Phạm Hoàng Quân - Đông Du: Một góc nhìn

<em><strong>Một cuộc cách mạng bằng bạo lực là cần thiết
để đánh đuổi ngoại xâm hoặc lật đổ một chính quyền
thối nát trong một thời điểm lịch sử cụ thể. Nhưng học
tập nhân loại tiến bộ, nâng cao dân trí mới luôn luôn là
kế vạn toàn để xây dựng một đất nước có phẩm giá và
sự khang kiện.</strong></em>

Đầu xuân, những lời bàn về khai trí hi vọng sẽ mang lại ít
nhiều lưu ý thú vị cho những người nhiệt huyết, thật sự
xem trọng công cuộc canh tân đất nước trong giai đoạn lịch
sử mới mẻ và nhiều biến động này.

"Mặc dầu chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, nhưng phong
trào Đông Du được coi là một trong những phong trào yêu nước
mạnh mẽ nhất của nhân dân Việt Nam đầu thế kỷ 20, đặc
biệt nhiều thanh niên du học của trào lưu này đã trở thành
những hạt nhân của các phong trào cách mạng tiếp theo trong
công cuộc giải phóng dân tộc", đúc kết này trong Từ điển
bách khoa Việt Nam cũng tương tự nhiều sách lịch sử phổ
thông, có thể xem là cách đánh giá phổ biến trong nhiều chục
năm qua về phong trào Đông Du (1905-1908).

Ở đó, người ta chỉ nhấn mạnh tính chất cách mạng theo
chiều hướng giải phóng dân tộc bằng đấu tranh bạo lực.
Thành – bại – được – mất từ công cuộc đường xa cầu
học với mục đích canh tân đất nước mang tên Đông Du cần
được nhìn rộng hơn ở những góc độ khác, trong đó gồm
nhiều thành phần tham dự vào mục tiêu cải cách xã hội Việt
Nam hồi đầu thế kỷ 20.

<h2>Những nhân vật Đông Du theo đuổi học thuật</h2>

Do sự thỏa hiệp với Pháp, tháng 9-1908 Chính phủ Nhật ra
lệnh giải tán du học sinh Việt Nam. Phong trào Đông Du đến
đây coi như chấm dứt, mọi chi viện từ trong nước đối với
các thành viên qua danh nghĩa phong trào đều ngưng, cũng có nghĩa
là những người chọn cách bám trụ xứ người đều phải tự
lực.

Gần 200 du học sinh chỉ khoảng 20 người ở lại, trong Phan
Bội Châu niên biểu, cụ Phan nhắc tên 5 người Nam kỳ, 6
người Bắc kỳ và 7 người Trung kỳ. Những người ở lại
học tập phần đông đã chọn mục tiêu thu thập kiến thức
đấu tranh vũ trang, chia nhau học kỹ thuật chế tạo vũ khí,
kỹ thuật quân sự… Một số rất ít theo đuổi tri thức về
khoa học xã hội mà bấy giờ được cho là tri thức hiện
đại như mục tiêu hồi đầu phong trào đã đề ra.

Vài nhân vật như Trần Văn Thư, Cao Trúc Hải, Nguyễn Kế Chi
có thể xem là những trường hợp khá đặc biệt.

Trần Văn Thư (người Vĩnh Long), một trong năm người Nam kỳ,
lúc này chỉ độ 10 tuổi, đã cương quyết ở lại Nhật tìm
cách vừa làm vừa học. Cụ Phan viết: "Trần Văn Thư về sau
tốt nghiệp ở Trường đại học Tảo Đạo Điền của Nhật
Bản".

Tảo Đạo Điền tức Waseda, nếu như thông tin cụ Phan có
được lúc an trí ở Huế là chính xác thì Trần Văn Thư có
lẽ là người đầu tiên hoàn tất chương trình tại một đại
học danh giá mạnh về chính trị học, kinh tế học ở Nhật
Bản. Tiếc là với thông tin quá ít ỏi, chúng ta chưa biết
thêm về ngành học và hoạt động về sau của người này.

Cao Trúc Hải, người Hà Nội, từng học ở trường y của
Pháp, tinh thông Pháp văn, đã dịch quyển Vân Nam du ký của
người Pháp viết để đăng trong tạp chí Vân Nam. Người này
chọn cách ở lại Nhật để học tập, không có tiền ăn tiền
trọ, có lúc phải làm phụ bếp ở quán cơm, chẳng may mất
sớm vì bệnh đậu mùa tại Hoành Tân (Yokohama).

Người Việt dịch văn Pháp sang chữ Hán để đăng trên tạp
chí ở Trung Hoa, với tài năng và sở trường về ngôn ngữ cỡ
này, trở về nước dù chỉ hoạt động tư nhân tài tử, giàu
có phong lưu đối với Cao tiên sinh tưởng là chuyện không
phải khó.

Hoàng Đình Tuân tức Nguyễn Kế Chi, người Hà Nội, sang Tokyo
lúc 14 tuổi, vào học ở Đồng Văn Thư Viện, đứng đầu ban
Nhật ngữ. Sau vì muốn ở lại học tiếp trường sư phạm
chuyên môn nên nhập quốc tịch Trung Hoa, tốt nghiệp hạng ưu,
đến làm giáo viên tại Bắc Kinh, làm biên tập viên báo Đông
Á Đồng Văn, thạo tiếng Anh tiếng Nhật, hiểu tiếng Đức,
tiếng Pháp.

Cụ Phan viết: "Anh có trình độ học thức cao, lại có tài
biện luận, mấy năm tôi ở Bắc Kinh, công việc với giới
ngoại giao phần nhiều là do anh giúp". Người này bị bệnh
và mất năm 1924, trước lúc cụ Phan bị bắt (1925).

Những người đến Nhật vào thời điểm cuối của phong trào,
những người ngoài tổ chức của phong trào hoặc đến Nhật
trong một thời gian ngắn lại là những người có thành tựu
học thuật đáng kể nhất. Tuy họ được cụ Phan nhắc đến
với thái độ rất dè dặt và không đề cập gì đến thành
tựu học thuật, nhưng qua những công trình nghiên cứu về
lịch sử, văn hóa và giáo dục cho thấy họ đã bước đầu
tiếp cận được với phương pháp và tác phong nghiên cứu của
giới học thuật Nhật Bản.

Phan Châu Trinh năm 1906 đến Nhật chỉ một tuần, đọc được
bộ Đại Việt sử ký toàn thư khắc in ở Nhật vào năm Minh
Trị thứ 17 (1884). Ông đã bỏ công sao lục toàn văn (Hán văn)
các phần quan trọng như lời tựa của Xuyên Điền Cương, lời
tựa và phàm lệ của Dẫn Điền Lợi Chương, cùng sao lục
toát yếu nội dung sách, tổng cộng 27 trang. Tuy đây chỉ là
công việc sao chép, nhưng qua đó thấy được tinh thần tôn
trọng văn bản, thói quen này vốn rất hiếm thấy trong hàng
ngũ trí thức sử gia đầu thế kỷ 20 trở về trước.

Cần lưu ý rằng Đại Việt sử ký toàn thư nói riêng và sách
sử Việt Nam nói chung đã được người Nhật để mắt thu
thập và nghiên cứu từ những năm nửa cuối thế kỷ 19. Việc
Phan Châu Trinh quan tâm đến cách đánh giá sách này của người
Nhật tuy chưa hẳn với ý đồ học thuật nhưng phải được
xem là cung cách của người có tư chất học thuật.

Tang Nguyên Chất Tạng (Kuwabara Sunaotoshi) biên soạn Đông Dương
sử yếu và xuất bản năm 1908, đây là bộ lịch sử khu vực
đầu tiên được biên soạn theo phương pháp hiện đại do học
giả Nhật Bản thực hiện. Hoàng Cao Khải khi viết Việt sử
yếu (Hán văn – 1914) đã tham khảo cách viết sử mới mẻ từ
Đông Dương sử yếu và cũng phản bác luận thuyết về nguồn
gốc dân Giao Chỉ của Kuwabara Sunaotoshi. Cho dù đúng sai phải
trái thế nào thì đây vẫn là dấu hiệu tương tác học thuật
khá sớm và trong đó có sự tham dự ít nhiều hoặc bắt nguồn
từ những người Đông du.

Học được cái hay trong nghiên cứu học thuật ở Nhật Bản
và ứng dụng sở học này góp phần chung sức với các nhà Tây
học vào việc thúc đẩy cho sự thay đổi lối học cũ ở
nước Nam là hai học giả Sở Cuồng Lê Dư và Tiêu Đẩu
Nguyễn Bá Trác. Hai người này thành danh cùng với tạp chí Nam
Phong, là trụ cột phụ trách phần Hán văn. Nếu xem thư mục
phần chữ Hán trên tạp chí này, với những danh mục dày dạn
các bài viết mang tính nghiên cứu của hai ông, tôi nghĩ rằng
họ – những nhà nho cựu học – có thể phải được xếp
kế Phạm Quỳnh ở phương diện xông vào lĩnh vực học thuật
mới.

Trong thời gian ở Nhật, Lê Dư viết cuốn Nhật Bản thải phong
ký (ghi chép về phong tục Nhật Bản) với các tiểu mục về
lịch sử, văn học, giáo dục, lịch sử quan hệ Việt –
Nhật, đặc biệt trong phần phụ lục của mục giáo dục là
bảng kê 35 trường đại học và 5 trường cao đẳng ở Tokyo,
lại thêm bảng liệt kê và giới thiệu vắn tắt về các phân
khoa của Đế Quốc Đại học, trường lớn bậc nhất của
Nhật Bản.

Việc làm thiết thực này ngày nay chúng ta gọi là "cẩm nang
du học Nhật Bản", rõ ràng có ý nghĩa khác xa so với những
tập ký sự, du ký thông thường chen đầy thi phú ngâm vịnh
của những sứ thần trước đó. Ngoài ra, ông còn sao lục 35
văn bản quan trọng liên quan đến lịch sử quan hệ giao thương
Việt – Nhật hồi thế kỷ 17 trong nhiều nguồn thư tịch cổ
xuất bản ở Nhật…

Nguyễn Bá Trác chịu ảnh hưởng học thuật Nhật Bản nhiều
mặt, tiêu biểu là phép làm niên biểu theo phương pháp khoa
học. Xưa nay phần đông giới sử gia nước ta hình như kém về
toán học hoặc lười tính toán, việc tổ chức sắp xếp đối
chiếu chọn lọc năm tháng và sự kiện vào bảng biểu có
khuôn mẫu nhất quán mãi cho đến đầu thế kỷ 20 vẫn chưa
làm được.

Khác với việc soạn sử biên niên hay chép biên niên sự kiện,
việc lập niên biểu cần thêm óc tổ chức, xem Hoàng Việt
Giáp Tý niên biểu (Hán văn, 1925) do Nguyễn Bá Trác và cộng
sự ở Bộ Học biên soạn thấy rất giống các niên biểu
lịch sử Nhật Bản hồi thế kỷ 18. Sách này ngoài cột chính
ghi niên biểu Việt Nam, hai cột phụ là niên biểu Trung Quốc
và Nhật Bản, lại phụ thêm các đại sự kiện của các
nước khác.

Trong ba món công cụ tối cơ bản của sử học: niên biểu, từ
điển địa danh, từ điển nhân danh, coi như cuốn niên biểu
soạn từ cuối thời Nguyễn này đến nay vẫn đắc dụng vì
tính khoa học của nó, hai món còn lại là món nợ rất lớn và
rất đáng thẹn của giới học giả, sử quan, sử gia các loại
hiện nay.

<h2>Những giá trị gợi mở cho học thuật</h2>

Vì sao các công trình nghiên cứu quan trọng mang tính bản lề
của hai lối học cũ mới như vừa nêu trên lại đều viết
bằng Hán văn? Lê Dư từng làm việc ở Bác cổ học viện Hà
Nội với người Pháp, giỏi quốc ngữ, Nguyễn Bá Trác cũng
giỏi quốc ngữ, sao họ lại không khai dân trí bằng quốc
ngữ?

Cho mãi đến năm 1924, Nguyễn Bá Trác còn lấy Annuaire
Administratif de I'Indochine (Đông Dương hành chánh niên giám)
bản tiếng Pháp in năm 1906 dịch sang chữ Hán và đặt tên sách
là An Nam dư địa chí để làm gì?

Tất cả nằm ở chỗ đối tượng khai thị là tầng lớp trí
thức quan lại đang điều độ guồng máy xã hội còn quen dùng
chữ Hán. Cho nên việc viết bài nghiên cứu bằng Hán văn hay
dịch các ngôn ngữ khác sang Hán văn giữa lúc chữ quốc ngữ
đã tương đối ổn định không phải là việc làm thiển lậu,
đi ngược dòng, càng không phải do tư tưởng còn luyến tiếc
nền học cũ.

Nói về hiệu quả, có lẽ đối tượng cần được khai trí,
cần bị tác động mà hai ông Lê, Nguyễn chọn không thể kém
hơn tầng lớp bình dân.

Những trở ngại nào đó trong lịch sử đã khiến phong trào
Đông Du không làm đúng mục tiêu và chức năng căn bản của
nó, Phan Châu Trinh nói: "Làm sao lúc đầu thì khuyên du học,
sau đó lại vội khuyên làm cách mạng? Há lấy hai ba học sinh
xuất dương vài tháng, trí thức mới cao, trình độ mới khá
có thể chống lại một nước văn minh bậc nhất hay không?"
(Pháp – Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam).

Nếu xem học vấn là một nhu cầu mang tính nền tảng trong
việc khai mở dân trí, những người nối dài phong trào Đông Du
ít khi được nhắc đến nói trên đã để lại cho chúng ta
rất nhiều, ngoài những giá trị trực tiếp hoặc gián tiếp
ảnh hưởng đến sự canh tân đất nước sau này còn ẩn chứa
những bài học về nghị lực cầu tìm tri thức và tinh thần
học thuật không biên giới, có thể nói còn hơn cả người nay
ở giá trị gợi mở, đem đến cho môi trường học thuật
luồng gió mới. Nhưng tất cả chỉ mới bắt đầu.

Nếu có thể phân kỳ cho lịch sử giao thông tri thức hoặc
tiến trình tiếp xúc giữa các nền văn minh nhân loại, tôi
nghĩ có thể phân làm bốn bước: theo đường bộ, theo đường
hàng hải, theo đường hàng không, theo đường truyền Internet.
Đông Du thuộc thời kỳ thứ hai, có nghĩa là còn thô sơ chậm
chạp lắm. Các vị tiền bối phải vượt sóng gió ngàn trùng,
thực địa và thông tin đều phải trả bằng những giá rất
đắt.

Chúng ta đang ở thời kỳ thứ tư với đầy đủ các điều
kiện giao lưu ẩn tàng trong nhiều hình thức quan hệ, nhưng
nhìn tổng quan về lượng và chất trong lĩnh vực nghiên cứu
học thuật, chúng ta cũng vẫn na ná các bậc tiền bối cách nay
hơn 100 năm, nghĩa là đối với phạm vi khu vực chúng ta chỉ
mới bắt đầu tập tõm, nói một cách không lạc quan là nếu
đem tình hình điều kiện tiếp cận tri thức, tinh thần học
tập ở hai thời điểm để so sánh, có khi chúng ta còn kém
người của trăm năm trước.

<em><strong>Theo Tuổi Trẻ Cuối Tuần</strong></em>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140212/pham-hoang-quan-dong-du-mot-goc-nhin),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét