Huy Đức - “Nạn Kiều”

Tháng 8-1978 tại Ga Hàng Cỏ, và sau đó ở Lạng Sơn, đã nổ ra
hai cuộc biểu tình của người Hoa. Chính quyền nhanh chóng dập
tắt, tuy nhiên, chuyện "gián điệp Trung Quốc" được nói
đến gần như vào mỗi tối thứ Bảy hàng tuần trong tiết
mục "Kể chuyện cảnh giác" của Đài Tiếng nói Việt Nam.

Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thừa nhận: "Ban đầu phía Trung
Quốc gây ra việc dụ dỗ ép buộc người Hoa ở Việt Nam về
nước để tìm cớ xa lánh Việt Nam, bắt tay với Mỹ… Nhưng
nói cho khách quan, phía lãnh đạo của ta cũng thành kiến và
nghi ngờ người Hoa sẽ là đội quân thứ năm của Trung Quốc
nên cũng muốn tống người Hoa đi cho rảnh". Ở một số
địa phương, vấn đề người Hoa đã ngấm ngầm xảy ra từ
trước đó.

Năm 1955, sau khi tiếp quản Quảng Ninh và Hải Phòng, Ban Hoa vận
đã vận động người Hoa bỏ chữ "kiều" trong tên gọi các
cộng đồng ngoại kiều khác để trở thành một dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam. Họ đã phải "bình đẳng" chịu
"cải tạo" trong chiến dịch cải tạo công thương nghiệp
tiến hành ở miền Bắc cuối thập niên 1950 và bắt đầu
chịu áp lực nhiều hơn kể từ sau ngày Bắc-Nam thống nhất.

Từ cuối năm 1976, người Hoa ở Hải Phòng, Quảng Ninh, đã
không được làm những nghề "có thể làm gián điệp" như
thợ cắt tóc, thợ điện gia dụng, không được quan hệ với
người nước ngoài… Ông Trịnh Văn Trọng có vợ, nhà thơ Dư
Thị Hoàn, là người Hoa ở Hải Phòng. Ông Trọng kể khi chiến
dịch "nạn Kiều" bắt đầu, người Hoa ở Quảng Ninh, Hải
Phòng, ra đường thì bị kêu là "thằng Hán gian", về nhà
thì gặp cán bộ phường tới phân tích: "Tình hình Việt
Nam-Trung Quốc rất căng, nếu ở lại không biết điều gì sẽ
xảy ra. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho người Hoa
trở về Tổ quốc".

Các chính sách áp dụng ở Quảng Ninh còn cứng rắn hơn bởi
bàn tay của Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm. Giữa thập niên
1970, Quảng Ninh có hơn mười sáu vạn người Hoa nói các thứ
tiếng khác nhau, mỗi dân tộc có một trường riêng để dạy
con em họ. Người Hoa sống thành từng cộng đồng riêng biệt.
Ông Vũ Cẩm, khi ấy là trưởng Ty Giáo dục Quảng Ninh, nói:
"Tôi xuống các trường cũng phải cần phiên dịch". Năm
1976, theo ông Vũ Cẩm, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm gọi
ông lên yêu cầu: "Anh phải xóa hết trường Hán, tiếng
Hán". Ông Cẩm đề nghị ông Tâm xem lại vì các trường sở
này hình thành ở đây đã từ lâu đời, nhưng ông Tâm không
chịu.

Ông Vũ Cẩm nói: "Tôi không rõ ông Tâm nhận chủ trương này
từ ai nhưng ông nói như ra lệnh bằng một chỉ thị mồm chứ
bản thân ông cũng không dám ra nghị quyết. Tôi nghĩ mãi và
cuối cùng do ông Tâm thúc ép đành phải thảo một văn bản,
không nói là giải tán các trường của người Hoa mà nói là
thống nhất hệ thống giáo dục, một xã chỉ có duy nhất một
trường phổ thông dạy bằng tiếng Việt. Soạn rồi, tôi không
dám ký, giao cho các phó Ty, các phó của tôi cũng không anh nào
chịu ký. Tôi lên báo cáo Bộ Giáo dục, Bộ bảo tùy địa
phương nhưng cũng không dám ra văn bản. Cuối cùng, tôi phải
ký. Tuy nhiên, để đảm bảo cuộc sống cho đội ngũ giáo viên
người Hoa, tôi quy định: các giáo viên người Hoa được
hưởng nguyên lương để đi học tiếng Việt".

Nhưng chỉ ít lâu sau, cũng như mười sáu vạn người Hoa khác,
điều đe dọa đối với những giáo viên này không còn là vấn
đề việc làm. Năm 1978, theo ông Vũ Cẩm: "Ông Nguyễn Đức
Tâm gặp các tỉnh ủy viên người Việt nói, thái độ Trung
Quốc đối với Việt Nam không tốt, chúng ta không nên bầu
người gốc Hoa vào cấp ủy. Khi đó, trong tỉnh ủy Quảng Ninh
vẫn còn hơn mười người gốc Hoa, có những người rất có
công như anh Lý Bạch Luân đã từng là phó bí thư tỉnh Hải
Ninh, sau khi nhập tỉnh, anh Luân làm phó chủ tịch tỉnh mới
– tỉnh Quảng Ninh". Khi Trung Quốc rút các kỹ thuật viên
giúp Việt Nam khai thác mỏ, họ vận động anh hùng lao động
Voòng Nải Hoài, một kỹ thuật viên giỏi, bỏ Việt Nam về
Trung Quốc. Theo ông Vũ Cẩm: "Nhân đấy, ông Nguyễn Đức Tâm
có sáng kiến, anh rút về thì tôi cho người Hoa về hết
luôn"210.

Trong lịch sử di dân của loài người, cuộc di dân cưỡng bức
của người Hoa năm 1978 ở Quảng Ninh có lẽ là một trong
những chương bi thương nhất. Nhiều người Hoa đã đến đây
từ nhiều đời, đã chọn Việt Nam làm quê hương; nhiều
người không nói tiếng Hoa, không hề nhớ gốc gác mình từ
đâu. Tất cả đều bị khép vào thành phần phải trở về
Trung Quốc.

Bị ép quá, một phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Tỉnh, ông
Voong Hổi, đã tự sát bằng cách tự mổ bụng. Theo ông Vũ
Cẩm, ông Hổi sau đó được cứu sống, tuy không còn bị
đuổi đi nữa nhưng phải chịu kỷ luật khai trừ Đảng. Ông
Vũ Cẩm kể: "Một cán bộ của tôi, anh Lâm Anh Văn, đang là
trưởng Phòng Giáo dục huyện Quảng Hà, cũng bị công an bắt
phải trở về Trung Quốc. Anh ta gặp tôi nói, buộc đi thì đi
chứ anh sẽ không sang Trung Quốc đâu".

Ở xã Hà An, huyện Yên Hưng, có một gia đình, chồng là Trần
Vĩnh Ngọc, hiệu trưởng một trường phổ thông, vợ là Chu
Thị Họa. Chị Họa quê ở Thái Bình, là người Việt Nam. Anh
Ngọc sinh ở Việt Nam, có mẹ là người Việt, cha là người
Hoa, nhưng ông chết từ khi anh còn nhỏ. Trần Vĩnh Ngọc được
xếp vào diện người Hoa. Theo ông Vũ Cẩm: "Bị công an yêu
cầu phải trở về Trung Quốc, Ngọc tới gặp tôi xin ở lại
vì nó có biết quê quán ở đâu đâu, tiếng Hoa cũng không
biết. Tôi gặp Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm báo cáo. Ông
Tâm lạnh lùng bảo tôi đừng can thiệp vào, để cho công an
người ta làm. Bế tắc, Ngọc về bắt ba đứa con quàng khăn
đỏ đội viên thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, buộc nằm
lên giường rồi lấy chăn bông đè lên cho tới chết. Xong, anh
ta lấy búa đập vỡ đầu vợ rồi lấy dao tự đâm vào tim
mình. Nghe tin, tôi chạy xuống thì cả gia đình đều đã chết.
Tôi bảo cậu Trưởng Phòng Giáo dục phải làm tang lễ tử tế
rồi đi báo Nguyễn Đức Tâm. Tưởng Tâm sẽ phải suy nghĩ ai
dè ông ta sắt đá nói 'kệ', gương mặt gần như vô
cảm".

Ông Võ Văn Kiệt kể: "Năm 1978, tôi ra Quảng Ninh khi anh
Nguyễn Đức Tâm đang ở Móng Cái trực tiếp chỉ đạo vấn
đề người Hoa. Tôi có cảm giác như ở đây cũng có không khí
'cải tạo', rất nhiều người Hoa đã sống lâu đời ở
Việt Nam bị đưa về Trung Quốc. Quảng Ninh, Móng Cái vắng
ngắt". Theo cuốn Địa chí Quảng Ninh Tập 1, người Hoa vốn
sống tập trung ở chín huyện trong tỉnh, nhưng sau năm 1978 chỉ
còn lại 5.000 người; 160.000 người Hoa ở Quảng Ninh đã phải
ra đi trong vụ "nạn kiều". Những anh hùng lao động một
thời được báo chí ca ngợi tưng bừng như Voòng Nải Hoài,
Mừu Nhịp Mùi cũng phải về Trung Quốc.

Người dân Quảng Ninh vẫn nhớ, ngay cả khi Trung Quốc đã
đóng cửa khẩu, xe công an vẫn chở người Hoa đi về biên
giới. Theo ông Vũ Cẩm, mỗi làng mỗi xã như vậy may ra chỉ
còn sót lại một hai gia đình người Hoa. Khi vụ người Hoa
xảy ra, ông Nguyễn Việt Lân, nguyên bí thư Tỉnh đoàn Hải
Ninh211, nguyên phó bí thư Móng Cái, tuy không bị đuổi nhưng
bị buộc phải vào sâu bên trong. Ông Vũ Cẩm kể: "Cậu ấy
vào Hạ Long làm nghề cán mì sợi. Tôi muốn giúp nên thỉnh
thoảng lại mang bột mì đến cho cậu ấy gia công. Cậu ấy
hỏi: 'Ông không sợ tôi bỏ thuốc độc à?'. Tôi biết cậu
ấy bị o ép lắm. Công an rình rập kín, hở suốt ngày. Một
đêm cậu ấy mở ti-vi oang oang trong nhà, bật đèn sáng để
đánh lừa công an rồi đưa cả nhà xuống tàu vượt biên sang
Úc".

Hải Phòng là địa phương tiếp theo áp dụng chính sách khá
thẳng tay với người Hoa. Ông Đoàn Duy Thành, năm 1978 là phó
chủ tịch Thành phố Hải Phòng, thừa nhận: Hơn ba mươi nghìn
trong số ba mươi bảy nghìn người Hoa ở thành phố này đã
phải ra đi. Đặc biệt, ở Cát Bà, trước có gần mười nghìn
người Hoa, năm 1978 chỉ còn vài chục người ở lại. Nhà thơ
Dư Thị Hoàn viết về cảnh ra đi ở Hải Phòng: "Tết thanh
minh năm ấy, không ngờ lại là bữa tiệc cuối của sum họp
đại gia đình, hình ảnh má và các em các cháu tôi chen lấn
trong dòng người lũ lượt ra ga, leo lên tàu hỏa. Thê thảm
nhất là đàn bà con trẻ, họ lếch thếch, hỗn loạn, và yếu
ớt, họ giao phó nỗi hốt hoảng cho bất kỳ ai có mặt hôm
đó, giao phó cho đoàn tàu chở họ tới một đất nước
được gọi là tổ quốc trong muôn vàn bất trắc và mong manh?
Họ trở về quê hương và không hiểu tại sao, vì lẽ gì? Chị
chồng tôi ra tận nhà ga ôm lấy ba mẹ con tôi đang gào khóc
nhìn đoàn tàu mất hút trong đêm tối".

Ở Sài Gòn, theo Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Trần Quốc
Hương: "Chúng tôi không đuổi mà thông báo ai muốn rời Việt
Nam thì đăng ký, hơn 90% người Hoa ở Thành phố đã đăng ký
ra đi". Luật sư Nguyễn Đăng Trừng, năm ấy là phó Phòng
chống phản động bành trướng bá quyền Công an Thành phố Hồ
Chí Minh, thừa nhận: "Công an cũng đã mạnh tay cô lập những
đối tượng tình nghi là còn quan hệ với Trung Quốc". Một
trong những "đối tượng" mà ông Nguyễn Đăng Trừng trực
tiếp thụ lý lúc ấy là ông Lý Ban.

Ông Lý Ban thuộc một trong số các đảng viên Việt Nam chạy
sang Diên An sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-1931. Sau Cách
mạng tháng Tám, từ căn cứ của những người cộng sản Trung
Quốc, Lý Ban cùng các đồng chí Việt Nam khác của ông ở Diên
An trở về trong đợt đầu như Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Sơn,
Trương Ái Dân, Cao Tử Kiến. Ông đã từng là ủy viên dự
khuyết Trung ương Đảng, thứ trưởng Bộ Ngoại thương.

Năm 1978, nhiều thông tin nói rằng ông Lý Ban có những mối
liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc. "Tinh thần chỉ đạo"
là phải có "biện pháp đặc biệt, không để các đối
tượng ở trong điểm nóng, khi tình hình xấu diễn ra thì phát
huy tác dụng". Ông Lý Ban bị bắt. Sau một thời gian cách ly
để điều tra, ông Trừng thừa nhận: "Té ra ông Lý Ban là
một người rất trung thành với Đảng". Nhạc sỹ Lâm Âm
đang là biên chế ở Sở Văn hóa Thông tin cũng bị bắt dù sau
đó không tìm thấy bất cứ bằng chứng "phản động" nào.
Một thời gian sau, Phòng chống phản động bành trướng bá
quyền yêu cầu Sở Văn Hóa Thông tin "bảo lãnh", ông Lâm Âm
được tha. Nhưng, theo ông Tư Kết: "Vừa có lệnh thả ra thì
nhạc sỹ Lâm Âm bị tai biến và chết".

"Những tháng đầu năm 1978, thành phố phá năm mươi hai vụ
nhen nhóm chính trị, phản động, bắt 1.106 tên (gấp ba lần
năm 1977); số trốn đi nước ngoài cũng tăng gấp ba lần (2.130
vụ với 8.139 người)"212. Trong số 8.139 người bị bắt đầu
năm 1978 có ông Lý Tích Chương, cha của Lý Mỹ – "tấm
gương điển hình" trong chiến dịch "Cải tạo công thương
nghiệp tư doanh".

Khi ông Lý Tích Chương bị bắt, Lý Mỹ đang được "Đảng
và Nhà nước đưa đi Cuba" tham gia Liên hoan Thanh niên Thế
giới. Theo Lý Mỹ: "Khi tôi ở Cuba, ba tôi ốm phải vào bệnh
viện Saint Paul. Một chiều cô em út của tôi lúc ấy mới chín
tuổi mang cơm cho ba, vào tới nơi, gọi tên không thấy, nhân
viên bệnh viện nói, trong phòng của ổng giờ toàn công an, hôm
ấy họ vào và bắt đi nhiều bệnh nhân người Hoa đang điều
trị trong bệnh viện". Sau một tháng ở Cuba, khi Lý Mỹ về,
ông Mai Chí Thọ đưa xe đến Thành đoàn đón, nói là cho đi
thăm ba nhưng vào trại giam thì ông Lý Tích Chương được thả.
Ở tù ra, sức khỏe ông Chương suy sụp, gia đình quyết định
"đi".

Trên các phương tiện truyền thông, Bắc Kinh gọi người
Việt-gốc-Hoa là "nạn kiều"; Hà Nội nói Bắc Kinh "bịa
đặt". Báo Tuổi Trẻ ngày 30-6-1978 viết: "Bị tác động
bởi chiến dịch cưỡng ép di cư của phía Trung Quốc [người
Hoa] đã kéo nhau hàng loạt đi Trung Quốc một cách bất hợp
pháp". Cũng theo bài báo này: "Ta đã bắt quả tang một số
tên thực hiện chiến dịch này dưới sự chỉ đạo của Đại
sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội như Lý Nghiệp Phu, Trần Hoạt,
Tô Minh Nguyên, Ôn Thịnh Nàm, Lã Giang Đông, Quan Gia Nghĩa, Lý
Đào Lê". Cũng theo Báo Tuổi Trẻ: "Ngày 30-4, chủ nhiệm Văn
phòng công việc Hoa kiều thuộc Quốc vụ viện Trung Quốc, ông
Liêu Thừa Chí, công khai lên tiếng, gián tiếp đổ trách nhiệm
cho Việt Nam". Ngày 4-5-1978, Bộ Trưởng Ngoại giao Xuân Thủy
tuyên bố: "Đảng và Chính phủ Việt Nam trước sau như một,
vẫn đối xử với bà con người Hoa như bát nước đầy. Có
một số bà con người Hoa trốn đi Trung Quốc, đó là do bọn
xấu tác động". Ngày 24-5-1978, người phát ngôn Văn phòng
công việc Hoa kiều Quốc vụ viện Trung Quốc ra tuyên bố chính
thức phản đối Việt Nam "bài xích, khủng bố, xua đuổi Hoa
kiều". Ngày 28-5-1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho
Bộ ngoại giao Trung Quốc yêu cầu chấm dứt tuyên truyền kích
động; đại diện hai nước gặp nhau càng sớm càng tốt, có
thể vào đầu tháng 6-1978, để cùng nhau bàn bạc, giải quyết
những bất đồng về vấn đề người Hoa ở Việt Nam, và bàn
cả đề nghị của Trung Quốc đưa tàu sang Việt Nam đón
người Hoa về Trung Quốc. Ngày 2-6, Bộ ngoại Trung Quốc gởi
công hàm cho Bộ ngoại giao Việt Nam khước từ các đề nghị
nói trên của Việt Nam, đồng thời tuyên bố Trung Quốc "đã
quyết định" đưa tàu sang thành phố Hải Phòng và thành phố
Hồ Chí Minh vào ngày 8-6-1978 để đón người Hoa về nước.
Bộ ngoại giao Việt Nam "phê phán thái độ ngang ngược nói
trên của nhà đương cục Trung Quốc". Ngày 5-6, Bộ Ngoại giao
Việt Nam một mặt "kêu gọi bà con người Hoa hãy yên tâm ở
lại Việt Nam làm ăn bình thường", mặt khác đưa ra cam kết:
"Bà con nào muốn rời khỏi Việt Nam đi Trung Quốc thì sẽ
được chính quyền Việt Nam giúp làm các thủ tục xuất cảnh
để ra đi thuận tiện".

Trước tháng Giêng năm 1979, có khoảng 30.000 người Hoa chạy
sang Việt Nam, chủ yếu là từ Campuchia. Ngoài ra còn có hơn
4.000 người Khmer khác. Số người Hoa về nước trên hai con tàu
của Trung Quốc chỉ mang tính tượng trưng, theo ông Mai Chí
Thọ, trong chuyến đầu họ chỉ chở được 2.400 người. Một
dòng người khác đã phải gồng gánh về phía bên kia theo
đường bộ213.

Tại cuộc họp báo ngày 15-6-1978, Chủ tịch Thành phố Hồ Chí
Minh Mai Chí Thọ nói: "Chúng ta tự hỏi, nếu họ thực tâm
muốn chăm lo cho Hoa kiều, tại sao họ lại không lên tiếng
đối với việc Hoa kiều bị bọn cầm quyền phản động
Campuchia xua đuổi tàn ác, ngược đãi… Đáng lý những Hoa
kiều họ cần phải rước trước hết là người Hoa đang sống
đau khổ, tủi nhục dưới chế độ tàn bạo của bọn cầm
quyền phản động Campuchia. Thái độ trái ngược của phía
Trung Quốc không khỏi làm cho mọi người nghi ngờ việc họ
tổ chức rước Hoa kiều về nước chẳng qua là nhằm thực
hiện một ý đồ khác. Thực tế họ chỉ muốn gây khó khăn
cho Việt Nam mà thôi"214. Câu chuyện của Tằng Dục Hính,
đăng trên báo Tuổi Trẻ số ra ngày 23-6-1978, cho thấy tương
lai trở về "tổ quốc" của người Hoa cũng khá tối tăm:
"Chúng tôi đáp xe lửa Hà Nội đi Lào Cai, từ ga Lào Cai đến
Cầu Kiều chúng tôi phải qua một trạm công an Việt Nam. Tại
đây họ thu lại tất cả những giấy tờ mà chính phủ Việt
Nam cấp cho người Hoa chúng tôi từ trước đến nay… Nhìn về
phía Trung Quốc tôi nghe được rất rõ tiếng loa, tiếng nhạc
quen thuộc của Đài Phát thanh Bắc Kinh và nhìn thấy rất đông
người đang chờ đón tiếp… Ngày thứ ba ở trên đất Trung
Quốc, 3-6- 1978. Buổi chiều, sau khi nộp xong bản khai lý lịch,
chúng tôi được một ông cán bộ người Trung Quốc nói giọng
Bắc tiếng Việt Nam rất rành cho biết chúng tôi phải đăng ký
đi nông trường trồng cao su Mông Xi, nếu ai chậm trễ thì
phải đi Tây Tạng!".

Theo Tằng Dục Hính, vì sợ đi Tây Tạng, anh và người bạn
Chí Tiền Thành cùng hai thanh niên Hải Phòng nữa đã lội qua
sông Hồng ngay trước khi nước chảy rất xiết để trốn về
Việt Nam vào ngày 7-6-1978, và được "các đồng chí công an
Việt Nam giúp đỡ" cho về thành phố. Tằng Dục Hính nói
tiếp: "Ở Hà Khẩu, tôi biết là có 80 đến 90% bà con muốn
trở về lại Việt Nam nhưng không dám"215.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140216/huy-duc-nan-kieu), một số đường
liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé
thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể
bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách
vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét