Nguyễn Gia Kiểng - Thoát Trung, nhưng coi chừng một sai lầm bi đát!

<blockquote>"… Nguyễn Tấn Dũng có thể không phải là người
nhiệt tình nhất với chính sách phục tùng Trung Quốc nhưng
cũng không ai có thể thân Trung Quốc hơn ông. Muốn "thoát Trung"
mà lại "phò Dũng" là rất sai, sai một cách bi
đát…"</blockquote>

<center><img
src="https://farm3.staticflickr.com/2918/14222413557_f5d5369f5a.jpg"
width="500"></center>
<center><em>...những lời tuyên bố mơ hồ, chung chung, vớ vẩn
của ông Dũng "thể hiện đúng ý chí của nhân dân
ta"...</em></center>


Một tháng rưỡi đã trôi qua kể từ ngày Bắc Kinh đưa giàn
khoan vào vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Giàn khoan vẫn còn đó những dư luận thế giới đã ngoảnh
sang những vấn đề khác. Bắc Kinh đã thành công một bước
trong tiến trình bình thường hóa sự chiếm đoạt các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa và vùng biển thuộc đặc quyền
kinh tế của Việt Nam. Bước tiến này mở đường cho những
hành động lấn chiếm khác.

Hành động của Bắc Kinh đáng lẽ là một sự dại dột và
đã phải thất bại bẽ bàng; không những thế còn tạo cho
Việt Nam một cơ hội để tái khẳng định chủ quyền trên
Hoàng Sa, Trường Sa và các quyền lợi chính đáng trên Biển
Đông theo qui định của luật pháp quốc tế. Trong những ngày
đầu khi Trung Quốc vừa đưa giàn khoan HD-981 vào hải phận
Việt Nam lập trường của các chính phủ -Hoa Kỳ, Châu Âu cũng
như các nước trong khu vực Thái Bình Dương- đã đồng thanh
lên án hành động của Trung Quốc như là một sự khiêu khích.
Ngược lại không một quốc gia nào bênh vực Trung Quốc cả.
Một cách mặc nhiên thế giới đã nhìn nhận Hoàng Sa và vùng
biển chung quanh không phải là của Trung Quốc, nghĩa là của
Việt Nam hay ít nhất có thể được coi là của Việt Nam.

Điều gì sẽ xảy ra nếu Việt Nam phản ứng một cách mạnh
mẽ, dù ôn hòa, đối với Trung Quốc và đưa vấn đề ra
trước Liên Hiệp Quốc? Chắc chắn Trung Quốc sẽ xấc xược
phủ nhận thẩm quyền của Tòa Án Công Pháp Quốc Tế
(International Court of Justice) và cũng sẽ sử dụng quyền phủ
quyết nếu Việt Nam đưa vấn đề ra Hội Đồng Bảo An. Nhưng
đó là tất cả những gì mà chúng ta chờ đợi. Trung Quốc sẽ
bị cô lập và lên án, chủ quyền của Việt Nam sẽ được
thừa về mặt tình cảm, Trung Quốc sẽ phải trả giá đắt
hơn nhiều nếu tái diễn sự khiêu khích. Có mọi triển vọng
là họ không dám tái diễn vì Trung Quốc vừa rất lệ thuộc
vào thế giới vừa không đủ mạnh để thách thức thế giới,
hơn nữa lại đang sắp đi vào một cuộc khủng hoảng lớn.
Tóm lại giàn khoan của Trung Quốc sẽ rút đi sau một vài tháng
chi phí tốn kém, sau khi bị lên án và khiến Việt Nam được
bênh vực.

Nhưng thực tế đã không như vậy bởi vì chính quyền cộng
sản Việt Nam đã không có phản ứng. Hành động xâm lược
của Trung Quốc vẫn tiếp tục và không còn lôi kéo sự chú ý
của thế giới nữa. Lần sau nếu tình trạng này lặp lại sự
chú ý của thế giới sẽ còn ít hơn. Lẽ phải lúc đó sẽ
chỉ là lý của kẻ mạnh.

Những gì chính quyền CSVN đã làm, như phổ biến một thư
luân lưu tới các thành viên LHQ một tháng sau khi sư kiện khởi
đầu, một vài tuyên bố nguyên tắc và một số tàu cá và
cảnh sát biển tới gần hiện trường, không đáng được coi
là một phản ứng. Ngay cả nếu chính quyền CSVN muốn dâng
biển và đảo cho Trung Quốc trong một thỏa hiệp ngầm họ
cũng khó có thể phản ứng yếu hơn.

Hành động của Trung Quốc vừa là một hành động lấn chiếm
vừa là một hành động chiến tranh bởi vì họ đem theo cả
hàng trăm tàu chiến và đánh phá các tàu của Việt Nam, kể
cả tàu của cảnh sát biển Việt Nam. Trước một biến cố
nghiêm trọng như vậy bất cứ một chính quyền nào trên thế
giới cũng đã phải thông tin và giải thích đầy đủ cho nhân
dân biết những gì xảy ra qua thông điệp long trọng của quốc
trưởng và thủ tướng cùng với những phát biểu của các bộ
trưởng và các cấp lãnh đạo chính trị để động viên toàn
dân đoàn kết trong cố gắng giữ nước, đồng thời lập tức
đưa vấn đề ra công pháp quốc tế.

Nhưng chúng ta đã thấy gì?

Ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hoàn toàn không nói gì
trước hội nghị trung ương của đảng cộng sản diễn ra
đúng lúc Trung Quốc đang trắng trợn xâm phạm vùng biển Việt
Nam và cũng không thấy có ủy viên trung ương đảng nào tỏ ra
bức xúc. Hình như đối với ông Trọng và đảng cộng sản
không có vấn đề gì cả.

Về phía nhà nước cả chủ tích nước lẫn thủ tướng đều
không tuyên bố gì với quốc dân. Quốc hội cũng không có
phản ứng. Ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang kêu ca trong
một buổi tiếp xúc với cử tri một quận rằng <em>"anh phải
rút đi chứ, nhà tôi chứ đâu phải nhà anh!".</em> Không khác
gì một người dân oan trong số hàng triệu dân oan của chế
độ. Ông chủ tịch thừa biết những tiếng kêu than này có
tác dụng gì. Ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ nói trước
hội nghị ASEAN một phần rất nhỏ những điều mà mọi
người đều đã biết và cũng không dám kêu gọi hậu thuẫn
của thế giới, sau đó cũng chỉ trả lời với ký giả nước
ngoài, tại nước ngoài, rằng <em>"không chấp nhận đánh đổi
chủ quyền để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển
vông, lệ thuộc".</em>Không một cấp lãnh đạo quốc gia nào
trong trường hợp Việt Nam khi ra nước ngoài và bị các ký
giả chất vấn có thể nói yếu hơn.

Ông đại tướng bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh
được một cơ hội bằng vàng để bảo vệ lập trường của
Việt Nam khi tham dự Đối Thoại Shangri-La 13. Trước đó cả
thủ tướng Nhật Shinzo Abe lẫn bộ trưởng quốc phòng Mỹ
Chuck Hagel đều đã mạnh mẽ tố giác hành động của Trung
Quốc và tuyên bố sẽ không để Trung Quốc lộng hành trên
Biển Đông, sẽ sẵn sàng giúp các nước trong vùng, kể cả
Việt Nam, phương tiện tự vệ. Một chính quyền Việt Nam quan
tâm bảo vệ chủ quyền không thể mong đợi nhiều hơn. Tuy
vậy ông Thanh đã tuyên bố rằng <em>"quan hệ giữa Việt Nam và
nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt
đang phát triển tốt đẹp"</em>và vụ giàn khoan HD-981 chẳng có
gì nghiêm trọng vì <em>"mỗi gia đình cũng còn có những mâu
thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng".</em>
Chẳng khác gì bảo Mỹ, Nhật và thế giới đừng xía vào, hãy
để mặc Việt Nam giải quyết với Trung Quốc. Nhưng giải
quyết như thế nào? Ông Thanh chỉ dám <em>"<u>đề nghị</u> Trung
Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế, thềm
lục địa của Việt Nam".</em> Thật khó có thể có một bộ
trưởng quốc phòng bất xứng hơn.

Bộ ngoại giao cũng không dám triệu tập đại sứ Trung Quốc
để phản đối dù đây phản ứng nhẹ nhất trong trường hợp
này. Các chính phủ triệu tập đại sứ trong những trường
hợp không quan trọng hơn nhiều; thí dụ như Bắc Kinh đã
triệu tập đại sứ Mỹ tại Trung Quốc để phản đối việc
năm sĩ quan Trung Quốc bị tố giác là có hoạt động gián
điệp. Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam là một đại sứ hay
một thái thú? Tệ hơn nữa, bộ ngoại giao còn làm một việc
rất vô ý thức là triệu tập <em>đại điện sứ quán Trung
Quốc</em> (nhấn mạnh: đaị diện sứ quán chứ không phải
đại sứ) sau khi một tàu cá Việt Nam bị đụng chìm ngày 26-5.
Như vậy là việc Trung Quốc tìm dầu trong hải phận Việt Nam
không nghiêm trọng bằng một chiếc tàu cá bị đụng chìm?
Chỉ một tháng sau khi hành động xâm lược của Trung Quốc
diễn ra phái bộ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc mới cho phổ
biến một thư luân lưu đến đại diện các nước, nhưng đây
cũng chỉ là một thông báo mà thôi chứ không kêu gọi một
hành động quốc tế nào cả.

(Đến đây xin mở một ngoặc đơn. Sự nhu nhược này không
phải do lỗi của bộ ngoại giao, mà là vì bộ ngoại giao không
có quyền quyết định. Chính sách cũng như hành động đối
ngoại hoàn toàn ở trong tay một một vài người trong bộ chính
trị; những người này khống chế được bộ máy đảng và
nhà nước và quyết định chính sách đối ngoại một cách
hoàn toàn bí mật. Ngay cả những cấp lãnh đạo, kể cả đa
số ủy viên trung ương đảng, cũng chỉ biết đến những thay
đổi định hướng đối ngoại rất lâu sau khi chúng đã thành
một thực tế. Cuối thập niên 1950 Lê Duẩn và Lê Đức Thọ
quyết định theo Trung Quốc (để có thể phát động nội
chiến) và thanh trừng những phần tử bị cáo buộc là "xét
lại chống đảng" vì thân Liên Xô. Không ai biết. Gần mười
năm sau họ đổi hướng 180 độ và theo Liên Xô chống Trung
Quốc. Cũng không ai biết. Năm 1984 sau khi Liên Xô bối rối
không bảo vệ được chế độ CSVN nữa, Nguyễn Văn Linh
được đưa trở lại bộ chính trị rồi trở thành tổng bí
thư để thực hiện chính sách đầu hàng và thần phục Trung
Quốc cùng với Lê Đức Anh và Đỗ Mười. Vẫn không ai biết.
Trí thức Việt Nam còn tung hô Nguyễn Văn Linh như một người
của đổi mới mà không biết rằng ông ta chỉ là người của
Trung Quốc).

Chính quyền CSVN đã không nói gì với nhân dân. Họ không cần
giải thích gì cả bởi vì họ không thấy có một bổn phận
nào đối với nhân dân Việt Nam cả; họ là một lực lượng
chiếm đóng và thống trị chứ không phải là một chính quyền
Việt Nam. Họ còn dùng bọn côn đồ - mà họ vẫn thường dùng
để hành hung những người dân chủ - để gây bạo động và
lấy đó làm cớ để cấm đoán những cuộc biểu tình của
những người yêu nước phản đối hành động xâm lược của
Bắc Kinh. Nếu họ thực sự là dụng cụ của Trung Quốc để
bán đứng đất nước họ cũng không thể làm khác.

Chúng ta có thể tự hỏi tại sao Trung Quốc lại làm như vậy?
Hành động của họ đáng lẽ phải là một hành động ngu
xuẩn rất có hại cho họ, nhưng họ đã thành công bởi vì họ
biết trước phản ứng của Hà Nội. Tất cả diễn ra như một
kịch bản đã được chuẩn bị trước.

Không thể loại trừ khả năng là giữa Bắc Kinh và Hà Nội
đã có những thỏa ước không được công bố và Bắc Kinh đã
dựa vào đó để hành động. Nếu không thì không ai có thể
giải thích tại sao chính quyền Hà Nội không đưa vấn đề ra
công pháp quốc tế dù sau hơn 20 lần tiếp xúc vẫn chỉ nhận
được một câu trả lời trịch thượng của Bắc Kinh là không
có gì để thảo luận cả vì họ hoàn toàn đúng. Người ta có
thể nghĩ như vậy khi đọc lại bản tuyên bố chung Việt –
Trung ngày 21/06/2013 sau chuyến thăm viếng Bắc Kinh của ông
Trương Tấn Sang:

<em>"Hai bên hoan nghênh <strong>Thỏa thuận sửa đổi</strong>
liên quan tới <strong>Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực
thỏa thuận</strong> ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký
kết giữa doanh nghiệp hữu quan hai nước, <strong>nhất trí mở
rộng diện tích khu vực thỏa thuận</strong>, kéo dài thời hạn
thỏa thuận, cùng nhau thúc đẩy hoạt động thăm dò chung đối
với cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định trong Vịnh
Bắc Bộ sớm đạt được tiến triển tích cực". </em>(Tác
giả tô đậm những cụm từ đáng chú ý).

Thỏa thuận sửa đổi nào? Thoả thuận thăm dò chung nào? Khu
vực thỏa thuận nào? Mở rộng diện tích khu vực thỏa thuận
tới đâu? Nhân dân Việt Nam không được biết, tất cả đều
chỉ là những cam kết dấm dúi giữa Đảng Cộng sản Việt Nam
và quan thày Trung Quốc của họ. Cũng không nên quên câu nói
của thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh - một người rất thận
cận với ông Dũng đồng thời cũng là một trong những người
nhiều quyền lực nhất hiện nay - đại diện Việt Nam trong
cuộc đàm phán Việt – Trung năm 2012: <em>"Việt Nam không còn
bất cứ băn khoăn gì khi hợp tác với Trung Quốc trên mọi
lĩnh vực </em>".Không còn bất cứ băn khoăn nào, vậy việc
Trung Quốc chiếm Hoàng Sa và Trường Sa coi như đã xong? Nếu
quả thực như thế thì Trung Quốc có quyền làm những gì họ
đang làm. Có những lúc mà ngôn ngữ không đủ để nói lên
sự ngạc nhiên và phẫn nộ.

Cũng đáng ngạc nhiên và thất vọng không kém là thái độ
của nhiều trí thức Việt Nam. Họ chống ách lệ thuộc Bắc
Kinh và muốn "thoát Trung" nhưng lại ủng hộ Nguyễn Tấn Dũng.
Đối với họ Nguyễn Tấn Dũng là người tiến bộ, thân
phương Tây và dám đối đầu với Bắc Kinh. Lý do là vì ông
đã gửi con đi du học Mỹ, đã gửi thông điệp đầu năm nói
tới "đổi mới thể chế" và "xây dựng dân chủ" và mới đây
đã công khai phản đối việc Trung Quốc vi phạm vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam, sau đó lại tuyên bố không chấp
nhận quan hệ lệ thuộc.

Tại sao lại có thể nông cạn và dễ tính đến thế được?
Việc ông Dũng gửi con sang du học tại Mỹ không chứng minh gì
cả; phần lớn các lãnh tụ chóp bu Nga và Trung Quốc cũng làm
như thế, chính bản thân Tập Cận Bình cũng đã thực tập
tại Mỹ. Chính quyền Trung Quốc cũng vừa tiết lộ là có hơn
một nghìn quan chức tỉnh Quảng Đông gửi con du học các
nước phương Tây. Gửi con đi học tại Mỹ không có nghĩa là
thân Mỹ. Mà dù có được đào tạo tại phương Tây cũng không
có nghĩa là đã trở thành người dân chủ. Cho tới thập niên
1980 hầu như tất cả các chế độ Châu Mỹ La Tinh đều là
những chế độ độc tài mafia do những kẻ tốt nghiệp tại
các trường đại học Mỹ cầm đầu. Bachar al Assad, tên độc
tài khát máu tại Syria, tốt nghiệp tại Anh. Giáo dục quả
nhiên thay đổi cách suy nghĩ nhưng thường phải một hai thế
hệ. Người ta cố tình gán cho Nguyễn Tấn Dũng những chủ
trương mà ông không bao giờ có, hơn nữa còn chống lại một
cách hung bạo. Có những vị hân hoan vì ông Dũng nói tới "phát
huy dân chủ" trong bài thông điệp đầu năm, nhưng đó hoàn
toàn chỉ là thứ dân chủ mà ĐCSVN đã nói tới từ thời
Việt Nam Dân Chủ Công Hòa, nghĩa là dân chủ kiểu xã hội
chủ nghĩa, cái dân chủ mà bà Nguyễn Thị Doan đánh giá là ưu
việt gấp triệu lần dân chủ đa nguyên đa đảng. Hoàn toàn
không có gì mới. Điều chắc chắn là ông Nguyễn Tấn Dũng
đã tuyên bố <em>"nhất định không để nhen nhúm những tổ
chức đối lập".</em> Đó là xây dựng dân chủ? Cũng đừng
quên rằng chính ông Dũng đã ký quyết định 97/2009/QĐ-TTg cấm
phản biện và khai tử nhóm IDS.

Ca tụng ông Dũng là dám chống Trung Quốc cũng chỉ là lấy mơ
ước làm sự thực, hay tệ hơn nữa là tán tụng kẻ có
quyền, một thái độ chẳng có gì đáng tự hào. Về vụ HD-981
ông Dũng đã chỉ nói một phần nhỏ những điều mà mọi
người đã biết. Còn câu "<em>không chấp nhận đánh đổi chủ
quyền để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông,
lệ thuộc"</em>thì quả là vớ vẩn. Có gì là khảng khái? Ai
có thể nói ngược lại? Ông Dũng còn phải cố gắng nhiều,
rất nhiều, nếu muốn chứng tỏ thực tâm bảo vệ chủ quyền
dân tộc.

Điều chắc chắn là ông Dũng đã góp phần quyết định đưa
Việt Nam đi sâu vào thế lệ thuộc Trung Quốc. Lệ thuộc Trung
Quốc là chọn lựa chiến lược của ĐCSVN từ giữa năm 1984
và là trách nhiệm chung của các bộ chính trị từ đó. Nhưng
cũng có những điều chủ yếu thuộc trách nhiệm của hành
pháp, nghĩa là thủ tướng. Như cho Trung Quốc thuê dài hạn
rừng đầu nguồn; cho Trung Quốc thuê những vùng biển rộng
lớn để khai thác hải sản; cho các doanh nghiệp Trung Quốc
đưa công nhân ồ ạt sang Việt Nam và tổ chức như những khu
riêng của người Hoa; cho người và hàng hóa Trung Quốc vào
Việt Nam không kiểm soát; xuất khẩu hàng hóa Trung Quốc mang
nhãn <em>made in Vietnam</em> sang Hoa Kỳ và Châu Âu đưa thâm
thủng mậu dịch với Trung Quốc lên 24 tỷ USD; cho Trung Quốc
trúng thầu gần hết các dự án và sau đó thi công một cách
bê bối v.v. Cũng đừng quên Nguyễn Tấn Dũng là người bảo
vệ dự án Bô-xit Tây Nguyên một cách quả quyết nhất, tuyên
bố <em>"dự án này phải tiếp tục vì là một chủ trương
lớn của Đảng".</em> Đinh Đăng Định chỉ có tội phản đối
dự án này mà bị cầm tù tới chết. Riêng về điểm này
phải nhìn nhận là ông Trương Tấn Sang đã tỏ ra có trách
nhiệm hơn và phần nào đã bênh vực những người phản đối.
Điếu Cày có tội gì mà bị xử tới 12 năm tù sau khi đã ở
tù 3 năm? Anh chẳng viết hay tuyên bố gì đáng nói. Tội duy
nhất của Điếu Cày là đã tổ chức những cuộc biểu tình
chống ngọn đuốc Thế Vận Bắc Kinh 2008. Nguyễn Xuân Nghĩa
bị xử 6 năm tù -và còn bị công an cho thường phạm đánh
trong tù- chỉ vì căng những biểu ngữ <em>"Hoàng Sa Trường Sa
Việt Nam".</em> Không thể nói rằng đây là chính sách của
Đảng; chính sách phục tùng Trung Quốc là của Đảng nhưng sự
hung bạo là của Nguyễn Tấn Dũng. Cũng không nên quan trọng
hóa quá đáng vai trò của bộ chính trị. Ông Dũng chẳng coi
bộ chính trị ra gì, bộ chính trị muốn kỷ luật ông mà
không được, muốn đưa hai ông Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình
Huệ vào bộ chính trị cũng không được. Nguyễn Tấn Dũng
mạnh hơn bộ chính trị vì kiểm soát được đa số trong ban
chấp hành trung ương. Ai thắc mắc điều này có thể nhìn vào
những bản án dành cho Trần Huỳnh Duy Thức và Cù Huy Hà Vũ.
Duy Thức sử dụng tài liệu do văn phòng Trương Tấn Sang cung
cấp để tố cáo Nguyễn Tấn Dũng tham nhũng và lãnh 16 năm tù
trước sự bất lực của phe Trương Tấn Sang, Hà Vũ đòi kiện
Nguyễn Tấn Dũng về vụ Bô-xit và lãnh 7 năm dù thuộc diện
con cháu công thần và được nhiều che chở ngay trong đảng.
Bản hiến pháp mới vừa có hiệu lực từ đầu năm nay trong
đó nét đậm nhất là rập khuôn theo chế độ Trung Quốc cũng
là do ông Dũng đưa ra trước đại hội Đảng thứ 11; chỉ có
điều là sau đó có quá nhiều vụ bê bối bị phát giác khiến
ông không giành được chức tổng bí thư đảng như dự tính.

Cũng Nguyễn Tấn Dũng vừa ra chỉ thị cấm biểu tình phản
đối Trung Quốc xâm phạm hải phận Việt Nam. Tại sao cấm
những cuộc biểu tình chính đáng này? Và tại sao không thấy
trí thức trong nước nào lên tiếng mạnh mẽ phản đối quyết
định này? Ông Dũng viện cớ ngăn ngừa những bạo loạn như
dã xảy ra tại Bình Dương, nhưng ai điều động bọn côn đồ
đập phá? Bọn này rõ ràng là được công an bảo kê. Chúng
chỉ có vài chục đứa mà dám đến các doanh nghiệp đòi phải
để công nhân ngừng làm việc để đi biểu tình và khi được
trả lời là công nhân đã đi biểu tình rồi thì đòi vào khám
nhà máy xem còn công nhân không. Nhà máy cầu cứu thì được
công an lời là <em>"không thể làm gì cả"</em>. Tại sao công an
lại không thể làm gì cả, trừ khi được lệnh cấm can
thiệp? Rồi sau những thiệt hai to lớn đã có sĩ quan công an
nào bị khiển trách không? Bình thường trước một sư kiện
nghiêm trọng như vậy chính bộ trưởng công an phải tự kiểm
điểm, thậm chí phải từ chức hoặc bị cách chức. Nên nhớ
rằng công an hoàn toàn ở trong tay ông Dũng. Giải thích hợp lý
nhất là chính ông Dũng đã tạo ra những cuộc bạo loạn này
để có cớ cấm những cuộc biểu tình chống Trung Quốc. Nhưng
giải thích này có thể chưa đủ. Có thể còn có cả sự phối
hợp với Trung Quốc - cả trong vụ giàn khoan HD-981 lẫn những
diễn tiến sau đó - để tạo ra một tình trạng căng thẳng
vừa biện minh cho sự suy sụp kinh tế không thể che giấu
được nữa vừa giúp Nguyễn Tấn Dũng lấy cớ vãn hồi an ninh
trật tự làm một cuộc đảo chính – công khai hoặc ngầm -
thu tóm mọi quyền lực trong tay và vô hiệu hóa các đối thủ.
Rất có thể. Bởi vì Trung Quốc không thể tìm được một
đồng minh lý tưởng hơn ông Dũng, ông vừa hợp tác tận tình
với Trung Quốc vừa thẳng tay đàn áp những người chống Trung
Quốc. Ai cũng phải thấy là vụ giàn khoan HD-981 đã chỉ có
lợi cho Nguyễn Tấn Dũng.

Nguyễn Tấn Dũng có thể không phải là người nhiệt tình
nhất với chính sách phục tùng Trung Quốc nhưng cũng không ai
có thể thân Trung Quốc hơn ông. Muốn "thoát Trung" mà lại "phò
Dũng" là rất sai, sai một cách bi đát.

Có thể nói gì thêm về Nguyễn Tấn Dũng?

Khi lên làm thủ tướng ông tuyên bố nếu không dẹp được
tham nhũng ông sẽ từ chức. Thực tế là tham nhũng không giảm
đi, cũng không thể nói là tăng lên, mà phải nói là đã bùng
nổ dưới chính phủ của ông Dũng. Hối lộ, vơ vét, móc
ngoặc, mua quan bán chức đã trở thành qui luật dưới chính
quyền Nguyễn Tấn Dũng. Phải nói một cách thật rõ rệt: nếu
không dẹp được tham nhũng thì đất nước không có tương lai.
Nguyễn Tấn Dũng không dẹp mà còn giúp tham nhũng bành trướng.
Như vậy không thể viện dẫn bất cứ lý do nào để ủng hộ
ông.

Ông Dũng đã khởi xướng ra "sáng kiến" dùng bọn côn đồ
làm cánh tay nối dài của công an để hành hung dân oan và
những người dân chủ. Tôi được nghe hai tiếng "đầu gấu"
lần đầu tiên từ ông Hoàng Minh Chính qua điện thoại năm
2002. Ông Chính cùng các thân hữu tới tòa án ủng hộ Lê Chí
Quang đang bị xét xử. Ông la lên: <em>"Chúng nó dùng bọn đầu
gấu đánh anh em dân chủ!"</em>. Lúc đó ông Dũng vừa lên làm
phó thủ tướng nhưng quyền lực át hẳn ông thủ tướng rất
lu mờ Phan Văn Khải. Vài năm sau chính ông Hoàng Minh Chính cũng
bị bọn đầu gấu xô đẩy và bị ném đồ dơ bẩn khi đi
chữa bệnh ở Mỹ về, người nhà bị hành hung. Hiện tượng
đầu gấu liên tục phát triển cùng với quyền lực của ông
Dũng, đến mức giờ đây khó phân biệt công an và côn đồ.
Hầu như không có người dân chủ trẻ nào không bị đánh, kể
cả các phụ nữ như Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Hoàng Vi.

Dưới chính quyền của ông Dũng công an trở thành hung bạo.
Hiện tượng tra tấn nghi can, dùng thường phạm đánh chính
trị phạm trong nhà tù, đánh người, thậm chí đánh chết
người, trong đồn công an ngày càng trở thành bình thường.
Đó chủ yếu là thành quả của ông Dũng. Không thể nói rằng
trách nhiệm của ông Dũng chỉ là đã không kiểm soát được
công an. Ông nắm rất vững lực lượng công an, ông xuất thân
là một công an và từng là thứ trưởng trực bộ công an. Công
an không thể làm những gì mà ông cấm.

Nhiều người nói hãy cứ tập trung phát triển kinh tế rồi
sẽ có dân chủ. Những người này không hiểu kinh tế và nói
bậy. Nhưng ngay cả như thế thì Nguyễn Tấn Dũng cũng không
phải là người lãnh đạo quốc gia chấp nhận được. Ông tỏ
ra rất thiếu bài bản về kinh tế.

Một vài thí dụ:

- Ít lâu sau khi chính thức lên làm thủ tướng ông sang thăm
Mỹ và tìm gặp Alan Greenspan, vừa mãn nhiệm kỳ chủ tịch
ngân hàng trung ương Mỹ, để chiêm ngưỡng một thiên tài kinh
tế. Chỉ một thời gian ngắn sau thế giới nhận ra Alan
Greenspan là thống đốc tồi nhất từ một thế kỷ và đã gây
ra cuộc khủng hoảng toàn cầu chưa từng có.

- Cuối năm 2007 ông Dũng tung ra 150 nghìn tỷ đồng để mua 9
tỷ USD làm cả nước điêu đứng vì vật giá tăng vọt, lý do
là để "hỗ trợ đồng đô la" vì sợ hối suất đồng đô la
Mỹ sẽ giảm sút nghiêm trọng so với đồng tiền Việt Nam;
dự đoán này sai một cách lố bịch vì điều ngược lại đã
xảy ra. Đồng đô la lúc đó bằng 15.000 đồng Việt Nam, ngay
sau đó nó đổi lấy 18.500 đồng.

- Cuối năm 2008 chính phủ của ông Dũng trổ tài một lần
nữa. Thấy thực phẩm lên giá đột ngột họ ra lệnh cấm
xuất cảng gạo vì nghĩ rằng giá gạo sẽ còn tăng thêm và
sợ bán hố. Sau đó thì giá gạo xuống nhanh và nông dân khốn
khổ. Thực ra giá thực phẩm chỉ biến động trong một thởi
gian ngắn, ngay lúc ông Dũng lấy quyết định ngớ ngẩn đó
thị trường gạo đã trở lại bình thường rồi.

- Năm 2009 ông Dũng tung ra "gói kích cầu" 8 tỷ USD để kích
thích tăng trưởng kinh tế. Theo lời bộ trưởng Kế Hoạch và
Đầu Tư Bùi Quang Vinh thì số tiền 8 tỷ USD này đã mất toi
và <em>"doanh nghiệp bây giờ chết hết rồi".</em>

Sai lầm tai hại nhất của ông Dũng là lập ra những tập
đoàn lớn, bắt chước các chaebol của Hàn Quốc dù không có
những cấp lãnh đạo tương xứng và cũng không có cả những
công ty đúng nghĩa. Kết quả là tất cả 127 tập đoàn đều
lỗ nặng vì chỉ là những ổ lãng phí và tham nhũng. Chúng
đang gánh một tổng số nợ gần 100 tỷ USD. Ai sẽ trả cái
giá kinh khủng của sự ngu dốt này nếu không phải là thế
hệ đang lớn lên? Trung bình mỗi người Việt Nam sẽ phải
trả 1000 USD (22 triệu đồng) vì sự bất tài, tham nhũng và
tính vĩ cuồng của chính quyền Nguyễn Tấn Dũng. Trong kỷ
nguyên tri thức này không một quốc gia nào có thể chấp nhận
một người lãnh đạo thiếu hiểu biết như ông Dũng mà không
tàn lụi. Ngày nay người ta không còn có thể nói là đã có
các cố vấn vì các vấn đề đã trở thành quá phức tạp và
các dữ kiện thay đổi quá nhanh chóng. Muốn tuyển chọn các
cố vấn có thực tài và sau đó trọng tài giữa các đề nghị
phức tạp thì bắt buộc phải có một trình độ nào đó mà
ông Dũng hoàn toàn không có.

Điều quan trọng cần được đặc biệt lưu ý là Việt Nam
vừa để mất một cơ hội bằng vàng để vươn lên. Năm 2007,
sau khi Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới vốn
và kỹ thuật nước ngoài đã ồ ạt đổ vào nước ta. Khối
lượng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam lớn hơn tổng số
đầu tư vào tất cả các nước trong vùng. Khối lượng đầu
tư nước ngoài to lớn này có lúc đã tạo ra ảo tưởng, nhưng
sau đó sự bất tài, tham nhũng và những vụ án chính trị thô
bạo đã khiến các nhà đầu tư chán ngán bỏ đi. Họ sẽ chỉ
trở lại nếu Việt Nam thay đổi chế độ chính trị.

Đặc tính nổi bật và phải lên án nhất của ông Dũng là
sự hung bạo đối với những người dân chủ. Những vụ
trước đây bị xử 2 hoặc 3 năm – như thế đã là rất thô
bạo vì các nạn nhân hoàn toàn vô tội - có thể bị xử trên
10 năm trong mấy năm gần đây sau khi ông Dũng đã thu tóm
được phần lớn quyền lực trong tay. Vào năm 2007 Lê Thị Công
Nhân bị xử 3 năm tù, Nguyễn Văn Đài 4 năm, nhưng từ năm 2010
trở đi Trần Huỳnh Duy Thức bị xử 16 năm, Điếu Cày 15 năm,
Tạ Phong Tần 10 năm, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm, Đỗ Thị
Minh Hạnh 7 năm. Sự hung bạo đã tăng gấp ba.

Tóm lại Nguyễn Tấn Dũng là một người rất thiếu kiến
thức và khả năng, rất tham nhũng, rất tận tình với Trung
Quốc và rất hung bạo đối với những người dân chủ và
những người chống chính sách lệ thuộc vào Bắc Kinh. Hơn
nữa còn là người đã gây thiệt hại lớn nhất - về mọi
mặt kinh tế, xã hội, đạo đức và môi trường - cho đất
nước từ hơn mười năm nay. Người ta có thể không dám đả
kích ông Dũng vì ông là người đầy quyền lực và rất hung
bạo, nhưng ủng hộ và ca tụng ông là chuyện khác.

Làm sao không khỏi phiền lòng khi đọc thư ngỏ của nhiều
trí thức có uy tín đánh giá những lời tuyên bố mơ hồ, chung
chung, vớ vẩn của ông Dũng <em>"thể hiện đúng ý chí của
nhân dân ta".</em> Ý chí của nhân dân ta đâu phải chỉ có
thế. Hay khi đọc lời thuật rằng <em>"cuộc hội thảo về
"thoát Trung" là do cảm hứng vì những lời tuyên bố của thủ
tướng".</em> Cảm hứng quá hời hợt. Và làm sao có thể thảo
luận về "thoát Trung" nếu, như ban tổ chức yêu cầu, không
được phép phê phán một chính quyền coi phụ thuộc Trung Quốc
là điều kiện để tồn tại? Cần nhấn mạnh lệ thuộc Trung
Quốc không phải là yêu cầu của nhân dân Việt Nam mà chỉ là
nhu cầu sống còn của chế độ cộng sản.

Các trí thức đang ủng hộ ông Dũng và muốn ông Dũng có thế
mạnh hơn nữa phải rất cảnh giác. Họ có thể sắp được
mãn nguyện đấy, nhưng đó sẽ chỉ là một thảm kịch cho
đất nước.

Để kết luận, xin có một lời cải chính nếu những gì vừa
viết ở trên có thể khiến độc giả nghĩ rằng tôi bi quan.
Không, tôi không hề bi quan. Trái lại tôi tin rẳng chúng ta có
thể lạc quan. Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh lịch
sử quan trọng, hạn kỳ dân chủ có thể rất gần.

Dù muốn hay không Trung Quốc cũng sẽ không thể là một chỗ
dựa cho chế độ cộng sản Việt Nam nữa. Trung Quốc đã tích
lũy quá đủ mâu thuẫn và khó khăn và đang sắp đi vào một
cuộc khủng hoảng rất lớn. Khủng hoảng kinh tế, tài chính
và môi trường. Khủng hoảng mô hình, chính trị, đồng thuận
và căn cước. Chính sự thống nhất của Trung Quốc cũng sẽ
không được bảo đảm. Trung Quốc sẽ phải dồn mọi cố
gắng để lo cho chính mình và sẽ không còn sức lực và ý chí
để tiếp tục chính sách bành trướng bá quyền. Dù muốn hay
không quan hệ lệ thuộc Việt Trung cũng sẽ phải chấm dứt.
Vấn đề lớn của chúng ta không phải là "thoát Trung" mà là
"giải Cộng" nghĩa là chấm dứt chế độ độc tài đảng trị
trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc.

Ngay cả nếu kịch bản Nguyễn Tấn Dũng thâu tóm mọi quyền
lực xảy ra thì nó cùng lắm cũng chỉ có thể làm chậm lại
đôi chút chứ không thể ngăn chặn tiến trình dân chủ hóa.
Nó sẽ chỉ là một sự chuyển hóa từ độc tài đảng trị
sang độc tài cá nhân, và sự chuyển hóa này cũng chỉ là một
chặng đường quen thuộc trong tiến trình đào thải của các
chế độ độc tài.

Chúng ta còn một lý do quan trọng khác để tin tưởng: một
tầng lớp trí thức chính trị, tầng lớp mà chúng ta chưa bao
giờ có trong suốt dòng lịch sử, đang hình thành. Đó là
những trí thức trẻ. Họ hiểu biết về chính trị và tình
hình thế giới hơn hẳn thế hệ cha anh, không ràng buộc với
chế độ, không khiếp sợ cũng không trông đợi gì ở bạo
quyền và thẳng thắn chọn lựa dân chủ. Họ đã nắm được
chìa khoá của tương lai, kể cả tương lai rất gần. Sự
chuyển giao thế hệ sắp hoàn tất. Đất nước phải thay đổi
vì đã thay da đổi thịt.

Kỷ nguyên tự do dân chủ sắp mở ra và các thế hệ mai sau
sẽ nhận diện những con người của đất nước hôm nay. Ở
thời điểm này quỵ lụy, luồn cúi không chỉ là bệ rạc mà
còn là dại dột.

<strong>Nguyễn Gia Kiểng</strong>
<em>(06/2014)</em>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140613/nguyen-gia-kieng-thoat-trung-nhung-coi-chung-mot-sai-lam-bi-dat),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét