Ngô Nhân Dụng - Ðảng tan rã vì những thế lưỡng nan

<strong>Trong cuốn hồi ký Một Cơn Gió Bụi (Chương 12), Trần
Trọng Kim nhận xét về đảng Cộng sản Việt Nam: "Cái chủ
nghĩa cộng sản về đường luận thuyết cũng có điều bảo
thủ như là muốn chữa những điều bất công trong xã hội,
nhưng về đường kinh tế, thì lại áp chế quá, làm lắm
điều hà khốc và dùng những thủ đoạn quỷ quyệt giả dối,
khiến người ta mất lòng tin cậy. Ðem cái bất công bình nọ
mà phá cái bất công bình kia thì dù có thắng lợi đi nữa,
cũng không chắc đã vững bền." (Xin chú thích: Bảo thủ ở
đây nghĩa là đáng giữ)</strong>

Trần Trọng Kim viết cuốn hồi ký này trước khi qua đời năm
1953 ở Ðà Lạt, vào tuổi 70, nhà xuất bản Vĩnh Sơn, Sài Gòn,
in di cảo vào năm 1969. Trước đây hơn 60 năm, tác giả đã
tiên đoán rằng dù có thắng lợi đi nữa, đảng Cộng sản
cũng không vững bền. "Cũng không chắc đã vững bền" là
lối diễn tả nhẹ nhàng theo ngôn ngữ của một nhà giáo, một
người thấm nhuần phong cách Nho gia. Theo lối bây giờ sẽ nói
thẳng rằng vì "người ta mất lòng tin cậy" đảng Cộng
sản chắc chắn sẽ tan rã.

Vào lúc Trần Trọng Kim tiên đoán chế độ Cộng sản sẽ tan
rã, cụ hoàn toàn dự đoán theo lương tri, chưa có kinh nghiệm
như chúng ta bây giờ đã chứng kiến cảnh sụp đổ của các
chế độ cộng sản ở Nga và Ðông Âu từ năm 1989. Ngày nay
lớp hậu sinh học hỏi được nhiều hơn, với nhiều bằng cụ
thể chứng hơn, chúng ta thấy rõ hiện tượng Ðảng Tan Rã
đang xẩy ra, đúng như lời tiền nhân tiên đoán.

Trước hết vì các chế độ độc tài sụp đổ là một trào
lưu đã diễn ra khắp thế giới liên tục trong 40 năm qua. Từ
thập niên 1970 đến nay, gần 100 quốc gia đã chuyển từ độc
tài sang các thể chế dân chủ dưới nhiều hình thức, và với
mức độ tự do nhiều hay ít khác nhau. Các nước đổi sang
thể chế dân chủ ngày càng nhiều, tại những nước đã dân
chủ hóa thì dân vẫn đòi hỏi được tự do thêm. Người dân
cũng như giới quyền quý ở Việt Nam, cũng như bên Trung Quốc
đều biết điều đó.

Có một kinh nghiệm lịch sử, là các chế độ độc tài
thường chấm dứt sau khoảng thời gian khoảng 70 năm cầm
quyền, dù không bị sụp đổ do một biến cố bên ngoài, như
Ðức Quốc Xã, Phát Xít Ý, hay Quân Phiệt Nhật thua trận.
Cộng sản Liên Xô nắm quyền lâu nhất, được 74 năm. Quốc
Dân Ðảng Trung Hoa được 73 năm, bắt đầu ở lục địa,
chấm dứt ở Ðài Loan. Ðảng Dân chủ Ðịnh chế (Partido
Revolucionario Institucional, PRI) ở Mexico cai trị 71 năm. Cả hai
đảng ở Ðài Loan và Mexico sau còn được dân bầu trở lại
cầm quyền vì họ chấp nhận, khởi xướng quá trình dân chủ
hóa. Ðảng Cộng sản Nga thì không. So với thời hạn 70 năm
thì hiện nay chế độ Cộng sản Trung Quốc đã thọ được 65
tuổi tính từ năm 1949, Cộng sản Việt Nam đã cầm quyền 69
năm kể từ năm 1945. Không biết hai đảng này sẽ phá được
kỷ lục của Liên Xô hay không, nhưng chắc chắn họ sẽ theo
chung một số phận. Cảnh tan rã thường được báo hiệu từ
hàng chục năm trước, cường độ tăng lên dần dần.

Có hai lý do khiến cho các chế độ độc tài phải tan rã, dù
ở Liên Xô, Mexico, Việt Nam hay ở Trung Quốc. Thứ nhất là
hiện tượng suy đồi từ bên trong guồng máy thống trị. Thứ
hai là loài người tiến bộ, với những thay đổi trong đời
sống kinh tế, xã hội, nhất là trong kỹ thuật thông tin. Hai
hiện tượng đó diễn ra song hành, thúc đẩy lẫn nhau, đưa
tới tình trạng "Ðảng Tan Rã" không thể tránh được.

Về hiện tượng tự suy đồi, các chế độ độc tài nuôi
sẵn những mầm mống tự diệt, ngôn ngữ Mác xít gọi là
những mâu thuẫn nội tại. Mâu thuẫn là điều Karl Marx coi là
không thể tránh được, dù ông chỉ lo phân tích những mâu
thuẫn nội tại của kinh tế tư bản. Sau khi phân tích, ông Marx
tiên đoán các mâu thuẫn từ bên trong sẽ khiến hệ thống kinh
tế tư bản giẫy chết. Kết luận này sai lầm, không phải vì
kinh tế tư bản không có những mâu thuẫn nội tại. Nhưng nhờ
được bổ túc bằng thể chế dân chủ nên các mâu thuẫn
được biểu hiện tự do, nhờ thế tự thay đổi. Một "hệ
thống mở" có khả năng tự chuyển hóa để thoát chết. Một
hệ thống khép kín như các chế độ độc tài cũng cần đáp
ứng các mâu thuẫn nội tại. Nếu nó cứ tiếp tục khép kín
thì sẽ đi tới sụp đổ. Ngược lại, nếu nó bắt đầu cởi
mở thì xã hội sẽ tự đổi, dần dần tới lúc không còn
độc tài nữa. Ðây là một thế lưỡng nan khó thoát ra
được. Ðảng có thể tan rã qua hai con đường, hoặc sụp đổ
nhanh chóng hoặc qua những "diễn biến hòa bình."

Ngoài ảnh hưởng các mâu thuẫn trong xã hội, một hệ thống
khép kín tự nó đã chứa những mâu thuẫn, giữa thực tế và
lý tưởng. Ðầu thế kỷ 20, nhà phân tích xã hội Robert Michels
người Ðức đã phân tích mối mâu thuẫn nội tại trong các
đảng xã hội, một bên là lý tưởng tự do và bình đẳng,
một bên là thực tế quyền hành được tập trung vào trong tay
một nhóm nhỏ các lãnh tụ. Tập trung quyền kiểm soát các
đảng viên, quyền sử dụng các tài nguyên của đảng, sẽ
đưa tới chế độ quả đầu (oligarchy). Hiện tượng này thấy
rõ trong các chế độ độc đảng, đưa tới cảnh suy đồi ngay
từ bên trong.

Không thể nào có dân chủ ở bên trong một đảng nếu đảng
này chủ trương cai trị cả xã hội bằng phương pháp chuyên
chế. Khi một đảng chiếm độc quyền lãnh đạo, qua một, hai
thế hệ, các lãnh tụ sẽ thấy cơ hội "thu lợi nhuận,"
vì họ đã "đầu tư" cả cuộc đời vào đảng. Với độc
quyền lãnh đạo, xã hội không có cơ chế nào để kiềm chế
họ. Giữa đám lãnh tụ, các mâu thuẫn sẽ nảy sinh, họ tranh
giành nhau, khi cần thì thay đổi "luật chơi" trong nội bộ
để chiếm thêm nhiều quyền và nhiều lợi lộc hơn. Bên
ngoài, những người lanh lẹ, khôn ngoan nhìn thấy việc vào
đảng như một cơ hội đầu tư. Những đảng viên bên dưới
có thể "phấn đấu" leo dần lên các nấc thang, chờ tới
ngày sẽ trở thành lãnh tụ và bắt đầu thu lợi nhuận. Nhưng
tất nhiên họ cũng thấy có thể thu lợi nhuận sớm hơn, vì
ở mỗi cấp quyền hành đều tập trung và không cơ chế bên
ngoài nào để kiểm soát và kiềm chế. Ðộc quyền lãnh đạo
thi hành từ trên xuống dưới tạo ra môi trường thuận lợi
cho họ. Ðó là nguyên nhân gây nên cảnh lạm quyền, tham nhũng,
các đảng cộng sản ở Trung Quốc cũng như Việt Nam đều đã
thú nhận. Họ không thể giảm bớt được tệ nạn này nếu
vẫn tiếp tục giữ độc quyền lãnh đạo. Nhưng mối mâu
thuẫn nội tại này không đủ làm cho đảng tan rã nhanh nếu
không có những mâu thuẫn lớn trong sự vận hành của toàn
thể hệ thống.

Trong một xã hội sống dưới chế độ độc tài, mối mâu
thuẫn thứ nhất phát khởi vì nhu cầu của đảng phải kiểm
soát đám dân bị trị. Càng kiểm soát chặt chẽ thì càng làm
cho xã hội chậm tiến, từ kinh tế đến văn hóa. Người dân
so sánh chế độ mình đang sống với các nước chung quanh,
thấy họ đang thua kém về mọi mặt, thấy cần thay đổi chế
độ. Muốn xoa dịu lòng dân thì phải nới lỏng guồng máy
kiểm soát, phải "đổi mới" để đáp ứng nhu cầu, từng
bước một. Ðài Loan, Ba Lan, Hungary đã đi từng bước như vậy
trong hàng chục năm, trước khi thay đổi hẳn. Ði trên con
đường này chính quyền độc tài có dịp lâu lâu lại kể
công mình đã "đổi mới" cứu dân thoát tai họa của những
người cầm quyền trước, độc tài hơn mình. Những khẩu
hiệu "tiến lên chủ nghĩa xã hội" được thay thế bằng
khẩu hiệu "tiếp tục đổi mới để tiến lên." Con
đường này trước sau cũng trở thành "diễn biến hòa bình"
đòi thay đổi toàn diện. Nếu cố cưỡng lại khát vọng của
người dân thì mâu thuẫn ngày càng nặng hơn, diễn biến sẽ
không còn hòa bình nữa, như đã xảy ra ở Phi Luật Tân thời
Marcos, ở Nga, và đặc biệt ở Rumania. Ðây là một thế
lưỡng nan (dilemma), chọn đi theo con đường nào cũng dẫn tới
tình trạng chế độ tan rã.

Mâu thuẫn thứ hai nằm ngay trên con đường đổi mới chậm
từng bước. Nới rộng guồng máy kiểm soát thì người dân
sẽ được no ấm hơn. Nhưng sau khi đủ ăn, đủ mặc rồi, kỳ
vọng của dân chúng sẽ lên mức cao hơn. Uy tín của chính
quyền được đo lường bằng những bước tiến trên đường
phát triển kinh tế nó cho biết nền cai trị bền vững hay
không. Nhưng các nhu cầu kinh tế sẽ gia tăng, người dân vẫn
tự so sánh đời sống của họ với các nước chung quanh mà
họ nhìn thấy trên ti vi, hay qua đám du khách. Chính quyền độc
tài bị đặt vào một thế lưỡng nan mới. Nếu kinh tế phát
triển chậm, dân bất mãn, có thể đưa tới diễn biến không
hòa bình. Nếu kinh tế tiến bộ, xã hội thay đổi, tâm lý và
thái độ của người dân sẽ thay đổi, người ta không thể
chấp nhận sống dưới ách độc tài mãi được. Vì kinh tế
phát triển tạo ra một tầng lớp trung lưu, lợi tức và học
vấn cao hơn. Họ sẽ nuôi những khát vọng bình thường của
giới trung lưu khắp nơi. Họ ý thức về quyền công dân của
mình, họ biết tập họp thành tổ chức, một xã hội công dân
ra đời là mầm mống tạo thêm nhu cầu sống tự do dân chủ.
Ðảng PRI đã thành công phần nào trong việc nâng cao đời
sống của dân Mexico trong hơn nửa thế kỷ; nhưng chính vì thế
mà dân gặp họ muốn thay đổi.

Các chế độ độc tài thường ra đời sau các cuộc chiến
tranh hay cách mạng, với những lãnh tụ đầu tiên được tô
điểm bằng hình ảnh hấp dẫn quần chúng, Max Weber gọi là
"charisma." Sau đó, phải đi qua một quá trình mà Max Weber
gọi là "bình thường hóa" (routinization). Mâu thuẫn nằm
trong quá trình này, vì không đáp ứng được những thay đổi
trong xã hội. Các chế độ độc tài thất bại vì không thể
bình thường hóa một nền nếp xã hội mà giới trung lưu nhìn
thấy là không bình thường. Giới trung lưu thành hình khi kinh
tế phát triển. Lợi tức lên cao khiến người ta muốn tiêu
thụ các sản phẩm và dịch vụ mà người nước khác được
hưởng. Sau khi thỏa mãn những nhu cầu sơ đẳng (cơm ăn, áo
mặc, nhà ở) sẽ nẩy sinh những nhu cầu ở cấp cao hơn, như
con cái được hưởng một nền giáo dục tử tế, mình được
an toàn nhờ pháp luật bảo vệ, được thỏa mãn các nhu cầu
tinh thần, như quyền được đóng góp ý kiến về những quyết
định chung liên can đến mình. Nhu cầu cao nhất là quyền
được lựa chọn, được quyết định, do đó cần được cởi
trói khỏi chế độ độc tài. Người ta tin vào một số giá
trị giống giới trung lưu ở các nước tiến bộ, vì trình
độ học vấn tương tự. Với hiểu biết rộng hơn, họ cũng
bớt bảo thủ, sẵn sàng chấp nhận những bất đồng về tư
tưởng, ý kiến. Họ tự ý thức các quyền lợi của mình và
quyền lợi chung của xã hội mình đang sống; và họ sẵn sàng
lên tiếng đòi hỏi, nếu cần thì hành động để phản kháng.

Một xã hội không thể tạo ra một tầng lớp trung lưu trong khi
vẫn duy trì một guồng máy kiểm soát đè nén không cho những
khát vọng của giới trung lưu được thể hiện, qua xã hội
công dân với những tổ chức mà giới trung lưu tự lập để
thể hiện những giá trị bình thường của giới trung lưu
khắp mọi nơi. Diễn biến tất sẽ xảy ra, hòa bình hay không
hòa bình. Chế độ độc tài phải tan rã.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140212/ngo-nhan-dung-dang-tan-ra-vi-nhung-the-luong-nan),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét