Hạ Mai - Trái đắng Genève (1954)

Sự thay đổi Ban lãnh đạo trong điện Kremlin sau cái chết của
I.V.Stalin (5-3-1953) - một trong những nhân vật nổi tiếng nhất
thế kỷ XX, đã khiến các nhà lãnh đạo phương Tây nghĩ đến
khả năng giảm bớt căng thẳng quốc tế. Hy vọng đó được
thể hiện trong bài phát biểu nổi tiếng "<i>The chance for
Peace</i>" của Tổng thống Eisenhower (16-4-1953) và phát biểu
tại Hạ viện nước Anh của Thủ tướng Winston Churchill
(11-5-1953). Kêu gọi tổ chức đàm phán cấp cao nhằm "hạ
nhiệt" cuộc Chiến tranh Lạnh đang rất "nóng" của Nguyên
thủ một số nước phương Tây gặp sự phản hồi tích cực
của Liên Xô. Hội nghị Genève được "thai nghén" trong
điều kiện đó.

<b>1</b>- <b>Đường đến Genève</b>

Trong xu hướng hòa hoãn giữa các nước lớn, ngày 28-9-1953,
Liên Xô đề nghị các nước có liên quan tổ chức một hội
nghị quốc tế, xem xét, đề xuất các biện pháp giảm thiểu
căng thẳng trong tình hình thế giới, giải quyết vấn đề
chiến tranh – hòa bình ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Ngày
25-1-1954, Hội nghị cấp Bộ trưởng Ngoại giao giữa Liên Xô,
Anh, Pháp, Mỹ khai mạc tại Berlin ra thông báo sẽ triệu tập
Hội nghị Genève, bàn giải pháp cho vấn đề Triều Tiên và
lập lại hoà bình ở Đông Dương.

Thất bại liên tiếp trên chiến trường, lúng túng, bị động
trong chiến lược, chiến thuật, ngân khố thâm hụt trầm
trọng…, Pháp mong muốn nhanh chóng tìm ra một giải pháp cho
cuộc chiến tranh Đông Dương. Nhìn thấy ở Hội nghị Genève
cơ hội giải quyết chiến tranh Đông Dương thông qua thương
lượng, dù đang ở vào tình thế bất lợi về quân sự, song
Pháp muốn đàm phán trên tư thế áp đảo - cuộc thương
lượng như De Gaulle minh định: "Đó không phải là nhượng
bộ, đó là hòa bình của vũ trang"[1]. Nước Pháp đặt cược
vào canh bạc lớn - giải quyết cuộc chiến tranh "một cách
thể diện" bởi H.Navarre và "con nhím thép" Điện Biên Phủ
- "Verdun" của Đông Nam Á. Pháp quyết tâm bảo vệ Điện
Biên Phủ đến cùng, quan niệm "nếu giữ được Điện Biên
Phủ có nghĩa là cứu được xứ Đông Dương thuộc
Pháp…"[2].

Đón nhận tin tức về Hội nghị Genève, ngày 2 -11- 1953, Hồ
Chí Minh thay mặt Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đưa ra
thông điệp: "Nếu Chính phủ Pháp đã rút ra được bài học
trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến
ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề
Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó"[3]. Ngày
13-13-1954, Hội đồng chính phủ VNDCCH nhóm họp, bày tỏ quan
điểm tán thành Hội nghị Genève, thảo luận về lập trường,
phương châm đấu tranh ngoại giao và cử Đoàn đại biểu tham
gia Hội nghị (do Phạm Văn Đồng dẫn đầu). Trên quan điểm
giải quyết chiến tranh: "cơ sở của việc đình chiến ở
Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập
thực sự của nước Việt Nam" [4], VNDCCH chủ trương vừa
đánh, vừa đàm. Chủ trương "đánh - đàm" được khái quát
ngắn gọn: Đánh cho đến khi có ưu thế hơn đối phương và
đợi đến lúc ở Genève đạt được được thoả thuận chính
trị phù hợp rồi mới đình chiến, thậm chí chỉ đồng ý
đình chiến về nguyên tắc, còn nội dung đình chiến cụ thể
phụ thuộc vào sự phát triển của tình hình.

Nhằm tạo thế cho cuộc đàm phán sắp đến, trung tuần tháng
12-1953, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam hạ quyết tâm tiêu
diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, coi đó là
đòn "rất quan trọng không những về quân sự mà cả về
chính trị, không những đối với trong nước mà đối với
quốc tế"[5].

Nhận xét về thời điểm phát động và mục tiêu cuộc "so
găng lịch sử" Điện Biên Phủ, sĩ quan tình báo Mỹ L. A.
Patti viết: "Cái pháo đài mới được tăng cường này đã có
tầm quan trọng về chính trị và tâm lý hơn hẳn giá trị
chiến lược thực tế của nó vì Hội nghị Genève sắp khai
mạc"[6]. Với quyết tâm của hai bên tham chiếm, lực lượng
con người và vật chất được dốc vào thung lũng lòng chảo
vùng Tây Bắc[7], Điện Biên Phủ trở thành nơi đọ sức,
cuộc chạy đua nước rút quyết liệt, mà mỗi bên đều gửi
gắm vào đó những mục tiêu quyết tử, có giá trị quyết
định trong ván cờ cuối cùng. Mục tiêu trên bàn đàm phán
của Hội nghị Genève) đã biến Điện Biên Phủ thành đấu
trường khốc liệt, khi kết cục của nó quyết định "miếng
bánh" của các bên liên quan, tất nhiên, nếu việc chia bánh
được đặt trên căn cứ của luật chơi "sòng phẳng", công
bằng.

Liên quan tới <i>Quốc gia Việt Nam (</i>QGVN<i>)</i>, tháng ba năm
1954, Thủ tướng Nguyễn Phúc Bửu Lộc mở cuộc điều đình
với Pháp về chủ quyền của Việt Nam, đề nghị Pháp ký hai
Hiệp ước. Hiệp ước thứ nhất về công nhận độc lập
trọn vẹn của QGVN, QGVN sẽ tách khỏi Liên hiệp Pháp trở
thành một nước độc lập. Hiệp ước thứ hai về quan hệ
giữa Việt Nam và Pháp[8].

Những nước còn lại tham dự Hội nghị (Liên Xô, Trung Quốc,
Mỹ, Anh) tuy không là "đương sự" trực tiếp, song lại có
quyền quyết định quan trọng, có những dự định, kế hoạch
tiếp cận và giải quyết những vấn đề trọng yếu của Hội
nghị đáp ứng/thỏa mãn quyền lợi của mình lớn hơn mục
tiêu giải quyết vấn đề Triều Tiên, cũng như vấn đề lập
lại hòa bình ở Đông Dương. Bức tranh toàn cảnh mối liên
hệ giữa các nước lớn có mặt ở Hội nghị mang tính
"thắt" - "mở", bị chi phối, quy định bởi những toan
tính và kế hoạch riêng/chung hết sức phức tạp, bộc lộ
ngày một rõ hơn trong tiến trình Hội nghị.

<b>2- Nỗi thất vọng mang tên Genève</b>

Ngày 26-4-1954, Hội nghị Genève chính thức khai mạc. Giai đoạn
một của Hội nghị chủ yếu bàn về vấn đề Triều Tiên,
song không khí Genève ngày một nóng dần lên bởi những diễn
biến chiến sự ở Đông Dương. Đặc biệt, Hội nghị khai
mạc trùng với thời điểm Quân đội nhân dân Việt Nam kết
thúc thắng lợi chiến dịch tấn công đợt 2 ở Điện Biên
Phủ, khiến Genève dường như cũng khét lẹt mùi khói lửa
chiến trường.

Ngày 4-5-1954, Đoàn VNDCCH do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn
đầu có mặt ở Genève[9]. Phạm Văn Đồng vừa đặt chân tới
Genève, "vấn đề Đông Dương tại Hội nghị nhộn nhịp hẳn
lên"[10]. Phạm Văn Đồng "đến Genève với nét mặt rạng
rỡ. Tin chiến thắng từ mặt trận Điện Biên Phủ liên tiếp
báo về làm cho ông tràn đầy hy vọng"[11].

Cuối cùng, thời khắc định mệnh đã đến - 17 giờ 30 phút
ngày 7-5-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam chiếm Sở Chỉ huy
cứ điểm, Tướng Đờ Cát và toàn bộ Bộ Tham mưu bị bắt
sống - cuộc chiến tranh Đông Dương rơi vào "điểm trắng"
của lịch sử. Cả nước Pháp chết lặng, bàng hoàng. Wilfred
Burchett bình luận: "Người đồng chí thân thiết của ông
Phạm Văn Đồng là ông Võ Nguyên Giáp đã trao lại cho ông một
vũ khí hiệu nghiệm nhất, mà không phải bất kỳ nhà thương
lượng nào cũng dám nghĩ đến khi bắt đầu một hội nghị
như vậy"[12].

Điện Biên Phủ thất thủ đã khiến nội tình nước Pháp chia
rẽ sâu sắc thêm, Pháp không còn con đường nào khác là phải
nhanh chóng rút lui khỏi Đông Dương. Nhiệm vụ cấp bách nhất
của phái đoàn Pháp tại Hội nghị Genève là đạt được
ngừng bắn càng sớm càng tốt, hy vọng thương lượng trên
thế mạnh của Pháp tan vỡ. Trong phiên họp đầu tiên,
"Trưởng đoàn đám phán Pháp Mendès-France đưa ra đề nghị
hạn chế sự hiện diện của quân đội Pháp ở phía nam vĩ
tuyến 17"[13], dù trước đó khăng khăng yêu cầu vĩ tuyến 18.

Điện Biên Phủ hoàn toàn thắng lợi một ngày trước khi Hội
nghị Genève về Đông Dương khai mạc – "nhờ thời điểm
tuyệt diệu của ông Giáp, kế hoạch Đa-lét nhằm quốc tế
hoá cuộc chiến tranh đã thất bại"[14]. Điều đó càng củng
cố thêm lập trường đàm phán "<i>thực sự độc lập,
thống nhất và dân chủ tự do</i>"[15]; "<i>hòa bình không
thể tách rời độc lập dân tộc</i>"[16] của VNDCCH. Những
yếu tố hội tụ cho phép VNDCCH hy vọng về một kết quả công
bằng tại Genève thỏa mãn lập trường đàm phán đã xác
định.

Về phía <i>Quốc gia Việt Nam</i>, ngày 4-6-1954, Thủ tướng
Pháp Joseph Laniel và Thủ tướng QGVN Nguyễn Phúc Bửu Lộc ký
Hiệp ước công nhận QGVN độc lập hoàn toàn[17]. Ít lâu sau,
Hiệp ước liên hiệp Việt-Pháp thỏa thuận về việc Việt Nam
nằm trong Liên hiệp Pháp cũng được ký kết[18]. Trở thành
Thủ tướng, Mandès France hứa tôn trọng những thỏa ước này
- đây cũng là cơ sở để QGVN yêu cầu người Pháp phải tôn
trọng sự thống nhất lãnh thổ của Việt Nam, chống lại mọi
sự chia cắt; coi sự hiện diện của phái đoàn VNDCH ở Hội
nghị là không có tính pháp lý.

Như đã nói ở trên, đến Hội nghị với những yêu cầu phù
hợp với tương quan lực lượng trên chiến trường (Pháp phải
thỏa thuận vô điều kiện về việc rút quân theo lịch trình
ấn định, Việt Nam phải được thống nhất), VNDCCH mong muốn
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và có lập
trường đàm phán khá cứng rắn. Tuy nhiên, tiến trình đàm
phán, kết quả Hội nghị thực sự là điều bất ngờ, là
"viên thuốc đắng" mà VNDCCH phải cố nuốt trôi: Thỏa
thuận đạt được ở Genève nghiêng về kế hoạch của Pháp
hơn là của VNDCCH[19]. Những nội dung mang tính then chốt được
chính thức ấn định tại Hội nghị (20-7-1954) chỉ mang lại
cho VNDCCH nửa nước trên bản đồ thế giới.

Về ranh giới phân vùng, khi Chu Ân Lai nhắc đến giới tuyến
17, cả Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh đều cảm thấy ngỡ
ngàng. Hồ Chí Minh nói với Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh:
"Với so sánh lực lượng trên thực tế chiến trường hiện
nay, ta đề ra vĩ tuyến 13 là hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với ta
là không thể chấp nhận, chí ít cũng phải dành được vĩ
tuyến 16"[20]. Jean Lacouture mô tả nỗi "ấm ức" của
Trưởng đoàn đàm phán VNDCCH: "Chung quanh một chiếc bàn lớn,
ghế xô đẩy ngổn ngang, người ta thấy Eden và P.M.F (<em>Pierre
Mendès France- TG), Molotov và Chu Ân Lai đang bao quanh Phạm Văn
Đồng. Phạm Văn Đồng mồ hôi nhễ nhại, mặt hốc hác đầy
vẻ đau đớn nhìn vào bản đồ Đông Dương trước mặt: Lãnh
thổ của Việt Nam cộng sản bị đẩy lùi dần từng cây số
một về phía Bắc"</em>[21]<em>. Sau này,</em> Phạm Văn Đồng
cay đắng thốt lên: "Chúng tôi có thể giành được nhiều
hơn, nhiều hơn nữa. Chúng tôi đã thoả thuận trước với
Trung Quốc về mọi điều. Nhưng Chu Ân Lai đã có cuộc hội
đàm bí mật với Mandès France và tất cả đều đã thay
đổi"[22].

Ngay từ ngày ấy, những người cộng sản Việt Nam đã hoài
nghi về khả năng một nền hòa bình đến sớm. Võ Nguyên Giáp
lo lắng tiên liệu: "Pháp còn gần năm mươi vạn quân, lại
thêm Mỹ giúp thì rất ít có khả năng hòa bình thống nhất
Việt Nam"[23]

Với <i> Quốc gia Việt Nam, </i>tình hình còn tệ hại hơn
nhiều. Tham gia Hội nghị, QGVN chỉ tồn tại một cách hình
thức bên cạnh phái đoàn Pháp. Trong các buổi họp hẹp giữa
Pháp và VNDCCH, đại biểu của QGVN không được mời tham dự
dù với tư cách quan sát viên. Trong phiên họp toàn thể, chỉ
có các trưởng phái đoàn Pháp và VNDCCH đưa ra quan điểm và
thảo luận, sau đó Pháp thông báo mọi quyết định cho phái
đoàn QGVN.

Ngày 17-7-1954, phái đoàn QGVN gửi <i>Kháng nghị </i>đến Pháp
và Mỹ, phản đối Pháp đã không thông báo về những đề
xuất được mang ra thảo luận – những đề xuất, như bản
<i>Kháng nghị</i> khẳng định: "Không hề đếm xỉa đến ý
chí đoàn kết dân tộc muôn người như một của nhân dân
Việt Nam"[24]. Phái đoàn QGVN yêu cầu: "Ngừng bắn phải đi
kèm với giải trừ quân bị mọi lực lượng tham chiến tại
Việt Nam; đặt Việt Nam dưới sự kiểm soát của Liên Hợp
Quốc trong thời gian an ninh, trật tự, hòa bình từng bước
được tái lập và hoàn tất (…). Cuối cùng, để nhân dân
Việt Nam tự quyết định vận mệnh của mình thông qua bầu
cử tự do"[25]. Bản <i>Kháng nghị</i> lưu ý: "Đặt một
Việt Nam thống nhất dưới quyền kiểm soát của Liên Hợp
Quốc thích hợp hơn là duy trì quyền lực ở một đất nước
bị chia cắt và bị đẩy vào vòng nô lệ"[26]. Tuy nhiên,
những kháng nghị của QGVN như được rót vào tai người
điếc, không nhận được bất kỳ phản hồi nào.

Tại phiên họp toàn thể cuối cùng, Ngoại trưởng Trần Văn
Đỗ "yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ quốc gia
Việt Nam dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để
bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công
cuộc thực hiện thống nhất, độc lập và tự do cho xứ
sở"[27]. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ tuyên bố: "Chính phủ
Quốc gia Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp
định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng
sâu xa của dân Việt"[28], yêu cầu chèn thêm vào bản <i>Tuyên
bố</i> nội dung: "Hội nghị ghi nhận Tuyên bố của Chính phủ
của Nhà nước Việt Nam về cam kết thực hiện và hỗ trợ
mọi nỗ lực thiết lập một nền hòa bình thực sự và lâu
dài tại Việt Nam; không sử dụng vũ lực chống lại các thủ
tục để lệnh ngừng bắn có hiệu lực, trong khi Nhà nước
Việt Nam vẫn bảo lưu sự phản đối được nêu lên ở Tuyên
bố cuối cùng"[29]. Yêu cầu đã bị bác bỏ thẳng thừng.
Thất vọng vì "người Pháp đã trơ trẽn và bất chấp luật
lệ bán rẻ lợi ích của Quốc gia Việt Nam"[30], trả lời
phỏng vấn báo chí, Trần Văn Đỗ tiết lộ: "Phái đoàn
quốc gia Việt Nam đã không được biết về thoả thuận đình
chiến. Từ khi đến Genève, phái đoàn không hề được hỏi ý
kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời
hạn Tổng tuyển cử… Những vấn đề này đều được thảo
luận tại những phiên họp hẹp; do vậy, phái đoàn Quốc gia
Việt Nam không thể bày tỏ quan điểm"[31]. Tức tưởi, chán
nản, bất lực, từ Genève, Trần Văn Đỗ gửi điện xin từ
chức.

Trước kết cục cuối cùng của Hội nghị Genève, Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng QGVN Phan Huy Quát tuyên bố: "Chia cắt Việt Nam
sẽ dẫn tới nguy cơ làm dấy lên cuộc chiến tranh giữa miền
Bắc và miền Nam (…) Đình chiến và phân vùng sẽ dẫn đến
một cuộc chiến tranh nguy hiểm hơn"[32]. Với quan điểm
tương tự, Tướng Nguyễn Văn Hinh phát biểu: "Đình chiến và
chia cắt lãnh thổ Việt Nam là một biện pháp tạm thời để
ngăn chặn sự đổ máu, nhưng không thể chấm dứt chiến tranh.
Và có thể, người Việt Nam sẽ phải đối mặt với một
cuộc chiến tranh như ở Hàn Quốc, nơi quân đội của cả hai
bên luôn đặt ngón tay lên cò súng"[33].

Căn cứ trên điều khoản "không bị ràng buộc bởi bất cứ
hiệp ước nào do Pháp ký sau này" của Hiệp ước <i>Traité
D'indépendance Du VietNam </i> (4-6-1954), QGVN tuyên bố không bị
ràng buộc bởi Hiệp định Genève. Tuy nhiên, theo phân tích trong
<i>Official record</i> của <i>U.S. Senate Subcommittee</i>, thì có ít
nhất hai lý do khẳng định QGVN vẫn bị ràng buộc: 1- Chính
phủ này chỉ sở hữu một vài thuộc tính của một chủ
quyền đầy đủ; 2- Phụ thuộc vào Pháp về quốc phòng[34].

<b> 3- Nền hòa bình vỡ vụn</b>

Hiệp định Genève đã không hoàn thành sứ mệnh của mình. Sau
8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp hết sức căng
thẳng với những màn đấu trí, đấu lực gay gắt, những
"lỗ hổng" trong Hiệp định Genève đã đặt Đông Dương
trên bờ vực của một cuộc chiến tranh mới.

Ngay khi những tin tức của Hiệp định Genève và những điều
khoản chuyển quân của nó được công bố, nhiều người miền
Bắc rơi vào tình trạng lo âu, phấp phỏng. Sau khi Hiệp định
Genève được ký kết, cuộc di cư của một bộ phận người
miền Bắc bắt đầu. Đến năm 1956, khoảng 880.000 người đã
di cư vào Nam, trong đó có 750.000 người Công giáo (chiếm 85%
số lượng người di cư)[35]. Quyết định áp đặt mô thức
Triều Tiên cho Việt Nam của các nước lớn đã dẫn đến
cuộc "thiên di lịch sử", gây nên cảnh ly tán của hàng
trăm ngàn gia đình kẻ Bắc, người Nam. Nỗi đau chia cắt đã
làm <b>vỡ vụn nền hòa bình chưa kịp đến</b>.

Trên bàn cờ của các nước lớn, cả VNDCCH và QGVN đều là
những <b>thực thể chính trị lẻ loi</b>, không đủ sức thoát
khỏi ảnh hưởng và những sắp đặt sẵn của các nước lớn
đồng minh hoặc không đồng minh.

Đối với VNDCCH, lựa chọn ý thức hệ cộng sản, tin tưởng
ở chủ nghĩa quốc tế vô sản, chưa đủ mạnh về quân sự,
cô lập về ngoại giao… những yếu tố đó đan quyện, chi
phối, dần dần dẫn đến sự phụ thuộc của Chính phủ Hồ
Chí Minh vào Liên Xô và nhất là vào Trung Quốc. Sự phụ thuộc
đó bắt đầu từ năm 1950 (khi Trung Quốc đẩy mạnh viện trợ
và đồng ý gửi cố vấn quân sự, kinh tế - tài chính, tổ
chức… giúp Việt Nam kháng Pháp), tích tụ và để lại hậu
quả "nhỡn tiền" tại Genève - VNDCCH đã không thể đưa ra
và thực hiện một chiến lược hiệu quả trên "đấu
trường" giữa các nước lớn.

Tiến hành kháng chiến chống Pháp trong thế bị bao vây, cô
lập, thiếu kinh nghiệm đàm phán, nhận thức chưa đúng, chưa
đầy đủ về chính sách của các nước lớn[36], có một
"niềm tin chân thực", tương đối "ngây thơ" đối với
đồng minh và đặc biệt bị xiết chặt bởi "vòng kim cô"
ý thức hệ, VNDCCH đã không (hoặc không đủ tỉnh táo) xem
xét, nghiên cứu phương án "đặt Việt Nam dưới sự kiểm
soát của Liên Hợp Quốc" mà QGVN đưa ra. Bước trượt ấy
rất có thể đã khiến cả hai miền Nam, Bắc <b> lỡ một nhịp
trên con đường hòa hợp</b>.

Giúp đỡ nhiều mặt của Mao Trạch Đông cho cuộc kháng chiến
chống Pháp đã khích lệ Chính phủ VNDCCH, tạo những hi vọng
lớn lao về nền độc lập không xa; đồng thời, những điều
đó đã khiến lãnh đạo VNDCCH không kịp nhận ra rằng, Trung
Quốc đang "đầu tư" vào chiến tranh Đông Dương, biến
Việt Nam thành lá chắn ngăn chặn đường tấn công và xâm
nhập của Hoa Kỳ. Siêu cường không thể không có vệ tinh –
Trung Quốc dần đưa Việt Nam vào vùng ảnh hưởng, vào quỹ
đạo của Trung Quốc. Một Việt Nam giàu mạnh, độc lập với
Trung Quốc, có quan hệ ngoại giao rộng rãi với nhiều nước
nhất định sẽ "thoát Trung", sẽ không thể là chư hầu -
đó cũng là lý do Trung Quốc "sốt sắng" với giải pháp chia
cắt Việt Nam, ủng hộ để Việt Nam rút quân khỏi Lào và
Campuchia.

Cũng vì tin tưởng đồng mình, VNDCCH đã không thấy rằng,
dường như mọi vấn đề về Đông Dương đã được các
nước lớn sắp đặt và quyết định. I.V. Gaiduk bình luận:
"Đến Moscow vào đêm trước của Hội nghị Genève, phái đoàn
Việt Nam do Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn
Đồng dẫn đầu đã không được thảo luận về phương thức,
con đường giải quyết vấn đề Đông Dương, mà chỉ còn cách
đồng ý với Liên Xô, Trung Quốc và phối hợp thực hiện
những vấn đề về chiến thuật"[37]. Dưới áp lực của
Liên Xô, Trung Quốc, dù cố giữ lập trường cứng rắn, nhưng
cuối cùng, các yêu cầu đàm phán của VNDCCH buộc phải hạ
thấp dần, chỉ có Chu Ân Lai có được "tất cả mọi thứ
đã được tiên liệu và dự đoán trước"[38].

Cuối cùng, giải pháp chia cắt Việt Nam bằng lằn ranh mang tên
"vĩ tuyến 17" đã không mang đến thậm chí là "nền hòa
bình mong manh". Hai miền đất nước, hai chế độ và <b>21 năm
chiến tranh đằng đẵng</b>… lịch sử Việt Nam ở thời
điểm đó và cả sau này, bị chế định bởi "giải pháp"
của những "người ngoài cuộc". "Vị đắng" Genève còn
rơi rớt đến bây giờ.

<br clear="all"> <hr width="33%"> [1] Qian Jiang: <i>Zhou Enlai and the
Geneva Conference</i>, Beijing: History of CPC Press, 2005<b>, </b>p.23.

[2] Jean Pouget: <i>Tướng H.Navarre với trận Điện Biên
Phủ</i>, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, tr. 314.

[3] Hồ Chí Minh: <i>Toàn tập</i>, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011, tập 8, tr.340.

[4] Hồ Chí Minh: <i>Toàn tập</i>, Sđd, tập 8, tr.340.

[5]Hồ Chí Minh: <i>Thư gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp</i>,
ngày 22-12-1953, tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

[6] Archimedes L. A. Patti: <i>Tại sao Việt Nam</i>, Nxb. Đà Nẵng,
2001, tr.826.

[7] Về phía <b>Pháp</b>, Điện Biên Phủ được bố trí 49 cứ
điểm liên hoàn, có thể hỗ trợ nhau khi bị tiến công, có 17
tiểu đoàn bộ binh, đa số là lính Âu Phi thiện chiến, lính
dù tinh nhuệ và 116 khẩu pháo, cối các loại, 10 xe tăng cùng
các loại vũ khí, khí tài hiện đại khác như súng phun lửa,
súng đại liên nhiều nòng, mìn đĩa, mìn napan, máy ngắm hồng
ngoại…, hàng ngày được 50-60 máy bay vận tải tiếp tế từ
150 đến 200 tấn vật liệu chiến tranh và các đồ dùng quân
sự. Về phía <b>Việt Nam Dân chủ Cộng hòa</b>, Khối lượng
vật chất bảo đảm cho chiến dịch lên tới 20.000 tấn, trong
đó có 1.200 tấn đạn, 1.783 tấn xăng dầu, 14.950 tấn gạo, 268
tấn muối, 577 tấn thịt, 1.034 tấn thực phẩm và 177 tấn vật
chất khác; huy động hơn 260.000 dân công, trên 20 nghìn xe đạp
thồ, 17.000 ngựa thồ, trên 11.800 thuyền bè mảng và 628 xe ô
tô phục vụ vận chuyển hàng hoá, vũ khí đạn dược cho
chiến dịch. Các Đại đoàn bộ binh 308, 304, 312, 316, Đại
đoàn công pháo 351 được huy động cho chiến dịch (Bộ Quốc
phòng, Viện Lịch sử quân sự: <i>Lịch sử hậu cần kỹ
thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân
Pháp</i>, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 296, 279).

<b> [8]</b> <i> South Vietnam A Political History 1954-1970,</i> Keesing's
Research, Report (1970), p.3.

[9] Ngày 27-4-1954, Anh, Mỹ uỷ nhiệm Pháp gặp Liên Xô thỏa
thuận về thành phần Hội nghị. Trong cơ cấu Hội nghị, Anh,
Pháp, Mỹ loại VNDCCH. Nhờ sự nỗ lực của Liên Xô, ngày
2-5-1954, các nước chấp nhận sự có mặt của Việt Nam. Liên
Xô cũng tỏ ý không phán đối nếu QGVN, Vương quốc Lào và
Campuchia cử đại diện tham gia.

[10] Dẫn theo Qian Jiang: <i>Zhou Enlai and the Geneva Conference</i>,
p.110

[11] Ibid, p.110.

[12] Burchett, George and Shimmin, Nick: <i>Memoires of A Rebel Journalist:
The Autobiography of Wilfred Burchett</i>, University of New South Wales
Press, Sydney, New South Wales, 2005, p.190.

[13] <em> Nikita Khrushchev: Memoirs of Nikita Khrushchev,</em> volume 3
statesman (1953–1964), Pennsylvania State University Press, 2006, p.501.

[14] Burchett, George and Shimmin, Nick: <i>Memoires of A Rebel Journalist:
The Autobiography of Wilfred Burchett</i>, University of New South Wales
Press, Sydney, New South Wales, 2005, p.190.

[15] Hồ Chí Minh: <i>Toàn tập</i>, tập 8, Sđd, tr.475.

[16] Đảng cộng sản Việt Nam, <em>Văn kiện Đảng</em> <i>toàn
tập</i>, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 14, tr. 554

[17] <i>The Pentagon Papers,</i> Gravel Edition Volume 1, Chapter 5,
"Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954-1960" (Boston: Beacon
Press, 1971). Hiệp ước <i>Traité D'indépendance Du VietNam</i> có
nội dung như sau: 1- Nước Pháp thừa nhận nước Việt Nam như
là một quốc gia hoàn toàn độc lập có đủ mọi thẩm quyền
công nhận bởi công pháp quốc tế; 2- Nước Việt Nam thay thế
nước Pháp trong mọi quyền hành trong các hiệp ước, giao ước
mà nước Pháp đã nhân danh nước Việt Nam mà ký kết trước
đó về những khoản liên quan đến Việt Nam, cũng như không
bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này;
3- Nước Pháp cam kết trả lại mọi công vụ mà Pháp đang
chuyên trách tại Việt Nam; 4- Hiệp ước này có hiệu lực kể
từ ngày ký, hủy bỏ mọi văn kiện và quy định trước trái
ngược với hiệp ước này.

[18] Hiệp ước <i>Traité d'association Franco Vietnamienne</i>
thừa nhận Việt Nam thuộc Liên hiệp Pháp; Pháp và Việt Nam
đều bình đẳng, hai bên hợp tác tại Hội đồng tối cao Liên
hiệp Pháp; mọi xung đột, nếu có sẽ được giải quyết tại
Hội đồng trọng tài do hai bên cử ra.

[19] Ranh giới tạm thời chia cắt đất nước vĩ tuyến 17
(thay cho vĩ tuyến 13 theo yêu cầu ban đầu) và thời hạn hai
năm tổng tuyển cử (thay vì 6 tháng như đề nghị); VNDCCH phải
rút hết quân đội khỏi Lào và Campuchia

[20] Võ Nguyên Giáp, <i>Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch
sử</i>, Nxb Quân đội nhân dân, 2000, tr.428.

[21] Jean Lacouture, Philippe Devillers: <em>La Fin d'une guerre: Indochine
1954</em>, Éditions du Seuil, 1960, p.311.

[22] Wilfred Burchett, <i>The China Cambodia Viet Nam Triangle</i>, London:
Zed Press, 1981.

[23] Võ Nguyên Giáp, <i>Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch
sử</i>, Sđd, tr.429.

[24] The <em>Pentagon</em> Papers - <em>U.S.-Vietnam Relations</em>,
<em>1945</em>-<em>1967,</em> A <em>Study Prepared</em> by the
<em>Department</em> of <em>Defense.</em>

[25]Ibid<em>.</em>

[26]Ibid<em>.</em>

[27] <i>The Pentagon Papers</i>, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3, ,
"The Geneva Conference, May-July, 1954", (Boston: Beacon Press, 1971).

[28] Ibid.

[29]<i>The</i> <em>Pentagon</em> <i>Papers - </i><em>U.S.-Vietnam
Relations</em>, <em>1945</em>-<em>1967, </em>A <em>Study Prepared</em> by the
<em>Department</em> of <em>Defense.</em>

[30] <i> The Pentagon Papers</i>, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3.

[31] Ibid.

[32] <i>The Pentagon Papers</i>, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 5, Ibid.

[33] Ibid.

[34] Ibid.

[35] Linh Mục Trần Tam Tỉnh: <i>Thập giá và lưỡi gươm,
</i>Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tr.112.

[36] Việt Nam chưa đánh giá đúng ý đồ của Mỹ, cho rằng
sự can thiệp của Mỹ vào Đông Dương là nhằm xâm lược
Việt Nam, mà không biết rằng, bản chất sự can thiệp ấy là
để ngăn chặn "làn sóng đỏ" mà Trung Quốc là đầu tàu.
Vì thế, từ những năm cuối của cuộc chiến tranh Đông Dương
trở đi, Việt Nam luôn xác định Mỹ là kẻ thù trực tiếp,
nguy hiểm.

[37]А.О.Чубарьян, Н.И.Егорова: <i>Холодная
война. 1945—1963 гг. Историческая
ретроспектива</i>, Сб. Ст, ОЛМА-ПРЕСС, М. 2003,
C.285.

[38] Chen Jian: <i> China and the First Indo-China War, 1950-54</i>, p.110.

9-7-14

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140709/ha-mai-trai-dang-geneve-1954),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét