh chóng và tiếp
tục duy trì, cùng song hành với mức đầu tư quy mô cho vũ trang
quy ước nhằm thách thức khả năng Hoa Kỳ. Theo những ước
lượng phóng khoáng nhất về kinh phí quốc phòng hiện nay của
Trung Quốc là gần khoảng 200 nghìn tỷ hàng năm hay 2% TSLQG,
nhưng vẫn còn ít hơn so với 1/3 kinh phí của Hoa Kỳ (hiện nay
chiếm khoảng 600 nghìn tỷ cho một năm, nghiã là vào khoảng
3,5% TSLQG), đây là một cách so sánh chính xác. Theo mức tăng
trưởng hiện nay, ngân sách quốc phòng hằng năm của Bắc Kinh
sẽ không bằng ngân sách quốc phòng của Hoa Thịnh Đốn cho
đến khoảng năm 2030. Chính vì thế, Hoa Kỳ có thể dựa vào
số lượng vũ khí hiện đại, phần lớn còn tồn kho, kinh
nghiệm chiến đấu trong thời gian qua, kinh phí của các đồng
minh và đối tác (hiện nay vào khoảng 400 nghìn tỷ một năm).

Nhưng nếu Trung Quốc muốn xoa dịu mối lo âu của quốc tế và
chứng tỏ mục tiêu tự phòng vệ hợp pháp hơn là khả năng
dự phóng quyền lợi ra hải ngoại và đe doạ kẻ khác, thì
Trung Quốc cũng còn có nhiều biện pháp tích cực có thể thực
hiện được. Đứng trước việc kinh phí Hoa Kỳ không phải
chỉ dành cho châu Á mà toàn thế giới, một trường hợp có
thể thuyết phục được là nếu Trung Quốc đảm nhiệm vai trò
quốc phòng phù hợp khi chi xuất kinh phí khoảng phân nửa kinh
phí của Hoa kỳ. Vì thế, bằng cách giảm mức tăng kinh phí
quốc phòng trong những năm sắp đến, Trung Quốc có thể minh
chứng ngắn gọn về mục tiêu tự phòng thủ hơn là cạnh tranh
toàn diện. Trung Quốc có thể biểu hiện kiềm chế trong lúc
tiếp thu những hệ thống vũ khí (thí dụ như đầu đạn
nguyên tử viễn liên chống chiến hạm). Mục tiêu của loại
vũ khí này, nếu trang bị với một số lượng lớn, dường
như mâu thuẫn với kiên quyết hoan nghênh sự hiện diện quân
đội của Hoa Kỳ tại vùng Tây Thái Bình Dương. Nói chung, Trung
Quốc có thể làm minh bạch hơn về kinh phí quốc phòng và công
chi và soi sáng hơn mục tiêu về sách lược A2/AD.

Bù lại, Hoa Kỳ có thể đề ra những biện pháp làm sáng tỏ
là chương trình hiện đại hoá quân đội theo quy ước không
nhằm mục tiêu đe doạ quyền lợi hợp pháp về an ninh của
Trung Quốc. Ngân sách quốc phòng của Hoa Kỳ đang giảm sút là
một biểu hiện kiềm chế như thế. Nhưng Hoa Thịnh Đốn cũng
có thể làm nhiều việc hơn trong chiều hướng này, thí dụ
như giải thích mục tiêu của khái niệm một loại trận chiến
vừa không và hải quân, đổi tên khái niệm hành quân hỗn
hợp không và hải quân, gồm cả những dịch vụ quân sự bên
cạnh hải lực và không lực để chuyển hướng theo chính sách
châu Á của Hoa Kỳ, và bổ sung một vài đặc điểm thiên về
tấn công của sách lược phối hợp không và hải quân. Chiến
lược này có vẻ đe doạ trực tiếp đến khả năng về chiến
lược, kiểm soát và chỉ huy của Trung Quốc với những trận
tấn công phủ đầu có thể xãy ra khi có xung đột. Để gây
tín nhiệm trong việc bổ sung sách lược này, Hoa Kỳ có thể
giới hạn việc trang bị thêm các nguyên tử có đầu đạn
điều khiển chính xác từ xa và những loại bom chiến lược,
vì nếu chỉ cần tiếp nhận một số lựợng vừa đủ, có
thể xem như đe doạ sinh tử cho Trung Quốc. Khi huy động kết
hợp các khả năng quy ước mà không đòi hỏi phải lệ thuộc
nặng nề vào việc phải leo thang (bao gồm những căn cứ phòng
chống hữu hiệu và có khả năng sinh tồn cao hơn khi gặp phải
tấn công), Hoa Thịnh Đốn có thể xoa dịu cuộc chạy đua vũ
trang giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ và làm giảm nguy cơ bộc phát
tranh chấp ngay từ khởi thủy của cuộc khủng hoảng.

<h2>Từ chiến tranh trong không gian đến trên mạng </h2>

Những biện pháp xây dựng niềm tin biểu tượng nhất trong
thời kỳ Chiến Tranh Lạnh là những thoả ước về kiểm soát
vũ khí chiến lược, dù có nhiều vấn đề, nhưng cuối cùng
cũng đã giúp cho Hoa Thịnh Đốn và Mạc Tư Khoa gia tăng ổn
định trong thời khủng hoảng và giới hạn chạy đua vũ trang
về vũ khí hạt nhân về tấn công hay tự vệ. Với nhiều lý
do khác nhau, những hình thức thoả ước về kiểm soát vũ khí
trong mối quan hệ giữa Hoa Kỳ va Liên Xô it phù hợp cho mối
quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ hiện nay, và trong một vài
trường hợp, có thể chứng tỏ là phản tác dụng. Nói như
thế có nghĩa là có những biện pháp trong vũ đài của các
loại vũ khí không quy uớc có thể làm giảm nghi ngờ nhau và
khả năng leo thang xung đột, hoặc do tình cờ hay quá sớm.

Mhí một thí dụ là về chiến tranh không gian. Trước việc Hoa
Kỳ lệ thuộc nặng nề về vệ tinh cho cả hai mục tiêu quốc
phòng và dân dụng, những nhà hoạch định Trung Quốc đang công
khai nghiên cứu cách làm dung hoà những ưu thế trong lĩnh vực
không gian dành riêng cho những cuộc hành quân của Hoa Kỳ.
Điều hiển nhiên là vì sự lệ thuộc này mà Hoa Kỳ bị áp
lực buộc phải chống trả nhanh chóng, nếu như Hoa Kỳ tin là
khả năng phòng thủ đang nguy cơ, bỏ ít thì giờ hơn dành cho
việc điều tra hay ngoại vận hầu làm giảm khủng hoảng.
Chính vì lý do này mà những biện pháp có thể làm gia tăng an
ninh bảo vệ không gian của Hoa Thịnh Đốn là chuyện bắt
buộc, và những biện pháp này cũng sẽ trở nên thu hút hơn
đối với Bắc Kinh, khi làm gia tăng khả năng Bắc Kinh bảo vệ
không gian qua thời gian. Giữ an ninh tuyệt đối cho không gian là
chuyện không thể đảm bảo, vì mỗi vệ tinh dân dụng, khi có
thể được điều động dễ dàng, có khả năng để phá hủy
các vệ tinh khác. Khi chấp nhận những biện pháp như thoả
thuận về những "khu vực không bị ảnh hưởng" quanh vệ
tinh, việc đề ra những quy cách ứng xử có thể làm hợp pháp
hoá việc sử dụng quân lực khi phải tự phòng vệ, không coi
việc sử dụng này như khiêu khích. Trong hoàn cảnh này, kiên
quyết cũng là quan trọng, khi Hoa Kỳ cũng cần dùng phần thặng
dư trong hệ thống không gian và hàng không để bù đắp cho
mức độ tổn thương nào đó mà họ không thể tránh được.

Một cách tương tự, Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể tương thuận
theo một thoả ước, mà lý tưởng nhất là có quan hệ đến
các quốc gia khác, cấm các vệ tinh đụng nhau hay bùng nổ có
thể gây ra mảnh vụn trên một cao độ khoảng 1000 dặm trong
không gian, khu vực mà các vệ tinh thường hoạt động thấp
trong qũy đạo của trái đất. Khi khu vực phủ đầy các mảnh
vụn, nó sẽ làm cho các hoạt đông không gian trong tương lai
nguy hiểm. Vì thế, các trắc nghiệm về các hệ thống phòng
thủ nguyên tử xãy ra ở một cao độ sẽ thấp hơn. Một
thoả ước như thế sẽ đem lợi cho các phe và ít gây thiệt
hai. Cả hai phe cũng có thể thoả thuận không triển khai hay
trắc nghiệm các loại vũ khí chống vệ tinh hoặc không điạ.
Việc thử thách các ràng buộc tự nó không loại trừ tiềm
năng cho các phòng chống, dĩ nhiên, nhưng biện pháp này có thể
làm giảm tín nhiệm của từng phe đã có trong vấn đề này,
cùng lúc khi cả hai có ý muốn đầu tư và dựa vào những hệ
thống của hiệu năng mà nó có thể trở nên bất ổn.

Kiềm chế có thể giữ một vai trò cực kỳ quan trọng trong
việc gia tăng niềm tin thuộc lĩnh vực hạt nhân. Thí dụ như
kiềm chế của Trung Quốc trong chừng mực thuộc phạm vi
điều động hạt nhân gây được niềm tin là làm đúng theo
đặc tính phòng vệ của sách lược hạt nhân. Cũng tương tự
như vậy, kiềm chế của Hoa Kỳ trong việc điều động một
số lớn vũ khí tên lửa ngăn chận có thể hoá giải khả năng
báo thù của Trung Quốc, đem lại cho Hoa Kỳ một cảm tưởng
yên tâm hơn về ý định phòng thủ. Ngay khi không có quy định
thành văn bản, kiềm chế khi được tôn trọng liên tục sẽ
tạo tín nhiệm. Biện pháp này có thể thúc đẩy hai phiá phê
chuẩn Thoả Ước Toàn Diện về cấm thử vũ khí nguyên tử và
thực thi các thể thức kiểm tra song hành.

Do những thoả ước minh bạch mà những biện pháp như thế có
thể gia tăng, thí dụ như quy chế "không gian tự do" nhằm
tạo thêm tín nhiệm trong việc kiềm chế cho từng phía. Quy
chế này có thể đề ra do những thoả thuận mà Hoa Kỳ, Liên
Xô, các quốc gia khác thuộc Khối Minh Ước Phòng Thủ Bắc
Đại Tây Dương (NATO) và Khối Minh Ước Phòng Thủ Warsaw củ,
quy định việc bay qua lãnh thổ của từng nước khác (vào mức
độ khoảng 100 chuyến bay một năm) theo một thoả ước ký
kết từ đầu thập niên 1990. Khi các quốc gia biết cách bảo
vệ các tin bí mật cực kỳ qúy giá từ các chuyến bay qua
không phận như vậy, thì thoả ước không tạo quan ngại thực
sự nào về an ninh quốc gia. Những thỏa ước như thế có thể
làm giảm đi sự bối rối của Bắc Kinh về những chuyến bay
thám thính thường xuyên của Hoa Kỳ gần vùng cận duyên của
Trung Quốc. Như Cựu Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Zbigniew Brenzinski
đề nghị, những chuyến bay này có thể tiết giảm một cách
chừng mực, đây là một bước tiến cần được nghiên cứu
cẩn trọng, nếu Trung Quốc muốn chứng tỏ thiện chí đáp
ứng hỗ tương với mức độ minh bạch hơn.

Không gian mạng đang bị thách thức nghiêm trọng. Cũng giống
như trong không gian, mức độ tùy thuộc nặng nề của Hoa Kỳ
về cơ sở hạ tầng trong không gian mạng gây ra những tổn
thương, nên tạo áp lực Hoa Kỳ phải chống trả thật nhanh
chóng trước bất kỳ một cuộc tấn công nào, kể cả trong
trường hợp trước khi xác minh nguồn gốc tấn công. Gần đây
Hoa Kỳ quan tâm nhiều hơn về sự tích cực phòng thủ cho các
cơ sở hạ tầng, biện pháp này dường như hàm ý là Hoa Thịnh
Đốn muốn chống trả nhằm hoá giải những đe doạ đang phát
sinh, cùng với tất cả mọi nguy hiểm cuả các biện pháp trả
đủa đang leo thang.

Có nhiều lý do để tin rằng cả Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh
dường như không nhắm mục tiêu vào cơ cấu hạ tầng của
không gian mạng cho đến khi nào hoặc trừ phi cả hai tự nhận
ra rằng đang cận kề với xung đột trầm trọng. Nếu không có
gì khác thì lệ thuộc hỗ tương về kinh tế của các quốc gia
đem lại sự đảm bảo chốngi các đột kich. Nhưng các thành
phần khác, kể cả các tác nhân không phải nhà nước, như
nhóm khủng bố hay các tin tặc, có thể quan tâm đến việc
tạo tấn công ngụy tạo để gây khủng hoảng hoặc ngay cả
chiến tranh. Chính vì lý do này, Hoa Kỳ và Trung Quốc nên đồng
thuận phối hợp điều tra những kẻ tấn công nặc danh trên
mạng, nhằm tạo minh bạch và kết ước khả tín để tránh
nhắm mục tiêu vào hạ tầng cơ sở dân sự cuả đối phương.
Và chính sự kiên cường là quan trọng đặt biệt trong chiến
tranh trên mạng, vì khi mỗi phe càng giảm bớt khả năng bị
tổn thương do đột kích, thì họ càng có nhiều thì giờ
nghiên cứu những gì thực sự xãy diển và giảm đi nguy hiểm
của vòng quay leo thang bất định.

<h2>Cảnh giác láng giềng</h2>

Bắt nguồn từ tình hình căng thẳng đang gia tăng tại vùng
biển Đông và Nam Trung Quốc mà đối đầu trực tiếp quân sự
giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong tương lai gần là triển vọng
khả dĩ nhất. Những kết ước về an ninh của Hoa Kỳ với
Nhật Bản và Phi Luật Tân, mà cả hai đang có tranh chấp lãnh
thổ với Trung Quốc, và ý muốn của Hoa Kỳ trong xác lập
quyền giao thông hàng hải trong khu vực (đã khởi đầu cho
cuộc đụng độ giữa chiến hạm USS Cowpens với chiến hạm
Trung Quốc trong tháng chạp vừa qua) có thể buộc Hoa Thịnh
Đốn vướng vào trong tranh chấp, cho dù Hoa Kỳ không hề có
yêu sách về lãnh thổ trong khu vực. Những xung đột này
dường như không thể nào giải quyết được trong thời gian
sớm nhất. Các quan tâm thực tế của các phe hữu quan còn quá
ít, một vài trong số những xung đột này có thể được xử
lý, khi có những ý muốn hỗ tương đủ mạnh để tiến hành.
Nhưng các phe phái dính liú dường như e sợ là bất cứ biểu
hiện kiềm chế hay thích nghi là dấu hiệu yếu đuối, đưa
tới thái độ nhiều kiên quyết hơn trong tương lai. Hành vi này
làm cho tất cả thấy việc tìm cách ngăn ngừa khủng hoảng
ngay lúc đang phát sinh hay giữ thái độ kiềm chế là có tầm
quan trọng hơn.

Trung Quốc có thể tái tục bảo đảm về những ý định của
mình khi thoả thuận và áp dụng quy cách ứng xử đối với
biển Nam Trung Quốc do Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN)
đề nghị. Kiềm chế việc điều quân và thoả thuận về các
thủ tục hành quân sẽ làm giảm đi các nguy cơ biến động hay
tính toán sai lầm, tất cả làm cho những kiên quyết trong
thiện ý hiếu hoà của Bắc Kinh được khả tín hơn, những
thủ tục tương tự như vậy cũng có thể thoả thuận liên quan
đến vụ tranh chấp của các đảo Diaoyu/Senkaku. (Đây là một
lĩnh vực mà Bắc Kinh cần thay đối chính sách rộng lớn hơn,
cũng có những lĩnh vực khác mà gánh nặng về trách nhiệm
bất tương xứng tạo cho Hoa Thịnh Đốn, thí dụ như trong
việc giảm bớt khuôn khổ lực lượng tấn công nguyên tử
trong việc phối hợp với Liên Xô).

Ngoài ra, các giới chức Hoa Kỳ và Trung Quốc cần thiết lập
một cơ chế thông tin rõ ràng và trực tiếp hơn trong khi có
khủng hoảng. Từ năm 1998, cả hai nước thiết lập đường
giây nóng cho hai giới lãnh đạo liên lạc, nhưng họ it có
cuộc trao đổi về lĩnh vực quân sự, mà phần lớn vì cảnh
giác của Bắc Kinh trước những kết ước này. Kể từ năm
1998, thoả ước quân sự khuyến khích mọi hoạt động của
mỗi quốc gia nên thông qua tham vấn với minh bạch, nhưng không
đề ra quy cách hành quân của lộ trình hay các hoạt động
chiến thuật đặc biệt. Thiết lập hình thức đường giây
nóng để liên lạc về mặt quân sự rập theo khuôn mẩu của
Hoa Kỳ và Liên Xô trước đây sẽ tạo ý nghiã hơn. Xét về
mặt tối thiểu, cả hai nước sẽ có được một cơ chế
tiếp xúc toàn diện hơn cho giới lãnh đạo cao cấp, tạo
thuận lợi thông tin khẩn thiết trong những tình huống khủng
hoảng.

Cả hai phiá, và cũng có thể các tác nhân thuộc khu vực khác,
có thể thoả thuận về một hiệp ước quy định các đụng
độ trên biển, tương tự như thỏa thuận giữa Hoa Thịnh
Đốn và Mạc Tư Khoa trong thời Chiến Tranh Lạnh, không phải
chỉ dành cho hải quân mà còn cho các lực lượng tuần duyên
và có thể cho các thương thuyền. Cả hai phiá sẽ tiếp tục
giám sát, một biện pháp hợp pháp không thể né tránh và có
thể tiến hành với mức độ nguy hiểm thấp hơn. Thoả ước
quy định để đảm bảo là các chiến thuyền không thể tới
quá gần các tàu thuyền khác và các phi vụ chuyển vận không
được phép can dự, và các tàu ngầm không được phép nổi
lên và có những thái độ gây hại.

Về các vấn đề khu vực, cho dù một cuộc chiến Triều Tiên
khác có thể sẽ không xãy ra, những biến động trên bán đảo
này trong những năm gần đây (thí dụ như chương trình của
Bắc Hàn đang tiến hành về hạt nhân và nguyên tử, việc
nhận chìm hộ tống hạm Cheonam của Nam Hàn và pháo kích vào
đảo Yeonpyeong trong năm 2010) làm chúng ta nhớ là nguy cơ leo
thang của một cuộc chiến lan rộng còn liên tục xãy diển.
Nếu khủng hoảng bùng nổ như là hậu qủa của những khiêu
khích mới hay do Bắc Hàn sụp đổ, thì việc Hoa Kỳ hay Trung
Quốc phải can dự với tất cả những hậu quả bi đát là
chuyện dễ hình dung. Ngay từ bây giờ, nếu có những biện
pháp thiết thực làm cơ sở cho việc đối ứng nhịp nhàng
trước một cuộc khủng hoảng có thể xãy ra tương lai là một
việc làm có ý nghiã.

Ít nhất, mỗi phiá có thể tái tục đảm bảo với đối
phương là kế hoạch phòng chống khủng hoảng (kể cả bảo
đảm an toàn cho các vật liệu hạt nhân của Bắc Hàn hay phục
hồi trật tự chính trị) là đem lại ổn định hơn là gây đe
doạ. Đối với Bắc Kinh, do dự đàm phán về những đề tài
này vì sợ làm thương tổn Bình Nhưỡng có thể né tránh
được bằng cách khởi đầu hội luận hai vòng, trước hết
trong giới trí thức và giới chức nghĩ hưu. Bắc Kinh phải
nhận ra rằng khi bán đảo thống nhất, Seoul sẽ quyết định
việc lưu trú của quân lực Hoa Kỳ. Về phần mình, Hoa Thịnh
Đốn phải đảm bảo với Bắc Kinh là bố trí quân sự cuả
Hoa Kỳ trong tương lai trên bán đảo (giả đoán rằng Seoul vẫn
còn muốn Hoa Kỳ hiện diện) phải ít hơn so với hiện tại và
không đặt thêm căn cứ nào hướng về hướng bắc như hiện
nay. Cả hai Seoul và Hoa Thịnh Đốn phải chuẩn bị mời Bắc
Kinh giúp đở khi có những sự cố bất ngờ trong tương lai, ít
nhất là trong khu vực phía bắc của Bắc Hàn.

Dù các xung đột eo biển dịu đi trong những năm gần đây,
Đài Loan vẫn còn là một đề tài tranh luận trong mối quan hệ
giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, một phần vì do Trung Quốc không
từ bỏ sử dụng bạo lực để thống nhất Đài Loan với Lục
Điạ, một phần khác vì Hoa Kỳ tiếp tục bán vũ khí cho Đài
Bắc. Và căng thẳng dường như không thể tránh được trước
những bất đồng cơ bản trong quyền lợi của hai phiá. Vấn
đề là ở chổ sự tái tục bảo đảm có thể giữ một vai
trò. Đối với Bắc Kinh, điều này có nghiã là cần làm cho
chủ tâm tìm kiếm đường lối thống nhất hiếu hoà thành
khả tín, đặt giới hạn về việc hiện đại hóa quân sự và
ngưng thao diễn nhằm đe doạ Đài Loan thông qua việc phong toả
tên lửa. Đối với Hoa Thịnh Đốn, điều này có nghiã là
đảm bảo việc bán vũ khí cho Đài Loan là để phòng vệ và
chứng tỏ ý muốn giảm bớt số lượng vũ khí bán ra nhằm
đáp ứng với giảm bớt tư thế hù dọa của Trung Quốc đối
với Đài Loan. Biện pháp giảm bớt này phải có ý nghiã, có
thể được kiểm tra và không thể đảo ngược.

Điều may mắn là cả hai phiá đã theo đuổi những điểm chính
trong chương trình nghị sự này. Tuy nhiên, huy động tên lửa
hiện nay của Bắc Kinh, và khả năng đáp ứng của Hoa Thịnh
Đốn giúp Đài Loan cải thiện hệ thống phòng vệ tên lửa,
tạo ra tiềm năng cho đợt leo thang mới – hoặc cũng có thể
dẫn đến một vòng mới về tái tục bảo đảm. Trung Quốc có
thể khởi động tiến trình tái tục bảo đảm một cách hữu
ích khi giảm việc điều động các lực lượng tên lửa.

<h2>Nhiều tín hiệu nhưng ít ầm ĩ hơn</h2>

Điểm mấu chốt tạo ổn định cho mối quan hệ giữa Hoa Kỳ
và Trung Quốc trong trường kỳ là mỗi phía phải giữ minh
bạch về mức độ báo động thực sự và hậu quả, ít nhất
là trong những điều kiện chung, đồng ý phải trả một cái
giá cho sự bảo vệ. Còn về sự tái tục bảo đảm, quyết
tâm mang lại thông tin chính xác đòi hỏi nhiều vấn đề hơn
là chỉ thuần về ngôn từ, việc này liên hệ đến cả hai
thể hiện ý muốn và khả năng cải thiện những đe doạ.

Điều này có nghiã là Hoa Thịnh Đốn cần làm cho Bắc Kinh
hiểu rằng Hoa Kỳ không chỉ muốn bảo vệ lãnh thổ và dân
chúng của mình mà còn cho những đồng minh chính thức và đôi
khi còn cho cả những người bạn mà không phải là đồng minh.
Những gì mà chính quyền Obama làm trong việc tái quân bình có
thể được hiểu một phần là theo chiều hướng này, nhưng
để đạt được hiệu quả, Hoa Kỳ cần tiếp tục theo đuổi
và thực thi nghiêm chỉnh hơn là cho phép mình xao lãng. Dĩ
nhiên, biểu hiện quyết tâm không phải chỉ có nghiã là giải
quyết mỗi khiêu khích với cách đáp ứng bằng quân sự. Đôi
khi, có những đáp ứng không bằng phương cách quân sự, thí
dụ như biện pháp phong toả hay tạo cơ sở thoả thuận mới,
có thể đem lại ý nghĩa nhất, khi dùng thương thuyết để
tạo những cách thích hợp hoặc những lộ trình khác làm giảm
khủng hoảng. Cách tốt nhất để thể hiện nghiêm túc lòng
kiên quyết trong trường hợp cụ thể sẽ tùy thuộc vào các
yếu tố dị biệt, kể cả mức độ phối hợp mà Hoa Thịnh
Đốn có thể huy động với các đồng minh và đối tác để
đạt mục tiêu. Nhưng chuyện quan trọng là phải gởi tín hiệu
cho Bắc Kinh biết sớm hơn và rõ hơn là có những giới hạn
không được phép vi phạm và không bị trừng phạt.

Mặt trái của biện pháp này là Hoa Kỳ cần hiểu và tôn
trọng quyền tự quyết của Trung Quốc trong việc bảo vệ
quyền lợi sinh tử quốc gia, kể cả phải sử dụng quân lực
khi cần thiết. Khi định nghiã phù hợp việc bảo vệ quyền
lợi, thì quyền tự vệ chính đáng của Trung Quốc là sự xác
quyết khả chấp chiếu theo Điều 51 Hiến Chương Liên Hiệp
Quốc, việc này đã gây ra chuyện tổn thuơng trong quá khứ do
tấn công và gây hấn; điều có thể hiểu được đối với
Trung Quốc khi thực hiện những biện pháp khả tín để giải
quyết. Khó khăn ở đây là trong những năm gần đây Bắc Kinh
dường như khẳng định một danh sách càng nhiều hơn về
những quyền lợi cốt lõi và thường có cách giải quyết gây
hấn hơn, đưa các tranh chấp nhỏ và thông lệ trở thành
những cuộc đối đầu nguy hiểm và tạo ra những thử thách
không cần thiết về các giải quyết hỗ tương. Bắc Kinh cần
công nhận rằng qua thời gian, thái độ như thế làm giảm đi
tính chính thống và buộc phải tạo ra việc đòi những yêu
sách quan trọng hơn, gởi những tín hiệu gây tranh chấp và làm
suy yếu những quyền lợi trường kỳ.

Mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể đang tiến gần
đến một chuyển điểm. Dưạ theo sinh hoạt lưỡng đảng lâu
đời mà Hoa Kỳ đồng thuận để tìm kiếm quan hệ tốt đẹp
với Trung Quốc, hiện đã căng thẳng, và Trung Quốc ngày càng
bi quan nhiều hơn về tương lai của việc thương thảo song
phương. Sự trỗi dậy của Trung Quốc mà Hoa Kỳ xem như chuyện
định mệnh đã an bài có thể dẫn tới một sự chấp nhận
đầu hàng về một thực tế mới hoặc là đề kháng bằng
sức lực chỉ nhằm bảo vệ đặc quyền xưa củ - cả hai
chiến lược vừa không hứa hẹn và cuối cùng là tự đánh
bại mình. Xây dựng mối quan hệ dựa trên những nguyên tắc
về tái tục bảo đảm chiến lược và kiên quyết sẽ mang
tới triển vọng một tương lai hứa hẹn hơn mà không gây
thiệt hại đến quyền lợi chính đáng của đối phương.
Thực ra, thay vì đơn thuần hy vọng hay tạo kế hoạch về một
niềm tin, cần phải có một phương cách thay thế là "dù có
tin tưởng nhưng cần phải kiểm tra". Biện pháp này vững
chắc hơn, thay vì ngăn chận như xưa, bởi vì nó sẽ tìm cách
giảm những khả năng gây khiêu khích hay leo thang không có chủ
tâm. Nếu có may mắn, biện pháp này có thể giúp làm cách ly
tranh chấp quy mô, sẽ đạt đến một kết quả mà cả hai dân
tộc khôn ngoan đang tìm kiếm.

<em>James B. Steinberg là Trưởng Khoa Maxwell School of Citizenship and
Public Affairs và là Giáo sư Khoa học Xã Hội, Quan hệ Quốc Tế
và Khoa Luật, Đại Học Syracuse. Michael O'Hanlon là chuyên gia
cao cấp tại Center for 21st Century Security and Intelligence và Giám
Đốc Nghiên Cứu về Foreign Policy Program tại Brookings
Institution. </em>

Nguyên tác: <a
href="http://www.foreignaffairs.com/articles/141476/james-b-steinberg-and-michael-ohanlon/keep-hope-alive">Keep
Hope Alive - How to Prevent U.S.-Chinese Relations From Blowing U</a>p,
Foreign Affairs July/August 2014. Tiểu luận này là một trích lược
từ quyển sách "Strategic Reassurance and Resolve: U.S.-China Relations
in the Twenty-first Century" (Princeton University Press, 2014) mà hai
ông là tác giả.


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140703/lam-sao-tranh-duoc-bung-no-trong-moi-quan-he-giua-hoa-ky-va-trung-quoc),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét