Lịch sử dân tộc Uyghur / Duy Ngô Nhĩ

<strong>Uyghur là một dân tộc Trung Á sống chủ yếu ở khu tự
trị Tân Cương, Trung Quốc. Trong lịch sử, tên gọi "Uyghur"
được dùng để chỉ các bộ lạc nói tiếng Turk sống tại khu
vực dãy núi Altay. Cùng với người Kokturk, người Uyghur là
một trong các nhóm gốc Turk lớn nhất và tồn tại lâu nhất
tại vùng Trung Á.</strong>

<img
src="http://i1150.photobucket.com/albums/o617/redsvn/slide/slide-uyghur.jpg"
width="0">

<img
src="http://i1150.photobucket.com/albums/o617/redsvn/slide/slide-uyghur.jpg"
width="100%">

<a href="http://reds.vn"><img
src="http://i1150.photobucket.com/albums/o617/redsvn/red.png" width="0"></a>

<strong>Con Đuờng Tơ Lụa</strong>

Con Đường Bạch Ngọc/Nephrite Road và Con Đường Lam Ngọc/Lapis
Lazuli, nối Khotan, Afghanistan và Ấn Độ đã có từ 3000 năm
đến 5000 năm truớc. Năm 126 Trứơc Công Nguyên, nhà Tây Hán
phái Trương Khiên đi tìm đám Yuezhi/Nguyệt Chi làm đồng minh
giúp chống Hung Nô/Mông Cổ. Người Yuezhi đã quá chán ngán
chiến tranh nên từ chối. Tuy mục đích quân sự không đạt
đựoc, nhưng kết quả khác hết sức bất ngờ: Con Đường Tơ
Lụa nối dài Con Đường Bạch Ngọc. Từ đó, với chiều dài
7000km từ Nhật Bản đến La Mã, những đô thị, thành phố,
vương quốc nở rộ như những bó hoa đầy hương sắc. Cũng
từ đó, nảy sinh tranh giành quyền lực giữa các đế quốc
vói những nền văn minh, giữa các thương nhân và các bộ lạc
du mục.

Tuy con đường này mất dần vị thế kinh tế và chấm dứt
khoảng thế kỷ thứ 14, tranh giành quá khứ còn để lại
những cơn địa chấn. Mới đây, biến cố ở thủ phủ Urumchi
thuộc Tân Cương/Xinjiang ngày 6 tháng bẩy 2009, con số chính
thức, từ chính quyền Trung quốc, 197 người chết, "đa số
là người Hán". Số người chết/bị thương/bị cầm tù dù
Hán hay Uyghur, cũng đều là những vết máu bầm trên khuôn mặt
đau thương của nhân loại. Là thủ đô non trẻ trong lòng
Turkestan trăm ngàn năm tuổi, Uyghur bướng bỉnh như một con
ngựa Tây Vực, mà lòng trung với chủ cũ là một thách đố
với bất cứ ai muốn ghìm cương, đó là lý do Uyghur hứng
chịu đòn thù.

Thờ ơ và thiên kiến cũng tàn nhẫn như những lớp tuyết
lớp cát thản nhiên phủ cơn thịnh nộ lên mớ tri thức ít oi
của loài người về văn minh Turkestan, miền đất vinh dự
chứng kiến hai tộc da vàng/da trắng hợp chủng, cũng là nơi
tiếp nhận nhiều nền văn minh rạng rỡ nhất của nhân loại,
La Mã, Hy Lạp, Ba Tư, Trung Hoa. Thủ đô Ürümqi nhỏ bé 10,989
km2, chia sẻ mẫu số chung bí mật của đất mẹ Turkestan, mà
hé mở nào cũng là một thách đố đầy huyền bí. Những địa
danh Turkestan có số phận không phải tầm thường, hoặc tung
cát theo vó ngựa phiêu lưu hàng ngàn dặm khỏi nơi khai sinh;
hoặc chỉ còn là cái bóng của một thời đế quốc, hoặc bị
chủ mới gán ghép miễn cuỡng.

<strong>Từ Uyghur đến Hui đến Hồi</strong>

Trong suốt hàng chục ngàn năm, những sắc dân du mục di
chuyển, tan rã, kết hợp…Bị xô đẩy vào hết bộ lạc này
đến đế quốc khác, địa danh nào ở Turkestan cũng có nhiều
tên: tên tự xưng, tên thời bộ lạc, tên thời đế quốc, tên
Ba Tư, tên Ả Rập, tên Latin, tên Trung Hoa…Tên nào cũng có ý
nghĩa trong một giai đoạn lịch sử nhất định, ví dụ: East
Turkestan cho thời độc lập, và Xinjiang (Tân Cương) khi đã bị
sát nhập vào Trung Quốc.

Cư dân ở East Turkestan có tên tự xưng là Oguz, được phiên
âm thành nhiều dạng: Uighur, Uighuir, Uygur, Uyghur, Uigur, Uiguir,
Urguys. Người Uyghur dùng chữ viết Arabic/Ả rập từ thế kỷ
11. Tuy không đọc được tiếng Ả Rập, người viết vẫn để
trong bài vì tôn trọng dân tộc này; vì nét chữ đẹp như một
bức tranh thêu tay. Trong bài dùng Uyghur để thống nhất với
truyền thông quốc tế

Người Uyghur: حُوِ ذَو

Sắc tộc Uyghur: ئۇيغۇر

Tôn giáo Islam: الإسلام‎

Muslim: tín đồ Islam: مسلم

Thời nhà Nguyên, học giả Trung Hoa phiên âm Uyghur thành
Wéiwú'ěr, viết 回回,đọc Huihui, Hủi Hử, rút ngắn là Hui
hay Hủi. Chữ này có nguồn từ chữ HuiE 回纥 hay 回鶻, đọc
Hủi I, có nghĩa chim ưng, khi người Uyghur tự ví nhanh như chim
ưng vồ mồi.

"Sắc tộc Uyghur", Quan Thoại víết 回族, đọc Huê Chù hay
Hủi Yù; Quảng Đông đọc Wùi Truc.

"Tôn giáo của người Uyghur", Quan Thoại viết 回教, đọc
Huê Cháo hay Huỉ Chào; Quảng Đông đọc Wùi Cao. Hiện nay
người Trung Hoa không dùng Huê Cháo/Huỉ Chào nữa, mà dùng
Yīsīlán jiào: tôn giáo Islam.

Cũng xin nói thêm, những phát âm Hui/Hủi Hử/Hủi I – Huê
Chù/Hủi Yù/Wùi Truc – Huê Cháo/Hủi Chào/Wùi Cao hoàn toàn do
một người bạn Trung Hoa cung cấp. Theo chị, ngay phát âm Trung
Hoa cũng thay đổi tuỳ miền. Khi người viết ghi lại bằng
tiếng Việt, cũng không thể hiện trung thực 100% những âm
tiếng Việt không có.

Hồi nào tới giờ người Việt nhìn thế giới qua lăng kính
Trung Hoa. Người Hoa gọi thế nào, người mình gọi theo thế
ấy. Tiếng Hoa phiên âm Uyghur thành Wéiwú'ěr, có lẽ từ đó
người Việt đọc thành Duy Ngô Nhĩ. Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư ghi Hồi Ngột, có lẽ từ chữ Huihui. Truyền thông Việt
vẫn đang dùng một chữ rất ngộ nghĩnh: Hồi Hột.

Cũng theo người bạn Trung Hoa, chữ Huihui ban đầu mô tả
vương quốc và người Uyghur ở Tân Cương. Từ thời nhà
Đường (618-907) đến thời nhà Nguyên (1271-1368), chỉ các
thương nhân Islam đến từ Trung Đông. Ngày nay người Hoa không
còn dùng Huihui nữa.

Như vậy, bản tin tiếng Việt, ví dụ "<em>chính phủ Hồi
giáo ở Islamabad</em>", hiểu "đúng" sẽ lùi đến … bẩy
thế kỷ: thính giả/độc giả đang ở vào thời nhà Nguyên,
người Hui ở nội địa Trung Hoa đang lãnh đạo chính phủ
Pakistan. Điều hơi kẹt: Pakistan mới đuợc thành lập năm 1947;
chỉ là một trong số quốc gia nhận Islam làm quốc giáo:
Afghanistan, Iran, Mauritania, Saudi Arabia và Yemen.

Bài này, vì vậy sẽ dùng Islam và Muslim thay vì "Hồi giáo,
người Hồi, Hồi Hột", vì ba lý do: (a) ngay cả người Hoa
không còn dùng Huihui, Huỉ Chào, (b) nằm ngoài ý muốn của
cộng đồng người Việt-Chămpa Muslim, (c) không giúp truy cập
thông tin trên internet.

<strong>Địa bàn vùng Turkestan</strong>

Địa bàn Turkestan gồm hàng ngàn bộ lạc Turkic trải từ Âu
sang Á, thảo nguyên/sa mạc/ núi non từ Nam Siberi, tây Mãn Châu,
Nội Mông, Tân Cương đến Cam Túc. Xương của người Neandertal
ở Samarkand có tuổi 150,000 năm và tiệt chủng khoảng 35,000
trước. Đây là một miền đất phức tạp, không ngớt binh
đao, một mặt những đế quốc huy hoàng dựng lên rồi tàn
lụi, một mặt cư dân có những tiến bộ lẫy lừng về khoa
học kỹ thuật, mỹ thuật kiến trúc, kinh tế thưong mại. Len
lỏi giữa thảo ngưyên xanh mướt và sa mạc nóng bỏng, Con
Đường Tơ Lụa ẩn hiện như giải lụa mềm nuôi sống, giữ
gìn và thăng hoa những cây trái ngon ngọt nhất của tri thức
loài người thuở ấy.

<strong>Người Turk, Turkic và Turkish</strong>

Không phải chỉ Uighur/Uygur/Uigur và Huihu/Huihe/Hồi, những tên
có chữ "Turk" cũng có ý nghĩa riêng tuỳ khu vực địa lý.

<strong>Turkic</strong> là ý niệm về toàn thể khối 165 triệu
người Turks, không phân biệt quốc tịch.

<strong>Turkish</strong> là tên của 74 triệu công dân mang quốc
tịch của nước Cộng Hoà Turkey, nhưng không phải tất cả
công dân của Turkey đều là người Turk. Dễ hiểu hơn, có thể
nói dân tộc Turkish là một phần tử nhỏ nằm trong lòng sắc
tộc Turkic lớn. Vì phủ một vùng quá rộng lớn, khối Turkic
hiện nay chỉ có nghĩa cùng tôn giáo/ngôn ngữ hơn là quốc
tịch/văn hoá. Chính vì vậy, biến cố ở thủ phủ Urumchi
tháng bẩy 2009, Trung Quốc đàn áp ngừời Uyghur, khối Muslim Ả
Rập làm thinh, cho rằng không cùng sắc tộc. Liên bang Nga và
Trung Quốc đang ủng hộ Iran chống lại sự cấm vận của Hoa
Kỳ, nên Iran cũng song ca bản làm thinh. Chính trường có vẻ ít
tàn nhẫn hơn chiến trường nhờ tấm màn che phủ sự thật.
Nhưng có khi đựơc vén lên thì định mệnh của cả một dân
tộc đã tiêu tùng, và những nhân vật được tô tuợng hay
tặng giải Nobel hoà bình, không chừng là sát nhân giết người
hàng loạt.

Theo Orkhon Inscription -chữ víết cổ nhất của người Turkic-
hàng ngàn sắc tộc Turkic bắt nguồn từ rặng Altay di chuyển
dần về phía Tây theo nguồn nước và cỏ, tuy nhiên không rõ
thời điểm nào họ rời Altay.

Hai nhóm Turk lớn nhất, niềm hãnh diện của người Turk: đế
quốc Göktürk/Kokturk và đế quốc Uyghur, mặc dù trong quá khứ,
hai đế quốc có lúc đoàn kết hay kình chống nhau kịch liệt,
lúc theo Hung Nô lúc theo Trung Hoa.

Cổ thư đầu tiên nhắc đến tên Turk là lá thư của hoàng
đế Trung Hoa, năm 585 SCN, xưng tụng Đại Khả Hãn Göktürks là
Ishbara.

Đế quốc Göktürks khởi đầu ở vùng phía Tây Nam dãy Altai.

Göktürks, tiếng Việt là Đột Quyết (突厥), hãn quốc đầu
tiên có tên "Turks".

Gök: màu xanh, thưọng đế hay thiên đàng.

Göktürks: bầu trời của người Turk, thượng đế của người
Turk, thiên đàng cuả người Turk.

Xứ Perse chọn màu xanh của đá Turquoise làm mầu quốc gia.
Loại đá quí này rất hiếm, cân carat như kim cương nên, trong
quá khứ chỉ được dùng cho nữ trang hoàng gia, như vương
miện trên của Napoléon. Những mosque của Muslim đa số dùng màu
này tượng trưng bầu trời thiêng liêng của người Turk.

Năm 162 TCN, khi bị Hung Nô lấn đất, người Yuezhi bỏ vùng
East Turkestan, vượt rặng Thiên San di cư qua West Turkestan. Số
người ở lại hợp vớí người Hung Nô làm thành một nhóm
sắc tộc rất đa dạng tự xưng Oguz. Năm 745, người
<strong>Oguz</strong> thành lập đế quốc Uyghur Empire ở thung lũng
Orkhon Valle, cách thủ đô Ulaanbaatar 360 kilometers. Đế quốc này
sụp đổ năm 840. Người Uyghur chạy đến vùng Lòng Chảo Tarim,
hoà huyết với người bản địa làm thành nhóm Uyghur hiện nay.

<strong>Chữ viết của người Turkic: Orhon inscriptions</strong>

Năm 735, người Göktürks chế ra chữ viết Orhon inscriptions gồm
38 chữ cái. Chữ viết này về sau được cả người Hung Nô và
Mãn Châu dùng. Những cột đá có khắc chữ cổ Orhon, vẫn còn
tìm thấy ở Mông Cổ, gần bờ sông Orhun. Văn tự Orhon viết
từ phải qua trái, được nhà ngôn ngữ học Đan Mạch Vilhelm
Thomsen giải mã năm 1893. Bản văn này được coi như văn tự
đầu tiên của ngôn ngữ Altaic. Không hiểu hơn 1200 năm truớc,
người Göktürks dùng dụng cụ nào để khắc chữ lên đá. Năm
126 TCN, Zhang Qian/張騫/Trương Khiên ghi nhận dân cư từ vùng
Fergana (thủ đô Uzbekistan) tới Parthia (Bắc Iran) tuy gồm nhiều
sắc tộc, bộ lạc khác nhau, nói nhiều thứ tiếng khác nhau,
nhưng họ vẫn hiểu nhau. Ghi chú quan trọng này khiến Trương
Khiên xứng đáng là lữ hành vĩ đại, trước cả Marco Polo.
Người Uyghur dùng chữ Orhon trong suốt 800 năm. Họ in sách hàng
trăm năm truớc khi <a
href="http://vietsciences.free.fr/biographie/inventeurs/gutenberg.htm">Gutenberg</a>
sáng chế máy in năm 1450. Chỉ đến thế kỷ 11, người Uyghur
mới chấp nhận mẫu tự Arabic sau khi cải sang Islam.

<strong>Ba khu vực Turkic hiện nay</strong>

Tất cả chữ có –istan, -estan, -stan, có nghĩa "đất của",
ví dụ Uyghurstan "đất của người Uyghur".

Khối Turkic chia làm 3 vùng địa lý:

- Vùng Uyghurstan hay East Turkestan, "đất của người Turk miền
Đông". Hai vùng East và West Turkestan có biên giới thiên nhiên
là rặng Tiansan/Thiên Sơn. Sắc tộc da trắng/da vàng đan chen
nhau, chung tình trạng du mục. Tên hiện nay là Xinjiang/Tân
Cương, hoàn toàn ngoài ý muốn của người Uyghur.

- Vùng West Turkestan, "đất của người Turk miền Tây" -tên
Hy Lạp là Sogdiana- thuộc Liên Sô cũ. Sau khi Liên Sô tan rã, các
quốc gia Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Turmenistan, Uzbekistan tuyên
bố độc lập. Thế giới của họ khép kín với nhiều nền
văn minh, chỉ riêng khoản cổ vật nữ trang không thôi, là một
xa hoa và tài hoa không bao giờ có nữa.

- Với 74 triệu công dân Turkish, Cộng Hoà Turkey là quốc gia non
trẻ nhất và xa nhất về phía Tây của khối người Turkic. Năm
1299 người Turkic lập lên đế quốc Ottoman lẫy lừng suốt 600
năm. Sau Thế Chiến I, đế quốc này thua trận. Nhờ nỗ lực
kinh hồn của người hùng Mustafa Kemal Atatürk, đế quốc phục
hồi dưới tên Cộng Hòa Turkey, (trong tên ông có chữ Turk). Bài
hát Mustafa nghe ở Saigon những năm 1960, ca tụng người hùng
này. Tiếng Việt gọi Turkey là Thổ Nhĩ Kỳ, có thể do phiên
âm từ chữ Tokharian/Tocharian, tiếng Hy Lạp cổ để chỉ
người Yuezhi, tổ tiên của người Uyghur.

<strong>Người Yuezhi/Nguyệt Chi/Nhục Chi là ai?</strong>

Phía nam rặng Altay, khu vực giữa hai rặng Tianshan/Thiên San và
Kun-Lun/Côn Luân, là địa bàn của đám Yuezhi da trắng, cao lớn,
tóc đỏ hay vàng nhạt có dợn sóng, ngôn ngữ thuộc hệ tiền
Ấn Âu/Proto-Indo European, nhóm xa nhất về phía đông.

Năm 162 TCN, dưói sức ép của Hung Nô, người Yuezhi di chuyển
dần đến vùng Sogdiana (Kazakhstan và Uzbekistan, bấy giờ thuộc
ảnh huởng văn minh Hy Lạp) lập ra vương triều Kushan/Quế
Sương lẫy lừng. Dân cư của đế quốc Kushan, còn có tên
Indo-Scythian, gồm ba sắc tộc da trắng (1) người Saka (bộ tộc
của Phật cũng thuộc nhóm này), (2) người Parthian (Ba tư cổ)
và (3) người Yuezhi. Văn minh Kushan nổi tiếng ngang với ba nền
văn minh lúc đó là La Mã, Hán, và Parthia. Phụ nữ Bắc Ấn
Độ đẹp nổi tiếng, cao lớn, da trắng, mũi cao, môi đầy,
mắt to, có thể là hậu duệ của đám Kushan này.

Trong vòng 3 thế kỷ, triều đại Kushan rực rỡ đã thay đổi
cả giòng lịch sử của các nước trong quĩ đạo như Bactria,
Persia và Ấn Độ sau này. Bốn điểm chói sáng của Kushan là
chấp nhận sụ khác biệt sắc tộc/tôn giáo, chia đều phúc
lợi cho cư dân bằng thương mại; khuyến khích
vũ/nhạc/hoạ/điêu khắc/nữ trang/lễ nghi; quan trọng nhất
bảo trợ và giao giảng Phật giáo, một vương triều như thiên
đàng. Trương Khiên ở Kushan một năm. Ông quan sát có khoảng
một triệu người sống trong thành có tường bao quanh. Ông tả
họ cuỡi ngựa bắn cung giỏi, chạm khắc ngọc cực khéo, rất
kinh sợ chiến tranh, trong buôn bán mặc cả khít khao, rất nghe
lời vợ (khôn ngoan quá), đã đúc tiền vàng. Trẻ em 10 tuổi
cũng biết phân biệt ngọc thật hay đá cuội. Đàn ông có mắt
sâu, râu dài và ria uốn cong, hết sức bảo trợ cho nghệ
thuật và tôn giáo.

Trong tám trăm năm, người Trung Á hết lòng mang đạo Phật vào
Trung Hoa và Nam Á. Nhiệt thành nhất là người Yuezhi, họ hiểu
đạo Phật không chỉ như một tôn giáo, mà sáng tác theo cả
một giòng nghệ thuật, gồm điêu khắc, kinh sách, nghi lễ và
tranh vẽ trên tường. Hai người Yuezhi đầu tiên dịch sách
Phật sang tiếng Hoa là Lokaksema và Dharmaraksa. Lokaksema (137-189)
sanh tại Khusan, đến Lạc Dưong dịch kinh Đại thừa. Dharmaraksa
sanh tại Đôn Hoàng năm 230, đến Lạc Dưong năm 266 dịch kinh
Liên Hoa. Những công trình đầu tiên này đã biến Lạc Dương
thành một trung tâm Phật giáo đầu tiên ở Trung Hoa.

Đã quen vói tuợng Phật kiểu Ấn Độ hay Trung Hoa, độc giả
thử chiêm ngưỡng tượng Phật có nét mặt, tóc, khăn áo và
dép chịu ảnh hưỏng Hy Lạp và La Mã. Ngó Phật đẹp trai và
rất thể thao. Bức tuợng có chiều cao 163.8cm bằng người
thật, tìm thấy ở Pakistan, đuợc đúc duới thời vua Kanishka
(127 – 151), một vị vua Kushan bảo trợ Phật giáo nhiệt thành
nhất. Hai tượng Phật lớn nhất thế giới ở Bamian/Afghanistan
cũng được coi như tác phẩm của người Kushan vào thế kỷ
thứ sáu, mới bị Taliban phá huỷ năm 2001

Đế quốc Gupta thay thế đế quốc Kushan năm 375 SCN. Lãnh đạo
Kushan bị tiêu diệt nhưng dân Indo-Scythians vẫn còn y nguyên
đó, ngọai trừ một số quí tộc di tản tứ tán: lớp trở
lại vùng đất mẹ là Khotan-đất-ngọc, lớp chạy xuống phía
Nam. Có thể đền đài Angkor Wat ở Campuchia, hết sức nguy nga
và huyền bí không để lại dấu tích của chủ nhân, cũng từ
đám Sogdian hay đám Kushan này?

<strong>Rặng Altay, nơi xuất phát người Turkic</strong>

Tiếng Anh là Altai, tiếng Nga: Алтай Altay, tiếng Turkic: Alytau
hay Altay, tiếng Mông cổ: Алтайн нуруу Altain nuruu. Tiếng
Turkic và Mông cổ đều có nghĩa, "núi Vàng". Chỉ một địa
điểm, đựoc viết duới nhiều dạng khác nhau, cho thấy từ
nguyên là một vấn đề khó đạt đựơc sự đồng thuận.

Quần sơn Altay vời vợi, nơi Nga Sô-Trung Quốc-Mông
Cổ-Kazakhstan gặp nhau. Altay đuợc xem như cái nôi hàng ngàn bộ
tộc và 66 ngôn ngữ. Khối Turkic là pha trộn hai đại chủng da
vàng và da trắng sống đời du mục trên lưng ngựa tìm đồng
cỏ cho trừu, dê, ngựa… Bé con dù trai gái 5 tuổi đã cuỡi
ngựa một mình. Nhóm Turkic ban đầu chiếm ba địa bàn sát nhau:
rặng Altay, bắc Mông Cổ và thảo nguyên Trung Á. Nhân dáng họ
thay đổi: càng về phía Đông càng nhiều nét da vàng, càng về
phía Tây, càng nhiều nét da trắng. Mắt từ nhỏ, xếch đến
sâu, to tròn; mầu mắt từ đen, hạt dẻ, xanh da trời, xanh lá
cây nhạt. Tóc có thể xám,vàng, đỏ, nâu hay đen.

<strong>Thành phố Urumchi "thảo nguyên xinh đẹp"</strong>

Thành phố có tên Ürümqi, ئۈرۈمچی, Ürümchi, Urumçi,
Wūlǔmùqí. Đài phát thanh BBC gọi Ürümchi; đài RFI gọi Địch
Hoá nhưng đổi là <em>Ürümchi</em> từ ngày 23 tháng 9. 1200 năm
trước là đô thị sầm uất của Uyghur Khanate/vương quốc
Uyghur nằm trên Con Đường Tơ Lụa. Suốt một dọc lịch sử
Trung Quốc, mãi đến đời nhà Thanh, vùng này vẫn là nơi đi
đầy. Thời nhà Đường, Urumchi có tên là Luân Đài. Từ Bắc
Kinh đến Luân Đài rong ruổi mất vài tháng. Thơ Sầm Tham, đàn
Hồ cùng tỳ bà với sáo Khương tấu lên môt lượt, "<em>Luân
Đài tiễn anh ra khỏi cửa. Đường núi Thiên Sơn tuyết chan
chứa</em>"(1). Hôm qua tuyết còn rơi đọng trĩu quân kỳ, sáng
nay hoa lê đã nở trắng dẫy Thiên San, hoá ra ngàn hoa đã vào
xuân rồi đấy ư …

Urümqi nằm dựa rặng Thiên San/Tianshan, cách 10km. Người mình
biết Ürümqi qua tiễn khúc Hòn Vọng Phu: "Qua Thiên San kìa ai
tiễn rượu vừa tàn. Vui ca lên rồi đi tiễn binh ngoài
ngàn…" lời và nhạc rồn rập như vó ngựa và bi phẫn như
nỗi buồn chinh phụ. Theo Phạm Duy, nhạc sĩ Lê Thương sáng tác
Hòn Vọng Phu cảm hứng từ bài thơ Trăng Quan San của Lý Bạch,
"Trăng sáng ló Thiên san, Mênh mang mây núi ngàn, Gió lùa bao
vạn dặm, Tới ải Ngọc Môn Quan". Ngọc Môn Quan cách Đôn
Hoàng 90 km, nơi bạch ngọc nephrite của Núi Ngọc Qurum chào
đất mẹ Kustana/Khotan lần cuối trước khi vượt Ngọc Môn Quan
vào đất Trung Hoa (3). Lý Bạch có lẽ là thi sĩ đầu tiên có
hai giòng máu Hồ-Hán, sanh đẻ ở Gansu/Cam Túc, cha người Hán,
mẹ người Hồ, không rõ Hồ Yuezhi, Hồ Xiongnu hay Hồ Persian?
Tranh chân dung vẽ ông có mắt hí và xếch, có thể chỉ là
tưởng tượng.

Những con số theo trang mạng wikipedia cho thấy Ürümqi là một
địa bàn đa sắc tộc. Những nhóm nhỏ gồm người Manchu,
Mongol, Xibe, Russian,Tujia, Kyrgyz, Uzbek, Zhuang, Tatar, Tibetan,
Dongxiang, Miao, Korean, dù chỉ là những mảnh vụn lưu lạc ở
Ürümqi, nhưng tổ tiên họ đều có quá khứ lẫy lừng hàng
ngàn năm trên thảo nguyên mênh mông tại địa bàn East Turkestan.
Hình bìa cuốn Người HMông (2), cô em Hmông có khuôn mặt dài,
màu mắt nâu nhạt trong vắt, ngó rất giống bà Rebiya Kadeer,
lãnh đạo lưu vong hiện nay của người Uyghur. Người HMông-Miao
vẫn ghi nhớ tổ tiên họ xuất phát ở vùng một năm có "sáu
tháng có cát trắng", tức là tuyết, có thể họ cũng phát
xuất từ dãy Altay?

Bốn nhóm chính là Hán, Uyghur, Hui và Kazakhs.

<strong>1.567.562 Người Hán, chiếm 75,3%</strong>

Người Hoa Bắc có thể giống như người Uyghur, cùng là sản
phẩm Turkic: lai da vàng Mông Cổ và da trắng Yuezhi. Có thuyết
ghi nhận nhóm lai này rời địa bàn du mục qua hàng lang Cam Túc
vào nội địa Trung quốc khoảng 5000 năm trước. Họ nhận bắc
Hoàng Hà làm địa bàn và đứt đoạn với nguồn gốc ngoài Cam
Túc. Ba ngàn năm sau, người Hoa không còn nhận ra nơi phát xuất
ban đầu, nên gọi tổ tiên là Yuezhi, "rợ" Di.

Ý niệm về "người Hán" khá mơ hồ. Hán, không phải tên
một sắc tộc, chỉ là tên văn hoá. Đời Hán dài hơn 400 năm,
206 TCN–220, ý đồ bành trướng đã vươn phía Tây Bắc tới
East Turkestan, phía Nam tới Mê Linh vùng Hai Bà Trưng. Người Hoa
rất hãnh diện với trào đại Hán, nên dùng "Hán" cho nhiều
ý niệm: sắc tộc, ngôn ngữ, chữ viết, văn hoá và niềm kiêu
hãnh "Đại Hán". Họ gọi nhóm không-Hán ở miền Nam là rợ
Man. Dù người sáng lập ra "nhà Hán", Lưu Bang, một nông dân
đi phất phơ làm nghề coi tù. Lưu Bang quê ở đất Bái, thuộc
nước Sở, nay là Giang Tô, mé biển, thuộc địa bàn Man. Sông
Hán, phụ lưu của sông Dương Tử, nơi Lưu Bang đuợc phong Hán
Vương, cũng thuộc địa bàn của dân Man.

Năm 1876, khi tướng Tả Tôn Đường mang quân đi "bình
định" miền East Turkestan, ông giáo dục binh sĩ "<em>miền
đất này từ đời Hán đã thuộc về Trung Quốc, còn đám bản
địa chỉ là dị tộc. Cuộc chiến tranh này để thu hồi biên
cương cho tổ quốc</em>…" Lời giáo dục trên bất chấp
lịch sử, và khá mâu thuẫn: tên mới của miền "đất cũ"
lại là Tân Cương, Xịnjiang, có nghĩa địa phận mới.

Mai mốt đây, khi cần nuốt trọng châu Phi, Trung quốc sẽ
không ngần ngại giáo dục quân dân "người Phi và người Hoa
cùng chủng, chỉ tại họ dang nắng quá, nên có hơi đen." Da
đen, da trắng hay da vàng, chơi với thiên triều, nếu muốn
sống còn đều phải đề phòng bàì học một sáng thức dậy
biến thành … dị tộc trên đất nước của mình.

<strong>266.342 Người Uyghur chiếm 12,79%</strong>

Miền East Turkestan, một trong cái nôi ban đầu của khối Turkic,
trải dài 2000km từ Đông sang Tây và 1650 km từ Bắc xuống Nam
là địa bàn chính của hàng trăm bộ lạc người Uyghur.

Người Uyghur cũng là kết quả pha trộn in hệt người Hoa: da
vàng Hung Nô và da trắng Yuezhi nhưng nằm trên Con Đường Tơ
Lụa nên pha huyết thêm lần nữa với các tộc người da trắng
Ả Rập, La Mã, Hy Lạp, Ba Tư trong suốt một ngàn năm. Người
Uyghur vì vậy có hình dạng khác nhau, và cũng khác với người
Hung Nô và người Hán: có người thấp, da hơi vàng, tóc đen,
mắt nhỏ; có người cao lớn, da trắng, mắt vàng hay xanh nhạt,
mũi thẳng cao, râu tóc hung vàng hay nâu. Xác Ướp Tarim- khoảng
thế kỷ 3 TCN- hiện trưng bày tại viện bảo tàng Urumchi, có
tóc hung vàng hoặc nâu đỏ. Từ thời Đường đến nhà Nguyên,
ảnh hưởng Uyghur mạnh mẽ trên trào đình Trung Hoa, từ.văn
học và sân khấu, âm nhạc và vũ điệu, hội hoạ và kiến
trúc, giáo đường và điêu khắc, lầu đài và vườn hoa đến
dược thảo và cách trị liệu. Chỉ riêng âm nhạc, người
Uyghur có tới 62 nhạc cụ khác nhau. Ngay cả màn châm cứu bằng
kim cả thế giới tưởng của người Hoa, cũng xuất xứ từ
Uyghur. Thượng đế tặng cho họ bàn tay như có phép mầu, khéo
léo vô song từ dệt thảm đến nữ trang; từ bình hoa, bình trà
tỉ mỉ đến giáo đường nguy nga.

<strong>167.148 Người Hui, chiếm 8,03%</strong>

Khu vực có đông người Hui gần Tân Cương nhất, là Khu Tự
Trị Dân Tộc Hồi Ninh Hạ, một trong năm khu tự trị. Cùng
với Tây Tạng, đây là vùng nghèo nhất Trung quốc. Ngày xưa,
người Hui Tây Hạ cũng có nhiều sản phẩm giàu có như người
Uyghur, có thể cũng là động lực khiến Trung Hoa phải ăn gỏi
đám "rợ" này. Họ có nước da đậm, mắt nhạt màu.

Tuy cùng sắc tộc, phong tục người Hui Ninh Hạ rất khác
người Uyghur. Tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung lấy Tây Hạ
làm khung cảnh với những nhân vật đáng yêu: các công chúa
Tây Hạ (có tên Trung Hoa): công chúa Ngân Xuyên, Công chúa Văn
Nghi, công chúa Mộng Cô. Quốc vương Tây Hạ xuống chiếu bằng
tiếng Tây Hạ cho quần hùng quần tà hay các công chúa kén
chồng. Có thể tục công chúa kén chồng Trung Hoa phát xuất từ
Tây Hạ. Kim Dung còn cho quái kiệt Thiên Sơn Đồng Mỗ bắt cóc
Hư Trúc đem qua Tây Hạ giấu trong hầm nước đá, ép Hư Trúc
phải ăn mặn và chung giựờng với công chúa xuân tình, khiến
sau đó tiểu hoà thượng chớ phở thấy làm người phàm hấp
dẫn hơn nhiều. Độc giả khoan khoan xuống tóc làm tiểu hoà
thượng, làm gì còn công chúa Tây Hạ nào cho độc giả cầu
thân!

<strong>48.772 Người Kazakhs, chiếm 2,34%</strong>

Người Kazakhs là bộ tộc Turk thuộc vùng Wusun, phía Bắc rặng
Tianshan/Thiên San, rất hùng mạnh vào thế kỷ thứ nhất TCN,
liên kết với Trương Khiên khi ông này vâng lệnh vua Hán đi
tìm đồng minh diệt Hung Nô.

Người Kazakhs giỏi võ nghệ, có môn săn bắn bằng chim ưng
rất độc đáo. Có lẽ tên Huihe, 回鶻, đọc là Hủi I, có
nghĩa Hui Chim Ưng xuất phát từ họ. Đa số người Kazakhs chăn
nuôi trừu và dê. Chỉ một số nhỏ trồng trọt hay buôn bán.
Con Đường Tơ Lụa biến miền đất của họ thành trù phú.
Họ sống trong lều yurts, có thể nhanh chóng ráp nối bằng
cọc, da thuộc và thảm dệt thêu rực rỡ. Vào mùa đông giá,
họ mới chịu ở trong lều, uống trà sữa dê và ca hát.

Họ ăn thịt, uống sữa trừu, bò và lạc đà. Cũng như
người HMong, tuy du mục, nữ trang Kazakhs rất tinh xảo và có
phong cách riêng. Họ mặc quần áo bằng da trừu, da nai, da chó
sói. Khi Khotan có bông vải, họ tự dệt vải nhuộm màu với
những motif rất lạ mắt. Đàn ông mặc áo khoác thêu tay đẹp
hơn áo của nhà Christian Dior. Áo Jacket và áo gilet là từ
người Kazakhs. Các cô mặc váy xếp nếp, áo tay dài thêu công
phu. Người già vui với truyện kể không bao giờ hết về nuôi
dậy chim ưng, đánh nhau với chó sói; người trẻ say mê âm
nhạc ca tụng tình yêu và gíó tuyết. Chỉ cần một chuỗi
thanh âm ríu rít từ đàn Dongbula, thanh niên thiếu nữ ngưng
công việc và cuốn hút ngay vào điệu nhảy nhí nhảnh. Mũ hoa
mới thêu, mùi thịt trừu nướng lẫn trong mùi cỏ, đeo vòng
bạc cho chú dê mới sanh…cuộc sống thảo nguyên hoá thân vào
tiếng đàn điệu múa, chan hoà một giòng sông văn hoá Kazakhs
mà du lịch Trung Hoa ngày nay trình diễn trên sân khấu khá vụng
về, quảng cáo om xòm "Chinese culture", nhưng khách du lịch
dễ tính tin sống tin chết.

<strong>Văn minh Tây Vực vào Trung Hoa qua ngả Tân Cương</strong>

Hai ngàn năm trước, người Hoa gọi vùng mênh mông từ Tân
Cương, Trung Á, Tây Á là Tây Vực. Dân cư gồm người
Xiongnu/Hung Nô, Yuezhi/Nguyệt Chi, Greco-Bactrian/Hy Lạp, Persian/Ba
Tư, Turkic, Indian/Ấn Độ. Mỗi đế quốc lại đặt tên đánh
dấu ảnh hưởng của họ, nhưng dân cư thì vẫn chỉ thuộc hai
đại chủng da vàng và da trắng. Mỗi chủng lại có nhiều chi
chủng. Người Hoa gọi tuốt luốt là "rợ Hồ".

Tràng An đời Đường, dân không-Hán lên đến một triệu
người, đủ thứ "rợ". Đông nhất là "rợ" Hồ, tăng
lữ, nhạc sư, hoạ sĩ, vũ sư, học giả, quan văn võ, nhất là
thương nhân. Trung tâm buôn bán của Trường An là của người
Hồ. Trường An có nhiều Hồ điếm (cửa hàng), Hồ đề (khách
sạn). Trường An đầy văn hoá Hồ: bạch ngọc Hồ, tôn giáo
Hồ, sáo Hồ, múa Hồ, y phục Hồ, ăn uống kiểu Hồ, bánh
trái Hồ, rượu nho Hồ rót trong chén dạ quang Hồ. Ngựa Hồ
đáng giá hơn cả mạng người. Xứ Trung Hoa có mía, nhưng phải
đợi đến người Hồ mới biết làm đường. Lý Bạch tả các
cô gái Hồ nơi quán ruợư "Đẹp như hoa không biết ở đâu
lạc đến thế này?"

Người Hồ Ả Rập vào Trung Hoa mang theo hương liệu, ngà voi.
Người Hồ Ấn độ mang đá quí, ngọc trai, trầm hương. Nhóm
ảnh hưởng nhất tới Trung Hoa là Hồ Ba Tư nhờ địa bàn sát
bên: vương triều Saka ở Khotan, cung cấp bạch ngọc nephrite và
thợ khéo. Tại Trường An, người Ba Tư mở nhà hàng nấu món
ăn Trung Á. Họ giới thiệu với giới văn nhân, học giả môn
cỡi ngựa đánh cầu, thảm quí, nước hoa, đồ dùng bằng vàng
bạc. Họ mang đến trào đình thú lạ, chim quí, cây kiểng,
thuốc men, đồ thêu, tranh vẽ, âm nhạc, nữ trang, đồ sành
sứ, đồ thuỷ tinh…Họ là người đánh giá các món nữ trang
bằng vàng bằng ngọc bằng mắt thường. Nữ trang của họ vẽ
riêng cho trào đình, thợ Trung Hoa (hồi đó hay bây giờ) không
làm nổi, phải mời "rợ" Hồ qua với đãi ngộ đặc biệt,
không tù đầy giam lỏng hay đe doạ chặt đầu như với đám
thợ người Hoa. Đồ cổ ngoạn bằng ngọc tinh xảo mỏng
chừng 3mm của hoàng gia, chắc chắn do tay nghệ sĩ "rợ" Hồ
Yuezhi. Nhà Đường (618-907), mà ông vua chuộng mỹ thuật, ham
chơi là Đường Minh Hoàng nhất nhất bắt chước rợ Hồ, kể
cả sủng ái tướng An Lộc Sơn -người Đột Quyết-. cho đến
khi mất ngôi.

Người mình quen gọi "Ba Tư" cho cả đế quốc Persia và
quốc gia Iran. Iran ngày nay chỉ rộng 1,648,195km2, chỉ là một
cái đuôi sao chổi của đế quốc Persia. Đế quốc này là một
chuỗi những triều đại khởi đi từ cao nguyên Iran trong hơn
6000 năm. Huy hoàng nhất, dưới trào Darius đại đế (522 – 485
TCN), Persia trải từ Tây Á châu, Trung Á, vùng Caucasus, đến cả
Bắc Phi, phủ một diện tích 7.500.000 km², với nhiều chủng
tộc, triều đại…Nhưng sắc dân độc giả thoáng thấy trong
bài này như Parthia, Sogdiana, Yuezhi, Saka, Scythia, Khotan, được
các học giả phương Tây xếp vào tộc da trắng Indo-Aryan, lý do
vì họ dưới sự cai trị của người Perse, không có nghĩa là
họ cùng sắc tộc/văn hoá/tôn giáo với người Perse. Năm 1935,
Vua Reza yêu cầu cộng đồng thế giới gọi Persia là Iran. Các
học giả phản đối cho rằng việc đổi tên sẽ làm mất đi
quá khứ huy hoàng. Vì vậy năm 1959, vua Mohammad Reza kế vị, cho
lệnh dùng cả hai tên. Ngày nay, tên Iran dùng trong chính trị
ngoại giao, còn tên Persia dùng cho văn hoá và lịch sử.

Nói chung, giữa Tây Vực và Trung Hoa, sự giao lưu kinh tế và
văn hoá đã biến đổi toàn vùng thành một nơi muôn màu muôn
vẻ. Người Hoa cũng xuất cảng sản phẩm sang Tây Vực, giấy,
la bàn, trà, thuốc súng, kỹ thuật in ấn, đào giếng, và nhất
là tơ lụa. Triều đình Trung Hoa nào cũng chuộng hàng hoá rợ
Hồ. Duy nhất, chỉ Từ Hy Thái Hậu bài ngoại mù quáng, cái gì
cũng cho là quỉ sứ, ngoại trừ bạch ngọc nephrite giữ khư
khư. Đời GiangThanh mù quáng không kém, đến nỗi có lúc bao
nhiêu vườn nho ở Tân Cương phải đào xới vứt đi.

<strong>Thời điểm người Tây Vực vào Trung hoa</strong>

Thống kê năm 1990, số Muslim ở Trung Hoa 17.6 triệu: gồm 8.6
triệu Hui; 7.2 triệu Uighur; 1.1 triệu Kazakhs; 375,000 Kyrghyz; 33,500
Tajik và 14,500 Uzbeks. Người Tây Vực đến Trung Hoa vào nhiều
thời điểm, cả đường bộ lẫn đường biển.

Phía Tây Bắc Trung Hoa, sau khi Con Đường Tơ Lụa hình thành
thế kỷ thứ ba TCN, người Ả Rập, Ba Tư, Trung Á và Mông Cổ
đổ vào đất Trung Hoa như nhũng con bướm say ánh đèn đêm.
Họ băng sa mạc, vượt núi non trên lưng những con lạc đà
chất đầy hàng hoá. Mỗi chuyến đi về có thể từ 2 đến 8
năm. Vì vậy, dần dần có những người định cư ở Tràng An.

Phía Đông Nam Trung Hoa, thế kỷ thứ 7 đời nhà Đường, một
số thương nhân Arabia/Ả Rập và Persian/Ba Tư tới Quảng Đông,
Quảng Tây, Giang Tô, Hàng Châu bằng đường biển. Quảng Châu
từ đó đụơc xem là "Con Đường Tơ Lụa" trên biển nối
với Con Đường Gia Vị đã có từ 3000 năm TCN bởi những
thương nhân từ bán đảo Ấn độ đến Ả Rập, La Mã, Ai
Cập. Những thứ như quế, hồi, đậu khấu, gừng nghệ, muối
…3000 năm trứơc đồng nghĩa với lối sống xa hoa và những
chuyện thần kỳ kiểu Ngàn Lẻ Một Đêm. Giữa mùi hành tiêu
tỏi ớt cay nồng thấp thoáng bóng giai nhân uốn mềm như rắn
thơm như trầm hương mát như sữa dê khiến quỉ thần trên
thiên giới hân hoan xếp hàng đợi bị đầy xuống trần gian.

Năm 758, vua Đường Túc Tông, kế vị Đường Minh Hoàng, cầu
cứu vua Abbasid ở Baghdad gửi 20,000 quân dẹp loạn An Lộc Sơn.
Sau đó, đám 20,000 này ở lại Cam Túc và Ninh Hạ.

Năm 801, người Tây Tạng tuyển 20,000 lính đánh thuê người
Arab và Sogdian giúp họ đánh nhau với đế quốc Nam
Chiếu/Nanzhao ở Vân Nam. Người Tây Tạng bị thua, nhưng đám
quân nhân này vẫn ở lại Tây Tạng. Từ đó, người Tây Tạng
trở thành đồng minh duy nhất của người Hui. Năm 1652, vị Đat
Lai Lạt Ma Thứ Năm đến thăm Ngân Xuyên, thủ đô của Ninh
Hạ/Ningxia.

Khoảng 1070-1080, Tống Thần Tông mời 15,000 quân Ả Rập đến
làm vùng đệm giữa Trung Hoa và đế quốc Liêu của người
Khiết Đan. Độc giả có thể nhẩn nha đọc lại đoạn sử
này đựơc tiểu thuyết hoá trong Thiên Long Bát Bộ của Kim
Dung, với bi kịch muôn đời tình nưóc/tình riêng, Tiêu Phong
tráng sĩ bồng xác A Châu ngơ ngác giữa Nhạn Môn Quan không
biết về đâu.

Đại hãn Mông Cổ Hốt Tất Liệt (1215-1294) sáng lập nhà
Nguyên mang 3 triệu người Trung Á vào Trung Hoa giúp phù tá
triều đại của ông. Họ là quân nhân trung thành, thương nhân
thành công và là thợ khéo. Duới thời nhà Đường đến nhà
Nguyên, tiếng Trung Hoa gọi người Muslim ở East Turkestan là
Uyghur, gọi người Muslin ở Ninh Hạ và trong nội địa là Hui.
Người Hui gần gũi với người Hán về ngôn ngữ, chữ viết,
văn hoá, phong tục. Người Uyghur, nguợc lại, không hề chia sẻ
với người Hán điều gì. Câu nói phổ thông cho thấy tình
trạng giữa hai khối trong/ngoài quan ải:

<em>Người Uyghur ghét người Hui vì họ là người Hán.</em>

<em>Người Hán ghét người Hui vì họ theo Islam.</em>

Thâm cung bí sử cho Chu Nguyên Chương (1328-1398) gốc gác xa gần
là người Hui. Vì vậy đám Minh giáo (gồm Hoả giáo và Mani
giáo, thờ lửa) hết lòng phò tá ông. Để trả ơn, Chu đặt
tên triều đại của ông là "Minh triều". Triều Minh che chở
người Hui khỏi sự nguợc đãi của người Hán, cho họ nhiều
đặc quyền về tôn giáo, chính trị. Họ là những sử gia, nhà
toán học, thiên văn, học giả, thầy giáo, thông dịch, cận
thần tin cậy, sứ thần ở Roma, Bagdad và Istanbul. Họ đã đủ
đông làm một cộng đồng Huihe giầu có và vững mạnh. Họ
không chỉ nắm thương trường, nghệ thuật mà còn can thiệp
vào cả chính trường Trung Hoa. Tuy vậy, Chu ra lệnh bắt họ
phải kết hôn với người Hoa, nói tiếng Hoa và y phục kiểu
Hoa. Từ đó, người Hui mất dần căn tính Hui. Gần cuối đời,
Chu Nguyên Chương, tức Minh Thái Tổ chợt sợ rằng chính đám
Minh giáo này có thể đe doạ ngai vàng của ông, nên đang từ
Minh giáo sáng chói, ông đàn áp họ, cho họ là Ma giáo, khiến
đám Nho gia hết sức hả hê. Tiểu thuyết gia Kim Dung hình như
không đồng ý với điều này, nên đã xây dựng nhiều nhân
vật Minh giáo xuất sắc trong bộ Cô Gái Đồ Long, trong đó
Trương Vô Kỵ xả thân cứu Minh giáo.

Ngươi Huihui nội địa là hậu duệ của cả hai ngả di dân
đường biển và đường bộ nói trên. Họ có những dây liên
hệ kinh tế và văn hoá với người Hán và người Mông Cổ.
Họ ở rải rác khắp nứơc Trung Hoa quây quần xung quanh thánh
đường Islam. Khi lập gia đình với các sắc tộc khác, họ
cải tên Muslim cho ngắn bót:

Sai cho Said;

Sha cho Shah;

Ha cho Hasan; Hu cho Hussein;

Zheng cho Shams;

Chuah cho Osman;

Koay cho Kamaruddin;

Ma, Mu, Han cho Muhammad;

Người Hui nổi tiếng nhất là thái giám Hajji Mahmud Shams,
حجّي محمود شمس, tên Trung Hoa: Zheng He, tên Việt: Trịnh
Hoà (1371–1433), nhà hàng hải kiêm ngoại giao Muslim nổi tiếng.
Ông là hậu duệ đời thứ 6 của Sayyid Ajjal Shams al-Din Omar,
một viên quan ở Vân Nam, có gốc gác từ thủ đô Bukhara của
nứơc Sogdiana – Uzbekistan hiện nay. Sinh tại Vân Nam, năm 11
tuổi Zheng He bị tuyển làm thái giám cho triều Minh. Ông mất
khi ghé một hải cảng ở Ấn Độ. Zheng He được thuỷ táng,
mộ phần trống rỗng ở Vân Nam quạnh quẽ. Ông không may mắn
như những thái giám chết già khác: không được nhận lại
phần thưởng cuối cùng từ lệnh thiên tử: bộ phận sinh dục
đã héo khô chứa trong một cái chai khằng kín.

Chiến dịch "biển Đông" được trào đình nhà Minh tài
trợ, cho thấy Trung Hoa đã sắp xếp một trật tự mới để
từ vùng biển phía Nam hướng ra thế giới. Bẩy chuyến hải
hành trong 30 năm, mang về quà cáp biếu xén, uy danh và liên hệ
kinh tế cho trào đình. Tuy vậy gây phản ứng ngược nơi đám
Nho gia, là đám có nỗi sợ hãi kinh niên "sợ thay đổi", có
thể làm vị trí của họ lung lay. Dưói áp lực ấy trào đình
nhà Minh chỉ coi thành công của Trịnh Hoà như "duyên dáng Minh
trào". Thái độ vừa sợ hãi vừa kênh kiệu ấy Thanh triều
về sau sao cóp y chang. Cái giá phải trả là hoàng thành bị
bọn "quỉ đỏ" Tây Dương đốt phá, triều đại sụp đổ.

Sang đến nhà Thanh (1644 – 1912) thời kỳ đen tối của người
Hui thật sự bắt đầu. Dân Hán và triều đình ngày càng kỳ
thị người Hui. Từ 1648 đến 1878, ở East Turkistan 12 triệu
người Hui và Uyghur bị giết trong mười lần nổi dậy. Năm
1845, ở Tây Bắc Vân Nam quân đội và người Hán tàn sát
người Hui trong 3 ngày. Biến cố đẫm máu này tạo nên cuộc
khởi nghĩa Panthay (1856–1873) ở Vân Nam, người Hui chủ trương
ly khai. Kết quả 1 triệu người chết, cả người Hui lẫn
người Hán, một số người Hui đào thoát sang Miến Điện,
hiện nay trở thành một quyền lực lớn ở khu Golden Triangle/Tam
Giác Vàng, nắm giữ nhiều mối lợi lớn về thuốc phiện,
vàng, ruby và Burmese Jade. Ở Thiểm Tây (1862-1877), một cuộc
nổi dậy khác khiến dân số người Hui từ 1,700,000 chỉ còn
150,000 người.

<strong>Điểm chung duy nhất: Islam ?</strong>

Truớc khi theo Islam, người Turkestan theo các tôn giáo/hệ thống
tư tưởng khác như Shaman, Ki Tô, Do Thái, Phật, Mani và
Zoroastrianism/Hoả giáo, Nestorian (Ki Tô Giáo phương Đông).

Thế kỷ thứ 8, Islam bắt đầu nở rộ ở Medina/Arab Seoudite.
Từ thế kỷ thứ 10, Islam thay thế đạo Phật ở khu vực Trung
Á và East Turkestan. Theo tiếng Arabic, "Islam" để chỉ tôn
giáo, "Muslim"để chỉ tín đồ Islam. Phật giáo và Ki-Tô
giáo được đặt theo tên của giáo chủ sáng lập, còn Islam và
Muslim là tên đuợc mặc khải, có ghi chép trong kinh Qur'an,
không phải do tín đồ tự đặt.

Tính đến tháng tư 2009, có 1.4 đến 1.6 tỷ tín đồ Islam
khắp thế giới. Cứ 5 người có 1 người theo Islam. Theo thống
kê của CIA Online World Factbook, bốn quốc gia có đông người
Muslim nhất: Indonesia 204 triệu, Pakistan 164 triệu, India 154
triệu, Bangladesh 128 triệu. Đa số người Turks theo phái Sunni
Muslims. Thiên sứ Mohammed qua đời, không chỉ định người kế
vị. Sunni chấp nhận cả bốn Caliphs (hoàng đế) kế vị thiên
sứ Mohammed là chính thống. Trái lại, Shiites cho rằng chỉ một
mình Ali, anh em họ và cũng là con rể cuả thiên sứ Mohammed,
mới là chân truyền.

Ngày 13-7-2009, bài viết của Moisés Naím tựa đề "Mute
Muslims/ Sự Im Lặng của Người Muslims" (4) nêu lên câu hỏi
cho toàn khối Muslim. Bài báo nhắc biến cố 17/9/2005, một tờ
báo Đan Mạch đăng hý hoạ nội dung kém kính trọng thiên sứ
Muhammed, đã gặp phản ứng giận dữ của cả khối Hồi giáo.
Toà lãnh sự Đan Mạch ở Beirut bị đốt. Ở Afghanistan, Pakistan
và Somalia, xô xát đến tử vong. Ở Damacus, đám đông phẫn nộ
đốt hai toà đại sứ Na Uy-Đan Mạch. Ở Tehran, tổng thống
Ahmadinejad cho đăng hý họa nhạo báng thói đạo đức giả của
Tây Phương trong vụ Holocaust tàn sát người Do Thái. Ông Naím
đặt câu hỏi "Vậy tại sao năm 2009 khối Muslim yên lặng
trước hành vi đàn áp tàn bạo của chính quyền Trung Hoa với
người Urghuy ngày 6-7-2009?" Những đàn áp này có từ những
năm 1990. Phụ nữ bị đoạn sản. Tiếng Uyghur không đựoc dậy
ở trường học. Công chức không đựoc để râu và quàng khăn.
Không được cầu nguyện hay ăn chay trong giờ làm việc. Công
việc bị người Hán lấn chiếm. Nhà cửa tốt chỉ dành cho
người Hán. Thanh niên Uyghur bụộc phải làm xa thành phố,
nhường chỗ cho người Hán di cư đến. Tất cả những mầm
mống chống cự đều bị coi là khủng bố, lãnh tụ bị bắt
giam. Nhũng siêu thị ngạo nghễ cạnh thánh đường Islam hàng
ngàn năm tuổi. Năm 2004, môt đoàn vũ công Uyghur trình diễn
tại Canada đã xin tỵ nạn chính trị, vì sau khi trình diễn,
họ bị nhân viên Trung Hoa ép phải uống rưọư và khiêu vũ,
trái với đạo đức người Uyghur.

Câu hỏi của Moisés Naím rơi vào yên lặng không kém.

<strong>Uyghur trong quĩ đạo Trung Quốc</strong>

Người Mãn Châu thành lập đế quốc Thanh năm 1644 đã sáp
nhập Mông Cổ, Tân Cương, và Tây Tạng năm 1759. Nhà Thanh chỉ
bị lui bước ở Miến Điện và Đại Việt với chiến thắng
của vua Quang Trung ở trận Đống Đa.

Sau những năm chiến tranh đẫm máu, tháng 11/1884, East Turkestan
bị sát nhập vào Trung quốc vói tên mới Xinjiang/Tân Cương.
Từ đó, uy danh, văn hoá của East Turkestan ở bên bờ vực
thẳm. Sau khi lực lượng Trung Hoa Quốc Gia lật đổ nhà Mãn
Thanh năm 1911, người Uyghur khởi nghĩa nhiều lần. Họ chống
nhà Thanh, chống người Anh, chống chính phủ bù nhìn do người
Anh dựng lên. Họ đánh bật quân đội Nga Sô ra khỏi khu vực
Ili. Tất cả những chiến đấu gian khổ đó rốt cuộc vẫn
không dành đựoc độc lập. Tháng 10 năm 1955, họ đựoc "chỉ
định" là một khu tự trị của Trung quốc. Năm 1949, người
Hán chỉ chiếm 6%, hiện nay là 40% với 7.5 triệu người.

Bức ảnh duới đây chụp tình cờ, nói lên đựơc nỗi lòng
người Uyghur? Ông râu trắng xoá kề cận bên mái tóc cháu còn
xanh. Giống nhau chăng là sự bất an, cái nhìn của người ông
chịu đựng đầy nghi ngại và bé gái tí teo đã bậm môi đẫm
căm hờn.

Một thi sĩ người Uyghur, Abduhalik Uyghur, ئابدۇخالىق
ئۇيغۇر, hấp thụ cả năm nền học vấn: Islam, Trung Hoa, Ả
Rập, Ba Tư và Liên Xô. Abduhalik làm nhiều thơ nhằm đánh thức
người Uyghur trước nguy cơ bị Trung Hoa tiêu diệt. Bài thơ
Oyghan (Wake Up, Hãy Thức Dậy) sáng tác năm 20 tuổi.

Xin dịch thoát 8 câu:

N<em>ày người Uyghur khốn khổ, thức dậy đi từ cơn ngủ đã
dài
Người còn gì đâu ngoài mạng sống mỏng manh
Nếu không tự cứu khỏi cái chết
Phút tàn sinh sẽ chẳng còn bao lâu nữa
Hãy mở to mắt nhìn quanh,
Tương lai sẽ ra sao
Nếu lỡ dịp may này vuột khỏi tầm tay
Mai này sẽ chỉ là một nỗi ăn năn vô tận</em>

<strong>Vị trí cuả Tân Cương đối với Trung quốc</strong>

Trong cuốn Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt, ông
Bình-nguyên Lộc cho rằng một trong nguyên nhân nhà Hán chiếm
Chămpa, khai thác mỏ đơn sa dùng làm vị thuốc, người Hoa gọi
là thần sa, châu sa, mỏ ấy ở tại Cù Lao Chàm, người Chàm
khai thác đến đời Tống thì cạn. Giấc mơ Đại Hán không
chỉ đơn giản có thế. Nguợc lại, tầm nhìn gấp trăm lần
nhằm thực hiện chủ nghĩa bành trướng và đế quốc: làm
chủ toàn vùng, cả trên bộ lẫn trên biển.

Suốt 2000 năm, từ thế kỷ 5 TCN cho đến thế kỷ 16, không bao
giờ Trung quốc thoát khỏi ám ảnh bị người ngoài tấn công.
Vạn Lý Trường Thành là bằng chứng lịch sử cho sợ hãi đó.
Chiếm đựơc vùng làm trái độn là vấn đề sinh tử với họ
khiến ngay từ năm 126 TCN, nhà Tây Hán phái Trương Khiên thám
hiểm phía cực Tây tìm đồng minh. Sau khi Con Đường Tơ Lụa
hình thành ở phía Bắc, có thể nhà Hán căn cứ vào sự giầu
có của xứ Chămpa, mơ màng kết nối Trung Hoa với Con Đường
Gia Vị có từ 2000 năm truớc.

Ngày nay, Trung quốc phải chiếm và giữ East Turkestan cho bằng
được. Trung quốc là một lục địa cổ, cũng giống như châu
Âu, khai thác đã cạn, nên phụ thuộc nuớc ngoài về cả tiêu
thụ lẫn khai thác nhiên liệu. Hoặc chưa cạn, nhưng cũng
giống như Hoa Kỳ, khai thác thiên hạ truớc. Trung Quốc vì vậy
cần đến những thuộc địa kinh tế.

Trong khi châu Phi xa xôi và khó lòng đồng hoá bằng văn hoá,
ngôn ngữ hay hôn nhân mà Trung quốc còn thò tay tới, nói chi
Tân Cưong cùng biên giới.

East Turkestan/Tân Cương rộng 1.6 triệu km², gấp bốn lần
tiểu bang California, bằng Iran, bằng cả phía Tây châu Âu, và
chiếm 1/6 diện tích toàn thể Trung quốc. East Turkestan là một
vùng địa lý đa dạng, có sa mạc, núi, sông, hồ, đồng cỏ,
rừng rậm. Đây là một vùng giầu có, ngoài chăn nuôi, còn có
than đá, dầu lửa, quặng sắt. Đường ống dẫn hơi đốt từ
Khazakhstan tới Trung quốc xuyên qua Tân Cương.

Trung Quốc đã thiết lập một số trung tâm nguyên tử lực ở
Tân Cương. Có cả thẩy 45 lần thử nghiệm bom nguyên tử ở
vùng hồ Lop Nur, đông bắc Tân Cương. Lần đầu tiên ngày 16
tháng 10, 1964. Từ đó, tỷ lệ ung thư nơi cư dân tăng từ 30
đến 35% so với địa phương khác.

Hai ngàn năm truớc, người Trung Hoa không bao giờ mơ màng đến
việc đánh Ấn Độ. Nhưng ngó trên bản đồ ngày nay, Trung Hoa
đang ở trên đầu Ấn Độ.

Năm 1962, Trung quốc bất ngờ tấn công Ấn Độ. Lúc đó, thủ
tướng Ấn Độ là Nehru. Phía Trung Hoa có thủ tướng Chu Ân
Lai. Nguyên nhân tranh chấp là tiểu bang Arunachal Pradesh, có mỏ
dầu lửa rất lớn; hồi nào tới giờ thuộc Ấn Độ, dân
chúng Ấn Độ, nói tiếng Ấn Độ. Trung Quốc ngang xương đặt
tên mới là Nam Tây Tạng, và tuyên bố "chủ quyền không thể
chối cãi". Cuộc chiến kéo dài 41 ngày. Tổn thất về phía
Ấn Độ: 3,128 chết, 3,123 bị bắt, 1,047 bị thương, phía Trung
quốc 722 chết, 2 bị bắt và 1,697 bị thương.

Trung quốc tuyên bố thắng trận,"dậy cho Ấn độ" một
bài học. Ấn Độ mất hai vùng đất thuộc bang Arunachal Pradesh.
Vừa có của vừa ráp ranh với Trung quốc, người Ấn Độ lại
vừa thiền vừa mơ ngủ theo chính sách "bất bạo
động"của Ghandhi! Thủ tướng Nehru thú nhận "Chúng tôi
sống trong thiên đàng hão huyền/We were living in fool`s paradise".
Sống đời này lại cứ vun xới thiên đàng ở đời sau! Bài
học này không chỉ riêng cho Ấn Độ.

<em><strong>Theo NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ</strong></em>

<em><strong>______________________________ </strong></em>


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140422/lich-su-dan-toc-uyghur-duy-ngo-nhi),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét