Thuỵ Điển (tiếng Thuỵ Điển là Sverige), là 1 vương quốc ở
Bắc Âu, phía tây giáp Na Uy, phía đông-bắc giáp Phần Lan, phía
nam nối với Đan Mạch bằng cầu Oresund. Phần biên giới còn
lại giáp biển Baltic và biển Kattegat.
Thuỵ Điển có diện tích 449.964 km2, lớn thứ 3 trong Liên minh
Châu Âu. Dân số năm 2009 là 9.373.379 người, mật độ 20
người/1 Km2, mức tập trung cao ở nửa phía nam đất nước, 12
% dân số là di dân trong đó đông nhất là Phần Lan. Khoảng 80%
sống trong các đô thị và quá trình đô thị hoá vẫn đang
tiếp diễn. Thủ đô Thuỵ Điển là Stockholm, thành phố lớn
nhất nước. Thành phố lớn thứ 2 là Goteborg có dân số 500.000
người, kể cà ngoại vi là 900.000 người. Đơn vị tiền tệ
là Krona (SEK).
Ngôn ngữ chính thức là tiếng Thuỵ Điển. Tiếng Na Uy tương
tự tiếng Thuỵ Điển, được hiểu gần như ở khắp đất
nước. Một số vùng nói tiếng Phần Lan. Gần 80% người Thuỵ
Điển nói tiếng Anh như ngoại ngữ thứ nhất. Đa số học sinh
chọn tiếng Đức hoặc tiếng Tây Ban Nha là ngoại ngữ thứ 2.
Thuỵ Điển gia nhập Liên hiệp quốc từ tháng 12 năm 1946, gia
nhập Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA) từ tháng 11 năm
1959. Năm 1995 Thuỵ Điển gia nhập Liên minh Châu Âu và là thành
viên của OECD. Năm 2004 chỉ số HDI của Thuỵ Điển là 0,949
(mức cao). Theo tạp chí The Economist, Thuỵ Điển đứng đầu
thế giới về chỉ số dân chủ và đứng thứ 7 trong Liên
hiệp quốc về chỉ số phát triển con người.
<h2>Thể chế chính trị của Thuỵ Điển</h2>
Thuỵ Điển theo thể chế Quân chủ lập hiến. Hiến pháp thừa
nhận sự tồn tại đa đảng chính trị. Hiện tại (năm 2013)
quốc vương là Carl XVI Gustaf. Thủ tướng là Fredrik Reinfeldt.
Quốc hội có 1 Nghị viện 349 nghị sĩ, được bầu 4 năm 1
lần. Quốc hội có 8 đảng được quyền tham gia quốc hội và
hiện nay chia thành 2 liên minh, gồm: Liên minh De rodgrona có 3
đảng là: Đảng dân chủ xã hội 112 ghế, Đảng Xanh (còn gọi
là Đảng môi trường) 25 ghế và Đảng cánh tả 19 ghế. Liên
minh Alliansen có 4 đảng là: Đảng ôn hoà 107 ghế, Đảng tự do
24 ghế, Đảng trung tâm (Centerpartiet) 23 ghế và Đảng dân chủ
cơ đốc giáo 19 ghế. Không thuộc 2 liên minh này có Đảng dân
chủ hoạt động độc lập, có 20 ghế.
Quốc hội bổ nhiệm Thủ tướng. Thủ tướng bổ nhiệm các
bộ trưởng.
Từ 1932 đến 1969 Đảng dân chủ xã hội liên tục cầm quyền.
Sau một thời gian phe bảo thủ cầm quyền, đến năm 1994 Đảng
dân chủ xã hội trở lại cầm quyền cho đến nay.
Mặc dù nằm gần nước Nga, năm 1917, Thuỵ Điển đã tránh
được sự đe doạ xảy ra một cuộc cách mạng vô sản của
những người theo chủ nghĩa xã hội. Từ thế kỷ 20, suốt
trong 2 cuộc chiến tranh thế giới, Thuỵ Điển là quốc gia
trung lập, kể cả thời gian Chiến tranh lạnh và cho đến nay
Thuỵ Điển vẫn không tham gia liên minh quân sự nào. Tuy nhiên
cho đến nay vẫn còn những tranh cãi xung quanh vai trò trung lập
của Thuỵ Điển. Do không bị chiến tranh tàn phá và dựa vào
tài nguyên thiên nhiên sẵn có, Thuỵ Điển đã phát triển
ngành công nghiệp, cung cấp cho công cuộc tái thiết Châu Âu sau
chiến tranh thế giới thứ 2 và trở thành 1 trong những quốc
gia giàu nhất thế giới vào thập kỷ 60.
Thể chế của Thuỵ Điển có 1 điều đặc biệt là nguyên
tắc công khai. Giới báo chí và tất cả các cá nhân đều có
thể xem các văn kiện của công sở nhà nước, ngoại trừ một
số ít trường hợp đặc biệt. Một điều đặc biệt khác
của Thuỵ Điển là có hệ thống thanh tra viên (ombudsman).
Những thanh tra viên này bảo vệ quyền lợi của cá nhân công
dân khi mà họ tiếp xúc với chính quyền và theo dõi việc thi
hành các luật lệ quan trọng. Khi người công dân cho rằng mình
bị đối xử không công bằng có thể tìm đến thanh tra viên.
Họ sẽ điều tra những trường hợp này và có thể mang vụ
việc ra trước toà án với tư cách là nguyên cáo đặc biệt.
Họ đồng thời có nhiệm vụ cộng tác với cơ quan nhà nước
để nắm bắt tình hình trong phạm vi của họ, thi hành công
việc giải thích và đưa ra những đề nghị thay đổi luật
lệ.
Bên cạnh những thanh tra viên về luật pháp, Thuỵ Điển còn
có thanh tra viên của người tiêu dùng, thanh tra viên về trẻ
em, thanh tra viên về quyền bình đẳng, thanh tra viên về phân
biệt đối xử chủng tộc và phân biệt đối xử vì các khuynh
hướng tình dục.
Trong một thời gian dài, Thuỵ Điển đã được xem như một
nước dân chủ xã hội điển hình và nhiều người theo cánh
tả ở Châu Âu đã xem Thuỵ Điển như một ví dụ điển hình
cho một "con đường thứ ba", giữa chủ nghĩa xã hội và
kinh tế thị trường.
<h2>Khí hậu ở Thuỵ Điển</h2>
So với vị trí địa lý, khí hậu ở Thuỵ Điển tương đối
ôn hoà do gần Đại Tây Dương có dòng hải lưu Gonstrim ấm áp.
Phần lớn lãnh thổ có khí hậu ẩm, mưa nhiều, nhiệt độ ít
thay đổi về mùa đông và mùa hè. Thuỵ Điển nằm giữa vĩ
độ 55 độ và vĩ độ 69 độ và một phần ở trong vòng cực
Bắc nên có sự cách biệt lớn về ánh sáng giữa ánh sáng ban
ngày dài trong mùa hè và ánh sáng ban đêm dài trong mùa đông.
Ở phần phía bắc do có sự xuất hiện nhiều núi và khí hậu
cận cực, mùa đông lạnh hơn và tuyết rơi nhiều hơn so với
miền nam. Vào 1 phần của mùa hè, mặt trời xuất hiện đến
tận nửa đêm hoặc không lặn. Vào mùa đông mặt trời chỉ
xuất hiện trong vài giờ hoặc không xuất hiện. Lượng mưa
trung bình hàng năm khoảng 1000 mm. Vào tháng giêng, nhiệt độ
trung bình ban ngày khoảng O độ C ở phía nam, nhiệt độ âm 16
độ ở phía bắc. Vào tháng 7, nhiệt độ trung bình khoảng 17
đến 18 độ C ở Gotaland och Svealand và trên 10 độ C ở phía
cực bắc của Thuỵ Điển.
<h2>Kinh tế của Thuỵ Điển</h2>
Ngày nay Thuỵ Điển có nền kinh tế phát triển cao. Thuỵ
Điển có 9,37 triệu dân (bằng 1/10 dân số Việt Nam) nhưng năm
2005 đạt GDP (PPP) 381,469 tỉ USD.
Trong nửa sau của thế kỷ 19, Thuỵ Điển còn là 1 quốc gia
nông nghiệp với 90% dân số sống nhờ vào nông nghiệp. Sau
chiến tranh thế giới lần thứ 2, Thuỵ Điển đã là 1 trong
những quốc gia công nghiệp dẫn đầu của thế giới. Sự phát
triển công nghiệp đạt đến đỉnh cao ở giữa thập niên 60.
Từ thập niên 70, do đã cơ khí hoá hiện đại hoá, cơ cấu lao
động trong xã hội thay đổi, số người lao động trong nông
nghiệp và trong công nghiệp giảm bớt, khu vực dịch vụ tăng
trưởng thêm. Đến năm 2002 nông nghiệp chỉ còn chiếm 2% tổng
sản phẩm quốc nội, khu vực công nghiệp là 28%, khu vực dịch
vụ là 70%.
Nền nông nghiệp Thuỵ Điển mang dấu ấn những điều kiện
địa chất và khí hậu. Khoảng 10% diện tích của quốc gia
dùng cho nông nghiệp. Phần lớn các công ty nông nghiệp là sở
hữu gia đình. Trồng trọt nhiều nhất là ngũ cốc, khoai tây,
các loại cây cho dầu. Khoảng 58% thu nhập trong nông nghiệp
thuộc ngành chăn nuôi, nhất là sản xuất sữa. Trợ giá nông
nghiệp của Liên minh Châu Âu chiếm khoảng 24% thu nhập.
Do Thuỵ Điển là 1 trong những quốc gia nhiều rừng ( chiếm
đến 25% diện tích lãnh thổ ) nên ở Thuỵ Điển ba phần tư
số công ty nông nghiệp đều có rừng và kết hợp giữa nông
nghiệp và lâm nghiệp.
Thuỵ Điển giàu khoáng sản. Đồng, chì, kẽm được khai thác
vượt quá nhu cầu trong nước và còn xuất khẩu. Bạc đáp
ứng được 60% nhu cầu trong nước, vàng đáp ứng được 80%.
Điểm đặc biệt của công nghiệp Thuỵ Điển là thành phần
các công ty lớn chiếm tỉ lệ tương đối cao.Các ngành công
nghiệp lớn nhất là chế tạo xe cơ giới (năm 1996 chiếm 13%
giá trị sản xuất) với các công ty Volvo, Scania; ngành máy bay
và kỹ thuật du hành vũ trụ Saab AB; ngành công nghiệp gỗ và
giấy (cũng chiếm 13% giá trị sản xuất) với 4 công ty lớn;
ngành chế tạo máy chiếm 12% với các công ty Electrolux, SKP,
Tetra-Pak, Alfa-Laval; ngành công nghiệp điện-điện tử chiếm 19%
với các công ty nổi tiếng Ericsson, ABB.
Khu vực dịch vụ đóng góp 70% tổng sản phẩm quốc nội mà
trước tiên là do khu vực nhà nước đã tăng trưởng mạnh
trong các thập niên gần đây. Tuy vậy khu vực dịch vụ tư
nhân vẫn chiếm hơn 2/3 sản lượng.
Kinh tế Thuỵ Điển phụ thuộc mạnh vào ngoại thương. Các
nước xuất khẩu chính là Mỹ, Đức, Na Uy, Anh. Các sản phẩm
nhập khẩu quan trọng nhất là các sản phẩm điện và điện
tử, máy móc, xe cơ giới và các thành phần của xe cơ giới.
Tỉ lệ đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Thuỵ Điển
tương đối cao. Có khoảng 50 tập đoàn quốc tế chiếm 2/3
tổng lượng xuất khẩu của Thuỵ Điển.
<h2>Cuộc sống xã hội ở Thuỵ Điển</h2>
Mô hình Thuỵ Điển là một khái niệm từ thập niên 1970, chỉ
hệ thống phúc lợi xã hội, một hệ thống phúc lợi và chăm
lo xã hội rộng khắp, kết quả của sự phát triển hàng trăm
năm của Thuỵ Điển.
Trong thời gian 1890-1930, một phần cơ sở cho một hệ thống
phúc lợi xã hội đã hình thành nhưng phải mãi đến những
năm của thập niên 1930, đặc biệt từ khi Đảng Công nhân dân
chủ xã hội Thuỵ Điển thành lập chính phủ năm 1932, việc
xây dựng một quốc gia phúc lợi xã hội mới trở thành một
dự án chính trị và được đẩy mạnh. Hệ thống phúc lợi
xã hội Thuỵ Điển cuối cùng đã bao gồm tất cả mọi
người, từ trẻ em (thông qua hệ thống chăm sóc trẻ em của
làng xã), cho đến những người về hưu (thông qua hệ thống
chăm sóc người già của làng xã).
Cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng đầu thập niên 1990
dẫn đến việc cắt giảm phúc lợi xã hội và sự phát triển
nhân khẩu đã buộc Thuỵ Điển phải xây dựng lại toàn bộ
hệ thống hưu trí, hệ thống mà từ nay được gắn liền vào
phát triển kinh tế. Các cuộc bầu cử vừa qua ở Thuỵ Điển
cho thấy những phần cốt lõi của hệ thống phúc lợi xã hội
vẫn được các công dân Thuỵ Điển rất yêu mến.
<em><strong>Võ Thành Chung</strong></em>
Tham khảo tư liệu của Bách khoa toàn thư (http://vi.wikipedia.org/)
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20131105/vo-thanh-chung-gioi-thieu-nuoc-thuy-dien-va-mo-hinh-thuy-dien),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét