<blockquote> <b><i><u>Mấy lời viết thêm gửi Quốc hội đang họp
tại Hà Nội (ngày 26-10-2013):</u></i></b>
<i>Đọc lại những lời Phan Châu Trinh <b>trước đây một thế
kỷ</b> mà tưởng như lời một Blogger hay một Trí thức phản
biện của ngày hôm nay. Cứ như thể cụ Phan đang nói với kỳ
họp Quốc hội lần 6 khóa 13 này, nói về Hiến pháp sắp
được thông qua, phản đối chủ trương <b>độc đảng</b> và
"<b>sở hữu toàn dân</b>", phản đối việc cho <b>đạo
Khổng</b> nô dịch dân Việt, yêu cầu phải thực thi tam quyền
phân lập và đa đảng đa nguyên…</i>
<i>Đúng như nhận định của nhà văn hóa Nguyên Ngọc:
</i>"<i>Những vấn đề cơ bản nhất làm nền tảng cho độc
lập tự chủ và phát triển dân tộc mà Phan Châu Trinh đã
thống thiết nêu lên từ đầu thế kỷ XX… thì <b>đến nay
vẫn còn nguyên đấy</b></i>", "<i>Đó là một nhiệm vụ,
một món nợ mà lịch sử còn để lại cho chúng ta hôm nay".
</i>
<i>Đảng, Nhà nước và Quốc hội hôm nay chẳng những không
giải quyết được những yêu cầu của dân tộc như cụ Phan
đề xuất mà còn <b>làm ngược lại và chống lại gần như
trăm phần trăm!</b></i>
<i>Vậy: Nếu đã coi Phan Châu Trinh là <b>nhà Ái quốc, nhà Văn
hóa, nhà Cách mạng</b> đầu tiên của Việt Nam (như đã viết
trên báo Nhân dân - báo giấy)… thì những người, những chủ
trương phản lại các yêu cầu ấy ắt phải coi là <b>Phản
quốc, Phản văn hóa, Phản cách mạng</b>…! Lô-gích tự nhiên
buộc ta phải kết luận như thế, làm sao khác được?
</i></blockquote>
<b>A. Con đường dẫn ta về với Phan Châu Trinh</b>
Trong những nhân vật lịch sử của dân tộc ta hồi đầu thế
kỷ 20, gắn liền với cuộc đấu tranh chống Pháp, có ba nhân
vật đặc biệt mà tầm ảnh hưởng sâu rộng hơn cả là Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh và Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh.
<div class="boxleft320"> <img
src="https://encrypted-tbn3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQzaebmKIh4gdQQ508Y6_HZjLEO0USuahweBdIwUxYafO6CqEpL"
></div>
Nói về tinh thần đánh Pháp và đi đến thành công thì nổi
bật nhất là Hồ Chí Minh, rồi đến Phan Bội Châu, rồi mới
đến Phan Châu Trinh, vì hai vị trên chủ trương dùng bạo lực
đánh Pháp ngay, còn Phan Châu Trinh lại bắt đầu bằng sự
tiếp xúc ôn hòa với Pháp. Ấn tượng Phan Châu Trinh để lại
trong đầu chúng tôi chỉ là hình ảnh một nhà nho nghĩa khí
không sợ Côn Lôn (nhà tù của Pháp), một bức thư "thất
điều" kể tội vua Khải Định, một cái án tử hình sau
giảm thành lưu đày chung thân, vài hoạt động nhân quyền ở
Pháp, một số văn thơ yêu nước, và đặc biệt là đám tang
lịch sử khơi dậy một cao trào đấu tranh toàn quốc, thế
thôi, chẳng mấy ai chú ý đến vấn đề tư tưởng. Phan Châu
Trinh mặc dù vẫn được kính trọng song đối với chúng tôi
quả thực chưa có gì thu hút lắm.
Nhưng từ khi biết vươn ra khỏi "tháp ngà" chuyên môn của
mình để suy nghĩ và viết ra những ưu tư về tình hình đất
nước, chúng tôi mới thực sự để tâm tìm đọc cụ Phan.
Điểm khởi thủy dẫn chúng tôi đến với Phan Châu Trinh là
từ hai chữ "dân trí". Nhất định trước hết phải khai
thông dân trí, mà "tổ sư" đề cao dân trí là Phan Châu
Trinh. "<i>Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh"</i>, Cụ
đưa dân trí lên hàng đầu trong chiến lược hành động!
Điểm thứ hai là phương pháp <i>đấu tranh ôn hòa bất bạo
động</i>, hơn thế còn lợi dụng những yếu tố tiến bộ
của chính nước Pháp là kẻ đang cai trị mình để dần dần
thoát khỏi thân phận bị cai trị. Điểm này cũng đang lặp
lại với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay (chiến thuật "<i>diễn
biến hòa bình</i>" với kẻ đang cưỡi trên cổ mình!). Đây
chính là thủ pháp "<i>hiệp khí đạo</i>", nhìn bề ngoài nó
giống như sự mềm yếu xin xỏ vậy, điểm khác nhau là ở
chỗ lợi dụng sự "cầu hòa" ấy để tranh thủ nâng cao
dân trí, tự lập tự cường, nâng trình độ văn minh của dân
mình lên. Nâng cao được dân trí là củng cố được hậu
phương, gây lại được sức mạnh cho mình. Có nội lực cao
cường rồi thì lật ngược thế cờ lúc nào chẳng được?
Dân trí chưa cao thì dân chưa đủ năng lực làm chủ, có đem
máu xương đổi lấy chính quyền ngay thì dân cũng không làm
chủ được chính quyền ấy, và rút cuộc dân lại chuốc lấy
một kẻ áp bức khác thôi.
Phan Châu Trinh hơn hẳn những người cùng thời ở suy nghĩ
ấy. Chúng tôi khâm phục và coi cụ Phan như người Việt Nam
đầu tiên tiếp cận phương pháp chuyển đổi xã hội bằng con
đường văn minh nhất, mà ngày nay gọi là phương pháp
"<i>diễn biến hòa bình</i>".
Nhưng như thế chưa đủ. Điều quan trọng có tính xuyên suốt
là phải có một tư tưởng, vì sự nghiệp lớn nào chẳng cần
một triết lý để quán xuyến và làm nền cho dân trí.
Những chân lý phổ quát đã phổ biến trên thế giới là một
chuyện, có Việt hóa được chân lý ấy để tạo ra sức mạnh
lôi cuốn dân tộc, đủ sức chống lại những thiên hướng sai
lầm hay không, thì không phải dễ. Những hạt giống tư tưởng
ưu việt ở nơi khác đem gieo vào mảnh đất Việt Nam chắc gì
đã mọc, hay mọc rồi cũng còi cọc lụi tàn? Đâu có thể sang
Tây Trúc hay "Mỹ Trúc" gì đó để thỉnh kinh?
Thử điểm lại chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh: Chủ nghĩa Mác tuy là ngoại lai nhưng trước đây vào
được Việt Nam vì nó bắt rễ rất nhanh vào lòng khát khao
đổi đời của người bị trị cùng khổ, nay tình hình đã
đảo ngược, nếu những người bị trị cùng khổ lại tiếp
tục áp dụng nó thì lịch sử sẽ lặp lại một chu kỳ nữa
chăng?
"Tư tưởng Hồ Chí Minh" xuất hiện mấy năm gần đây có
ưu điểm là giống "local" nhưng khốn nỗi lại là cái không
có thật, mới chế biến ra thôi, thực chất vẫn là hạt
giống Quốc tế 3, là hạt giống hiện nay đã bị loài người
gạt ra ngay tại mảnh đất quê hương của nó.
Không phải cứ chấp nhận có "Tư tưởng Hồ Chí Minh" mới
là yêu quý cụ Hồ, có khi còn ngược lại. Làm người thì
trong đầu ai cũng có tư tưởng (hiểu theo nghĩa đó thì cụ
Hồ cũng có tư tưởng như 80 triệu người dân thôi), nhưng nói
"Tư tưởng Hồ Chí Minh" là dùng đến một thuật ngữ, xác
nhận cụ Hồ là một nhà tư tưởng. Chính cụ Hồ không nhận
mình là nhà tư tưởng là rất đúng. Những điều cụ Hồ suy
nghĩ thực ra không có gì vượt khỏi tư tưởng Mác-Lênin, mà
chỉ nằm gọn trong tư tưởng ấy. Chưa có độc lập thì phải
giành độc lập, rồi đi theo tư tưởng Mác-Lênin thì vẫn là
tư tưởng Mác-Lênin thôi, không phải vì thế mà coi là sự
"kết hợp" để thành một tư tưởng mới. Vận dụng thêm
một số suy nghĩ có tính nông dân hay tính Khổng giáo thì chỉ
là sự cộng hưởng để tô đậm thêm tính chất phong kiến
cũng vốn có sẵn trong tư tưởng Mác-Lênin, như đã phân tích
ở phần trên.
Thành công của cụ Hồ Chí Minh một phần lớn thuộc về
phương pháp, đặc biệt là phương pháp vận động quần chúng.
Cũng giống như cụ Phan, cụ Hồ cũng phải phê phán những
nhược điểm của tính cách dân tộc và ngay từ đầu đã
thấy tầm quan trọng của dân trí, và là người đầu tiên coi
sự "<i>dốt</i>" là "<i>giặc</i>".
Chỉ có tư tưởng của Quốc tế 2, tức tư tưởng <i>dân
chủ</i> <i>xã hội </i>là kết hợp được mấy yêu cầu cơ
bản, làm đòn bẩy để xây dựng và phát triển:
<ul> <li> Đó là một nhánh của chủ nghĩa Mác nên không xa lạ
với điều kiện Việt Nam.
</li> <li> Tuy xuất phát từ chủ nghĩa Mác nhưng đã loại trừ
được hai độc tố là <i>chuyên chính vô sản</i> và <i>kinh tế
chỉ huy</i>, nên rất tiến bộ.
</li> <li> Đã được nhiều nước kiểm nghiệm là rất thành
công. Những nước theo tư tưởng ấy (các nước Bắc Âu, một
số nước Trung Âu) hiện nay đạt nhiều chỉ số văn minh, nhân
đạo vào loại cao nhất thế giới, đối lập hẳn với tấm
gương tan vỡ của các nước theo Quốc tế 3.
</li> <li> Nhờ có quan hệ huyết thống với chủ nghĩa Mác nên
hy vọng Đảng Cộng sản có thể chấp nhận, ít gây sốc nhất
(mặc dù trước đây Đảng Cộng sản Việt Nam rất phê phán xu
hướng gọi là "<i>xét lại"</i> này). <i>Kinh tế thị
trường</i> và <i>nhà nước pháp quyền</i> là hai thứ trước
đây bị Đảng Cộng sản coi là của tư sản nên ghét như kẻ
thù, nhưng nay Đảng đã bảo hai thứ ấy là của chung nhân
loại rồi (nên ta cứ dùng thoải mái, không có gì phải
ngượng), thì nay có áp dụng tư tưởng <i>dân chủ xã hội</i>
cũng là một cách "trở về với Mác" thôi mà (!), cũng là
của mình cả, trước mình bỏ đi nay mình dùng lại chứ có
phải của tư bản đâu mà tự ái? Đảng không phải tự ái,
mà mỗi đảng viên cũng không phải lấy thế làm day dứt. Vẫn
có thể dựng tượng Mác kia mà! Đối với chính trị thì
điều này rất quan trọng (tuy có làm cho một số người nông
nổi cực đoan thấy khó chịu).
</li> <li> Một ưu điểm nữa là mặc dù trước đây các vị
Quốc tế 3 rất ghét tư tưởng "đệ nhị" nhưng chính các
nước liên quan đến "đệ nhị" này lại luôn chân thành và
hào phóng giúp đỡ Việt Nam, nay nếu ta cũng đi theo đường
đó thì sự giúp đỡ của họ chắc còn lớn hơn nhiều. Khi
ấy Trung Quốc và Hoa Kỳ khó lòng mà "bắt bí" được ta.
</li> </ul>
Về lý thuyết, những luận điểm của tư tưởng dân chủ xã
hội tuy không có sự đột phá gì ghê gớm, nhưng rất thuận
lẽ tự nhiên, điều chỉnh được một số nhược điểm của
xã hội tư bản, điều chỉnh cả những sai lầm của lý
thuyết cộng sản, tạo được những <i>nhà nước phúc lợi</i>
(Etat-providence, welfare state), kinh tế và dân quyền cùng phát
triển và không ngăn cản gì việc tiếp tục đổi mới về sau,
nên có ý nghĩa thực tế vô cùng to lớn.
Tư tưởng dân chủ xã hội là một tư tưởng tiến bộ, nếu
được tiếp nhận vào nước ta thì đó là cách hóa giải tốt
nhất, đỡ mất sức nhất, trong hoàn cảnh một xã hội đang
bị ngự trị bởi "<i>người anh em sinh đôi</i>" rất cực
đoan là tư tưởng cộng sản.
Nghĩ được đến đấy, chúng tôi đã mừng. Nhưng rồi tiếp
tục tìm hiểu về Phan Châu Trinh chúng tôi đã gặp những kết
quả bất ngờ. Cụ Phan không chỉ là một nhà ái quốc, một
người làm dậy sóng phong trào, người có một phương pháp
cách mạng uyển chuyển, mà <i>trước hết cụ là một nhà tư
tưởng</i>. Sàng lọc và <i>kết hợp chính xác hai hai luồng tư
tưởng Đông Tây</i>, cụ đã trở thành một nhà <i>dân
chủ-nhân quyền</i>, rồi từ <i>dân chủ</i> Phan Châu Trinh lại
trở thành một nhà <i>dân chủ xã hội</i>, tán thành một kiểu
xã hội "<i>xã hội chủ nghĩa"</i> nhưng phi Mác-xít.
Đó cũng là những đúc kết sơ bộ về tư tưởng Phan Châu
Trinh trong ba tiểu luận nghiên cứu của tác giả Mai Thái Lĩnh
đăng trên trang Web talawas, <a
href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9307&rb=0306">ngày
24.2.2007</a> [1], <a
href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9321&rb=0306">26.2.2007</a>
[2] và <a
href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9553&rb=0306">24.3.2007</a>
[3].
<b>B. Sàng lọc và kết hợp văn hóa Đông Tây, Phan Châu Trinh
trở thành nhà dân chủ-nhân quyền</b>
Là một nhà nho cụ Phan hiểu biết sâu sắc về Nho giáo,
Khổng giáo, nhưng đây cũng là lĩnh vực mà cụ Phan thể hiện
tinh thần sàng lọc và phê phán mạnh mẽ nhất. Cụ phân loại,
tách bạch đâu ra đấy. Cụ phân biệt đạo đức với luân
lý. Những phẩm chất thuộc về cá nhân riêng biệt thì thuộc
ĐẠO ĐỨC, như "<i>Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Cần,
Kiệm</i>", như "<i>Sĩ khả sát, bất khả nhục</i>", như
"<i>phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất
năng khuất</i>". Đạo đức là những phẩm chất của mỗi con
người riêng biệt, nó dạy làm người, muốn làm một con
người thì phải như vậy nên đạo đức này rất ổn định,
dù là Đông hay Tây, là kim hay cổ cũng tương tự nhau. Đạo
đức như vậy đương nhiên là tốt.
Những phép ứng xử trong các mối quan hệ gia đình và xã hội
thì thuộc về LUÂN LÝ, như trong các quan hệ "<i>Quân thần,
phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu</i>", quan hệ giữa
dân với nước… Luân lý lại chia thành luân lý gia đình gọi
là "<i>tư đức</i>" hay đức nhỏ, luân lý quốc gia và luân
lý xã hội thì gọi là "<i>công đức</i>" hay đức lớn.
Luân lý dạy con người trong những mối quan hệ, cho biết bổn
phận, trách nhiệm giữa người trên kẻ dưới, giữa riêng và
chung. Luân lý có thể khác nhau theo quốc gia và theo chế độ
chính trị. Các chế độ thường uốn nắn luân lý sao cho có
lợi cho vai trò chính trị của mình.
Sự tách bạch này rất quan trọng để có thể tiến hành sàng
lọc.
Nếu cụ Phan còn sống thì chắc chắn cụ không thể chấp
nhận khái niệm "<i>Đạo đức xã hội chủ nghĩa", </i>vì
cụ đã khẳng định:
"<i>Đạo đức đã như thế thì không có mới có cũ, có
đông có tây nào nữa, nghĩa là nhất thiết đời nào, người
nào cũng phải giữ đạo đức ấy mới là người trọn vẹn.
Dầu nhà bác học xướng ra học thuyết nào khác nữa, dầu các
chính thể khác nhau hoặc dân chủ, hoặc quân chủ, hoặc cộng
sản nữa, cũng không tài nào vượt qua khỏi chân lý của đạo
đức, nghĩa là đạo đức thì không bao giờ thay đổi
được</i>." (Nguyễn Q. Thắng, tr. 478-479) [4]
"<i>Người ta có thể thay đổi luân lý mà không thay đổi
được đạo đức…, thay đổi được thì là đạo đức
giả.</i>" (Nguyễn Q. Thắng, tr. 479)
Cũng vì muốn uốn đạo đức để phục vụ nhu cầu chính
trị nên Nho giáo ở Trung Quốc đã bị biến dạng, thóai hóa
từ sau đời nhà Tần, và chính cái Nho giáo thóai hóa ấy đã
du nhập vào Việt Nam nên Nho giáo ở Việt Nam mang nhiều tính
chất tiêu cực về chính trị. Các triều đại phong kiến hết
sức đề cao giường mối "<i>quân sư phụ</i>" chẳng qua là
để được thảnh thơi cưỡi cổ thiên hạ. Cụ nói: "<i>Khi
còn ở trong gia đình thì thở cái không khí chuyên chế của gia
đình, khi đến trường học thì thở cái không khí chuyên chế
trong trường học (tính người mình hay thích giao con cho một
ông thầy dữ đòn) thì làm sao khi bước chân ra ngoài xã hội
khỏi quen tính nô lệ, chịu lòn cúi người. Cái tính nô lệ
của người mình ngày nay chính là mang từ lúc trong gia đình
chuyên chế mà ra vậy." </i>(Nguyễn Q. Thắng, tr. 485-486).
Nhưng trong sự đề cao nam giới thì người cha và người
chồng cũng là kẻ được kéo vào để ăn theo, cho có đồng
đội thôi, chủ mưu là người đàn ông trên cùng là vua:
"<i>Chẳng những vua quan chuyên chế mà thôi, họ còn lại lập
mưu kéo cả kẻ làm cha, kẻ làm chồng vào cái cạm bẫy độc
ác ấy nữa để cho tiện việc chuyên chế của bọn họ."
</i>(Nguyễn Q. Thắng, tr. 484).
Vua quan cần lợi dụng cái "<i>luân lý xã hội</i>" (tức
cái công đức), để tăng uy quyền, nhưng khi luân lý xã hội
đã thóai hóa thì nó chi phối cả "<i>luân lý gia đình</i>"
(tức cái tư đức) nên cá nhân và gia đình cũng hư hỏng theo.
Phát hiện của cụ Phan xem ra cũng rất đúng cho xã hội Việt
Nam ngày nay. Phải yêu dân đến mức nào, phải quý đạo đức
đến mức nào một nhà nho mới khám phá ra được những điều
sâu xa chua chát ấy.
Sự sàng lọc của Phan Châu Trinh đối với Nho giáo là tôn
trọng những đạo đức cá nhân nhưng phê phán kịch liệt sự
trung thành mang tính nô lệ của chữ "trung" Nho giáo (gái
trinh không thờ hai chồng, tôi trung không thờ hai vua). Cụ không
bảo những điều Khổng Mạnh nói ra là không tốt, nhưng cụ
vạch ra tính chất một chiều của giáo lý ấy. Cụ lật
ngược tình huống để chất vấn: "<i>Đức Khổng đã nói
rằng: Vua phải thương dân, dân phải thương vua, song nếu vua
không thương dân thì dân phải làm sao? Tiếc thay! Ngài không
dạy đến. Ông Mạnh cũng nói rằng: Dân '<b>quý</b>' mà vua
'<b>khinh</b>', nhưng ngày nay dân hỏi vua, vua bảo rằng vua
'<b>quý</b>' mà dân'<b>khinh</b>' thì dân phải làm sao? Ông
cũng không hề nói đến</i>". Cụ đã phát hiện đúng chỗ
yếu nhất của thuyết Nhân trị.
Luân lý ấy cốt dạy điều "<i>tôn quân</i>" mà nhẹ điều
"<i>ái quốc</i>", tôn trọng bề trên quá thì không có dân
chủ, dân không làm chủ thì tự mình không thể yêu nước theo
ý chí của mình. Nhiều trường hợp anh dũng đánh giặc nhưng
chắc gì đã là yêu nước mà chỉ là buộc phải theo vua. Yêu
nước theo kiểu khác đi là bị cấm ngay. Cụ viết rằng:
"<i>Không phải là cái độc quyền chuyên chế từ xưa đã
thâm căn cố đế trong người nước ta rồi đấy ư? Tiếng
thương (yêu) nước đã có luật Gia Long cấm. Những kẻ học
trò và dân gian không được nói đến việc nước, lo đến
việc nước</i>". (Nguyễn Q. Thắng, tr. 489)
Thực ra thì bệnh "thâm căn cố đế" của mọi thể chế
chuyên quyền là bắt dân chỉ được yêu nước theo cách của
họ (nhưng nói toẹt ra như luật Gia Long thì thật quá kém về
thuật mỵ dân). Rất đáng hoan nghênh lời phát biểu mới đây
của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt: "<i>Có hàng trăm cách yêu
nước khác nhau!". </i>Kể từ ngày có Đảng lãnh đạo đến
nay, lần đầu tiên tôi được nghe thấy một đảng viên dám
nói cái chân lý sơ đẳng ấy.
Thuyết Nhân trị hay Đức trị cứ nói đạo đức một chiều,
không dám lật ngược tình huống để phản biện, nên khi gặp
điều trái ngược thì không có giải pháp, bế tắc thì khùng
lên, từ chỗ đạo đức dẫn đến chỗ phải chém giết nhau
để giải quyết, và luân thường đảo lộn.
Vì thế Nhân trị sẽ dẫn đến bất nhân. Hiểu được
nghịch lý này Phan Châu Trinh đã tìm đến nền dân chủ pháp
trị. Chỉ trong sân chơi dân chủ mới có thể giải quyết mâu
thuẫn bằng phương pháp hòa bình mà bây giờ ta gọi là
"<i>diễn biến hòa bình</i>".
Những người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, cũng sàng lọc
đạo Khổng, nhưng sàng lọc ngược với Phan Châu Trinh, đề cao
chữ <i>Trung</i> là chữ mà cụ Phan kịch liệt phê phán. Rất
nhiều đảng viên cộng sản nói rằng vì có tư duy nho học nên
tiếp cận chủ nghĩa Mác được dễ dàng, chẳng qua là do
giống nhau ở tinh thần đức trị, giáo huấn từ trên xuống,
coi nhẹ sự phản biện, "feed back" từ dưới lên. Chữ
<i>Trung </i>ấy bao giờ cũng kèm theo ý niệm về tôn ti trật
tự, người trên kẻ dưới rõ ràng, công dân loại một loại
hai, và đây là đặc điểm giống nhau giữa cộng sản và phong
kiến.
Khẩu hiệu "<i>Trung với nước, hiếu với dân</i>" là dẫn
xuất từ giường mối "<i>quân sư phụ</i>", nhưng trong
điều kiện Đảng lãnh đạo "<i>trực tiếp, toàn diện và
tuyệt đối</i>" thì thực chất trung với nước cũng là trung
với Đảng thôi, nhưng những người kế thừa Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn muốn trực tiếp hơn cho chắc ăn nên đổi thẳng
ra là "<i>Trung với Đảng, hiếu với dân</i>". (Dù trung hay
hiếu, dù Đảng hay dân thì cuối cùng vẫn thu về một mối là
<i>trung với Đảng</i> thôi, kiểm nghiệm qua thực tế càng
thấy đúng như vậy.)
Cũng sàng lọc, nhưng Phan Châu Trinh và Nguyễn Tất Thành là hai
nhánh sàng lọc ngược nhau, một đằng đề cao quốc gia và
bảo vệ quyền làm chủ của dân, một đằng sa vào thuyết
tranh đấu giai cấp nên đề cao quyền lãnh đạo của Đảng. Ai
gần với phong kiến hơn ai? Điều ngược đời là tính dân
chủ, tính cách mạng, tính hiện đại lại ở phía người
nhiều tuổi hơn. Hóa ra già không phải ở tuổi mà ở tư
tưởng. Biết nghĩ cho chín để bắt đúng cái mạch của tương
lai thì thành trẻ trung.
Nhà duy tân Phan Châu Trinh nổi tiếng ở sự du nhập tư tưởng
dân chủ phương Tây, nhưng sao cụ lại dành nhiều công sức
khảo cứu và bàn thảo về đặc điểm phương Đông cổ
truyền của ta như vậy? Hãy nghe cụ giải thích: "<i>Vẫn
biết <b>phép chắp cây</b> của người Tây tài tình thật, nhưng
nay đem một cây rất tươi tốt như cây luân lý ở các nước
bên Âu Tây kia mà chắp với một cây đã cằn cộc như cây
luân lý ở nước Việt Nam ta thì tưởng cũng không tài nào sinh
hoa tươi, quả tốt được. Muốn cho sự kết quả về sau
được tốt đẹp, tưởng trước khi chắp cây cũng nên bồi
bổ cho hai bên sức lực bằng nhau đã. Tôi diễn thuyết hôm nay
là cốt ý mong anh em nên cứu chữa lấy cây luân lý cũ của ta,
rồi sẽ đem chắp nối với cây luân lý của Âu châu
vậy</i>". (Nguyễn Q. Thắng, tr. 505-506)
Cái mầm khỏe mạnh tươi tốt của châu Âu mà cụ chọn để
ghép vào cái gốc Việt Nam ta chính là tư tưởng dân chủ và
pháp quyền, hai điều tinh túy mà ngót một thế kỷ sau, xã
hội Việt Nam mới nhìn ra (mà nhãn quan của giới chính thống
hôm nay xem ra vẫn chưa theo kịp cụ đâu).
Trước khi kết hợp văn hóa Đông và Tây, Phan Châu Trinh còn
nhận xét: <i>"Vua Âu châu ở xứ thượng võ, cho nên làm cái
gì cũng hung hăng mà ngay thực, cho đến sự độc ác cũng
vậy". "Vua Á Đông thì họ không làm như thế. Họ lựa ở
trong các lời nói của ông Khổng, ông Mạnh, hoặc ở trong các
sách cổ những câu nói có nhiều nghĩa để họ dựa vào đó;
họ lập ra pháp luật để bó buộc cai trị dân; cái ngôi vua
thì gọi là con Trời, nhưng họ cũng cứ xưng họ là người,
chẳng những họ không đứng ra ngoài cái hàng bà con của dân
mà họ lại đứng vào cái hàng thân thiết của dân, như là ta
nói 'quân, sư, phụ', lại thường nói 'vua, cha, chồng'.
Dù ở chốn hương thôn dốt nát không biết ông vua thế nào,
nhưng mà họ thấy đứng vào hàng cha, thầy, chồng, thì họ
cũng cho đứng vào đám thân thiết. Dân ngu thì (đối với vua -
HSP) họ cứ kính, cứ yêu, chớ họ có biết đâu đến hồi
giận của ông vua thì ông giết cả ba họ người ta</i>."
(Nguyễn Q. Thắng, tr. 458)
Vậy sự độc đoán chuyên quyền ở châu Á vẫn có truyền
thống thâm độc hơn, giỏi nguỵ trang nên khó trị hơn. Trong 4
nước cộng sản điển hình còn sót lại thì 3 nước là của
châu Á đâu có phải ngẫu nhiên?
<b>C. Từ dân chủ, Phan Châu Trinh trở thành nhà dân chủ xã
hội, hướng về một chủ nghĩa xã hội phi Mác-xít</b>
Điểm nổi bật trước tiên trong quan điểm chính trị của
Phan Châu Trinh là tinh thần dân chủ, "<i>đa số các nhà làm
sử đã công nhận: <b>Phan Châu Trinh là nhà dân chủ đầu tiên
ở Việt Nam"</b></i>. <a
href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10080&rb=0306#anm5"><sup>[5]</sup></a>
Dân chủ là quyền làm chủ của dân trong một nước, một
quốc gia. Nhưng thế nào là một quốc gia, khi nào thì hình
thành quốc gia? Theo Phan Châu Trinh, thoạt đầu trong chế độ
quân chủ chưa có quan hệ giữa dân và nước, mà chỉ có vua
và các thần dân của vua, vua thu hết mọi thứ vào trong tay
của mình, xử sự mọi việc như trong nhà của mình, mình chết
thì con mình lên thay.
Quan hệ ấy là "<i>gia đình luân lý</i>" và khi ấy chưa có
quốc gia. Từ khi có tư tưởng Khai sáng, bác bỏ tính chất
"<i>đại gia đình</i>", bác bỏ quyền lực của vua là do
trời định sẵn, vạch rõ quan hệ của vua với mọi người
trong xã hội là bình đẳng, quyền lực của vua là do mọi
người trong xã hội giao cho…, khi ấy khái niệm nước (quốc
gia) mới hình thành, <i>gia đình luân lý </i>mới chuyển thành
<i>quốc gia luân lý</i>. Và sau này từ <i>quốc gia luân lý</i>
sẽ hình thành <i>xã hội luân lý</i>, từ <i>chủ nghĩa quốc
gia</i> sẽ phát triển thành <i>chủ nghĩa xã hội</i>. Theo Phan
Châu Trinh, khái niệm <i>Chủ nghĩa xã hội</i> (socialism) có căn
nguyên như thế. Sự tiến triển ấy theo Phan Châu Trinh là
"<i>lẽ tiến hóa tự nhiên</i>".
Đối chiếu tiến trình "<i>tiến hóa tự nhiên</i>" ấy vào
nước ta cụ Phan thấy trình độ Việt Nam thời ấy còn quá
lạc hậu: "<i>Bàn đến quốc gia luân lý thì tôi xin thưa
rằng, nước ta tuyệt nhiên không có</i>" (NQT, tr. 487). <i>"…
quốc gia luân lý của ta từ xưa đến nay chỉ ở trong vòng
chật hẹp hai chữ vua và tôi. Không nói đến 'dân và
nước' vì dân không được bàn đến việc nước!</i>" (NQT,
tr. 487). Chưa có một nhà nước dân chủ thì chưa thể nói
đến quốc gia theo đúng nghĩa được (quan niệm dân chủ của
Phan Châu Trinh thật là triệt để, quyết liệt).
Theo Phan Châu Trinh, <i>chủ nghĩa quốc gia (nationalism</i>) phải
tiến sang <i>chủ nghĩa xã hội (socialism)</i> để giải quyết
hai mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa người với người trong mỗi
quốc gia và mâu thuẫn giữa các quốc gia trên thế giới. Bên
trong thì "<i>giàu nghèo cách biệt thái quá, người ngồi không
kẻ cắm đầu làm, thành ra kẻ lao động, người tư sản xung
đột nhau mà trong nước không yên</i>" (NQT, tr. 506). Trên thế
giới thì "<i>Mê tín quốc gia chủ nghĩa về đời trung cổ
thái quá, yêu nước mình, ghét nước người, cho nên phải mang
họa chiến tranh mãi mãi</i>" (Nguyễn Q. Thắng, tr. 506).
Chủ nghĩa xã hội giải quyết quan hệ "<i>người này với
người kia, người có giúp người không, người mạnh giúp cho
người yếu" </i>(tức là làm giảm bớt sự cách biệt về
tiền bạc và về quyền lực), ngoài ra còn giúp giải quyết
quan hệ "<i>loài người với loài người</i>" tức quan hệ
bình đẳng giữa các quốc gia.
Nghiên cứu quan điểm Phan Châu Trinh về xã hội chủ nghĩa so
sánh với quan điểm Mác-xít, ông Mai Thái Lĩnh đã rất đúng
khi kết luận: <i>"Với quan niệm như trên, rõ ràng là cái
nhìn của Phan Châu Trinh hoàn toàn khác với quan điểm Mác-xít.
Theo nhà chí sĩ họ Phan, xã hội loài người tiến lên theo con
đường 'gia đình - quốc gia - xã hội', trong khi đối với
Marx thì "lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay chỉ
là lịch sử đấu tranh giai cấp" </i>(Mai Thái Lĩnh, bđd).
Thực tế cho thấy không bao giờ có chuyện <i>Vô sản toàn thế
giới </i>(vượt qua ranh giới các quốc gia) mà <i>liên hiệp
lại</i> được.
Điều đáng khâm phục ở Phan Châu Trinh là khi phê phán nền
quân chủ, phê phán nạn bất công, phê phán thói độc tài, phê
phán những sai lầm, yếu kém của bạn bè, cụ là người
thẳng thắn đến mức rất nặng lời, rất quyết liệt (như
phê phán Phan Bội Châu, Nguyễn Tất Thành…), nhưng khi tìm
đường giải thoát cho dân tộc cụ lại luôn nghĩ đến con
đường trung dung, ôn hòa, hợp pháp.
Phải chọn con đường ôn hòa là bởi thương dân. Khi phê phán
con đường bạo lực cách mạng của Phan Bội Châu, của Nguyễn
Tất Thành, cụ giải thích: Lực mình yếu mà muốn dùng bạo
lực tất phải nhờ vả người khác, thế thì "<i>thảng như
cái phương pháp của ông Phan </i>(Phan Bội Châu)<i> mà thành
công, thì quốc dân đồng bào vẫn nguyên là cái lưng con ngựa,
chỉ thay người cỡi mà thôi</i>". (Thư Phan Châu Trinh gửi
Nguyễn Ái Quấc)
Vì thế mà phải tự lực, lúc đầu phải chọn con đường
hoạt động hợp pháp, hợp pháp tối đa, thậm chí phải
"<i>khẩu thuyết vô bằng</i>" để chính quyền không kiếm
được cớ mà trị tội. (Chứ không phải chưa chi đã ngang
nhiên tuyên bố thế này thế khác để giương oai!). "<i>Chỉ
vì tánh cách và trình độ của ông </i>(tức Phan Bội Châu)<i>
cùng với tánh cách và trình độ của quốc dân trong nước
tương ứng với nhau, nên người trong nước mê theo mà không
biết, vui theo mà quên chết. Do đó cuộc dân biến không khác
nào ông Phan Bội Châu trực tiếp giết dân</i>". Cụ lên án
thái độ cứ ở bên ngoài xúi giục người trong nước hy sinh
để mình "<i>đãi thời đột nội</i>". Cụ lên án sự bạo
động của "<i>chủ nghĩa báo thù</i>" hay chỉ biết
"<i>đâm đầu vào lửa chết vô ích</i>".
Thời kỳ Phan Châu Trinh ở Pháp (1911-1925) là thời kỳ thế
giới đầy biến động về các quan điểm cách mạng, trong đó
có cách mạng vô sản Nga tháng Mười 1917, sự phân ly giữa
Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản Pháp ở Đại hội Tours
tháng 12-1920.
Trong khi Nguyễn Tất Thành chọn con đường cộng sản của
Quốc tế 3 thì Phan Châu Trinh rất gần gũi với Léon Blum, Jean
Jaurès, Jules Roux, Marius Moutet… là những đảng viên Đảng Xã
hội không chịu gia nhập Đảng Cộng sản mà vẫn tiếp tục
con đường Jean Jaurès vạch ra.
"<i>Phan Châu Trinh không gần gũi với 'cánh tả' của
Đảng Xã hội, tức là phái xã hội chủ nghĩa từ cuối năm
1920 đã rời bỏ Đảng Xã hội (SFIO) để thành lập Đảng
Cộng sản, gia nhập Quốc tế III. Trước và sau Đại hội Tours
(12/1920), đã có nhiều Việt kiều khuynh tả lôi kéo ông tham
dự các cuộc họp của cánh tả Đảng Xã hội và sau này là
Đảng Cộng sản. Nhưng có thể vì bản tính ôn hòa, hoặc vì
quan niệm về 'dân chủ, cộng hòa' của ông đã bắt rễ
khá sâu trong nhận thức, ông xa rời Đảng Cộng sản Pháp một
cách tự nhiên; và những người cộng sản cũng "dị ứng"
với ông một cách tự nhiên..."</i> (Mai Thái Lĩnh, bđd.)
Trong một lá thư đề ngày 26.3.1922 Phan Châu Trinh viết:
"<i>Say mê chủ nghĩa xã hội, tôi đã luôn đấu tranh chống
lại chế độ độc tài chuyên chế hiện nay đang có mặt ở
Đông Dương, do các nhà chức trách Pháp cũng như do các quan
lại bản xứ thực hiện</i>" (Mai Thái Lĩnh, bđd.). Cũng đau
lòng vì cảnh đất nước trong vòng nô lệ, cũng một môi
trường trưởng thành là Paris nước Pháp, lại cũng yêu lý
tưởng xã hội đến say mê, vậy mà khác với Nguyễn Tất
Thành, Phan Châu Trinh không sa vào chủ nghĩa chuyên chính. Trước
sau trong tâm hồn nhà nho cách mạng vẫn thắp sáng một ngọn
đèn dân chủ.
Chính ngọn đèn ấy đã dẫn cụ đến tư tưởng đa đảng đa
nguyên từ những ngày đầu thế kỷ. Hồi ấy ở Paris cũng có
một du học sinh tên là Đông gửi thư cho Phan Châu Trinh bày tỏ
lo ngại "đa đảng đa nguyên thì loạn" (như quan điểm của
ĐCSVN hôm nay), cụ đã trả lời: "<i>Còn anh lo trong nước sinh
ra nhiều đảng phái mà hại, ấy là anh hiểu lầm; trong nước
nhiều đảng thì cãi cọ nhau nhiều, cãi cọ nhiều thì sự
lợi hại mới biết, dân mới có thể lựa đảng nào phải mà
theo; anh xem các nước văn minh, nước nào mà không có bè
đảng, chỉ có nước dã man, thì chỉ có một lệnh vua mà
thôi</i>" (Mai Thái Lĩnh, bđd.). Cụ chủ trương xã hội pháp
trị (dân trị) và vạch rõ những tệ hại, tùy tiện, may rủi
của chủ nghĩa nhân trị (đức trị, quân trị) mà hôm nay
không ít người vẫn còn say mê. Phan Châu Trinh chủ trương tam
quyền phân lập. "Đảng tiền phong" ngày nay đã đi chậm sau
ông già nhà nho ấy ngót một thế kỷ, mà bây giờ cũng đã
chịu nghe đâu?
Phan Châu Trinh là một người dân chủ xã hội. Nhưng "<i>mặc
dù gần gũi với những người thuộc Đảng Xã hội, tư tưởng
của Phan Châu Trinh vẫn không hoàn toàn giống họ. Trong khi
những người xã hội chủ nghĩa ở Pháp vẫn còn bị ràng
buộc ít nhiều với chủ nghĩa Marx thì quan niệm về chủ nghĩa
xã hội của Phan Châu Trinh lại không có dính dáng chút gì với
chủ nghĩa Marx. Không có đấu tranh giai cấp, không có sự lên
án đối với chế độ tư hữu, và do đó cũng không có chủ
trương quốc hữu hóa."</i> (Mai Thái Lĩnh, bđđ.)
"<i>Vấn đề là tại sao Phan Châu Trinh không đả kích chế
độ tư hữu, không lên án kịch liệt giai cấp tư sản như
những người mác-xít hay những người cộng sản? Ngoài bản
tính ôn hòa mà ông đã có ngay từ thời bắt đầu hoạt động
chính trị, chúng ta cần chú ý đến chủ trương của ông về
kinh tế. Ngay từ khi phát động Phong trào Duy Tân, Phan Châu Trinh
đã đề ra khẩu hiệu 'khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh', kêu gọi mọi người lập 'hội nông', 'hội
buôn', 'hội nuôi tằm', v.v. nói chung là khuyến khích dân
làm giàu. Như vậy, nếu ông không lên án chế độ tư hữu,
không đặt quốc hữu hóa thành mục tiêu hàng đầu thì cũng
là điều dễ hiểu. Có thể do Phan Châu Trinh không coi chế độ
tư hữu là nguồn gốc của mọi bất công xã hội. Hoặc ông
cho rằng nước Việt Nam còn quá nghèo, đất nước muốn phát
triển còn cần nhiều đến những nhà tư sản yêu nước. Do
đó, ông không đả kích người giàu, mà chỉ đề ra yêu cầu
'người giàu giúp đỡ người nghèo'. Nói một cách chính
xác, quan niệm của ông nghiêng về 'công bằng' (justice) hơn
là 'bình đẳng' (égalité)</i>". (Mai Thái Lĩnh, bđd.)
Phan Châu Trinh thuộc những nhà dân chủ xã hội tiên phong,
một chủ nghĩa dân chủ xã hội mang dấu ấn Việt Nam, sinh ra
từ điều kiện Việt Nam. Cái chủ nghĩa xã hội nhân đạo mà
ta đang định hướng về Bắc Âu để kiếm tìm thì nay chẳng
những không phải tìm đâu xa, mà còn sẵn có một phương sách
thích hợp hơn với dân với nước ta nữa.
<b>D. Từ Phan Châu Trinh, nghĩ về một vài bài học cho hôm
nay</b>
a. <u>Vai trò tiên phong của tư tưởng Phan Châu Trinh</u>
Trong cuốn sách nghiên cứu về Phan Châu Trinh, TS Thu Trang Công
Thị Nghĩa viết: "<i>đa số các nhà làm sử đã công nhận:
Phan Châu Trinh là một nhà dân chủ đầu tiên ở Việt Nam</i>"
(Thu Trang, sđd).
Tinh thần dân chủ Phan Châu Trinh được bộc lộ một cách
toàn diện: Điều hành xã hội bằng luật pháp chứ không bằng
ý thức hệ, phải "tam quyền phân lập" và đa đảng đa
nguyên (bên cạnh một đảng cánh tả rất cần có một đảng
cánh hữu), chú trọng tự do tư tưởng, tự do ứng cử bầu
cử, tự do lập hội. Phan Châu Trinh luôn coi sự <i>phản
biện</i> trong mọi lĩnh vực là tối cần thiết, ngay khi diễn
thuyết cũng phải theo nguyên tắc "<i>nghịch luận</i>" (tạo
những ý kiến trái ngược để cùng bàn luận). Phan Châu Trinh
luôn coi trọng sự khác biệt, đồng thời coi trọng sự hợp
tác tương hỗ. Về hoạt động thực tiễn Phan Châu Trinh là
<i>chiến sĩ dân chủ-nhân quyền đầu tiên</i>, <i>chiến sĩ</i>
"<i>diễn biến hòa bình</i>" đầu tiên của Việt Nam.
Tiến bộ đặc biệt của Phan Châu Trinh là sớm biết phê phán
bản chất lạc hậu của Nhân trị (hay Đức trị), nó cản
trở pháp luật, cản trở nền dân chủ pháp trị: "<i>Nhân
trị nghĩa là cai trị một cách rộng rãi hay là nghiêm khắc
chỉ tùy theo lòng vui, buồn, thương, ghét của một ông vua mà
thôi, pháp luật tuy có cũng như không</i>." Đừng quên rằng
sau bao năm cầm quyền mà thủ tướng Phạm Văn Đồng vẫn chưa
có ý thức rõ ràng về xây dựng nền luật pháp (e pháp luật
sẽ "trói tay" Đảng làm Đảng khó lãnh đạo), và ngay đến
thế kỷ 21 này ĐCSVN vẫn chưa dám thực hiện "tam quyền phân
lập", và không ít cán bộ cũng như trí thức vẫn còn lưu
luyến Nhân trị thì mới biết cụ Phan đã đi trước dân tộc
một đoạn dài lắm.
Tiếp tục đi xa hơn, Phan Châu Trinh đã trở thành nhà <i>xã
hội dân chủ</i> đầu tiên, người đầu tiên chủ trương
"định hướng" <i>xã hội chủ nghĩa</i>, nhưng là xã hội
chủ nghĩa phi Mác-xít, mà thực chất rất gần gũi với nền
chính trị của nhiều quốc gia tiên tiến nhất của thế kỷ 21
này.
Vậy nếu tôn vinh Phan Châu Trinh là nhà tư tưởng lớn của
dân tộc này thì có xứng đáng không?
Học giả Hoàng Xuân Hãn nói: "<i>Những tư tưởng của Phan
Châu Trinh về cơ bản vẫn còn giá trị lớn đối với xã hội
ta ngày nay</i>". Bởi vì, như ý kiến của nhà văn Nguyên
Ngọc: "<i>Những vấn đề cơ bản nhất làm nền tảng cho
độc lập tự chủ và phát triển dân tộc mà Phan Châu Trinh
đã thống thiết nêu lên từ đầu thế kỷ XX, trong đó trung
tâm là vấn đề dân trí… thì <b>đến nay vẫn còn nguyên
đấy</b></i>", "<i>Đó là một nhiệm vụ, một món nợ mà
lịch sử còn để lại cho chúng ta hôm nay: nhiệm vụ xây dựng
một xã hội dân chủ trên cơ sở một dân trí được nâng
cao</i>". [6]
Nhà sử học Daniel Héméry, một người nghiên cứu khá sâu về
Việt Nam, (và khá sâu về Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã viết:
"<b><i>Khuôn mặt vĩ đại của Phan Châu Trinh theo tôi là khuôn
mặt đáng chú ý nhất trong lịch sử văn hóa và chính trị
Việt Nam ở thế kỷ XX</i></b><i>, bởi chính ông đã xác định
một cách rành mạch, sáng rõ nhất những nan đề (les
problématiques) đặt ra lâu dài mà các thế hệ người Việt Nam
sẽ phải - và mãi mãi còn phải - đảm nhận</i>". [7]
b. <u>Phan Châu Trinh biết chắt lọc và kết hợp một cách sáng
tạo những tri thức của thế giới</u>. Với cái vốn Hán học,
Phan Châu Trinh ngoài việc tiếp thu những tư tưởng của Lương
Khải Siêu, Khanh Hữu Vi, Tôn Dật Tiên… còn đọc các bản
dịch chữ Hán các cuốn De l'esprit des lois của Montesquieu,
Contrat social của J. J. Rousseau. Đọc như thế chưa phải là
nhiều, nhưng cụ rút ngay ra được nhiều điều tinh túy là
bởi cách đọc thông minh. Huỳnh Thúc Kháng viết về Phan Châu
Trinh:<i> "Tiên sinh (…) đọc sách có con mắt riêng, làm văn
tạo xuất cách mới, không làm những lối tìm câu lặt chữ,
vẽ bóng pha mầu (…). <b>Bất kỳ đề mục gì vào đến tay
tiên sinh thì sao cũng mở ra một lối mới</b> để tỏ ý bi ca
khảng khái của mình". </i>[8]
Với lối đọc sách như thế, kết hợp với thực tiễn tổ
chức và tham gia tranh đấu và tù đày trong nước, kết hợp
với sự quan sát học hỏi trong môi trường chính trị ở Pháp,
dưới sức thôi thúc của tinh thần ái quốc tự thân, (không
bị bất cứ trào lưu nào làm cho mất tính chủ động) và ở
vào độ chín sung mãn nhất của đời người (từ 35 đến 55
tuổi) Phan Châu Trinh đã kịp kết tinh và thăng hoa.
Từ tấm gương ấy, mỗi chúng ta đều có thể rút lấy một
phần kinh nghiệm. Thời nay bao nhiêu người được đọc nhiều
sách, nhưng ngập trong rừng sách mà làm nô lệ cho sách, bao
nhiêu người từng dấn thân sâu vào cuộc tranh đấu nhưng vì
thế mà mất hết tính chủ động, có thể nhìn vào tấm gương
Phan Châu Trinh mà tự gỡ cho mình.
c. <u>Phan Châu Trinh là người biết kết hợp nhận thức-tư
tưởng với hoạt động thực tiễn</u>. Trước hết Cụ là
người của hành động, chủ trương "<i>thực học</i>". Mục
đích của cụ là " <i>Chống lại chế độ độc tài chuyên
chế hiện nay đang có mặt ở Đông Dương, do các nhà chức
trách Pháp cũng như do quan lại bản xứ thực hiện</i>". Cụ
không bao giờ là người lý thuyết suông (có thể nói: Lý
thuyết cụ vốn không ham!). Nhưng cụ biết vai trò rất căn
bản của tư tưởng nên phải "sục" vào kho tàng tư tưởng
để xác định nền móng và tìm phương hướng, cuối cùng (như
"vô tình") thành nhà tư tưởng với một nội dung rất sắc
sảo và phong phú. Vì cần giải phóng dân tộc mà một nhà nho
tự biến mình thành một nhà "Tây học" (mà không hề lai
căng), vỡ lòng học lấy những điều mới lạ, không chút tự
ái bảo thủ.
Ngày nay, một số người Tây học hoạt động dân chủ lại
chỉ đề cao hành động (thực ra mới chỉ là hành động bề
nổi, chưa đáng gọi là hoạt động chính trị) mà coi khinh
nền tảng tư tưởng.
Một bạn trẻ tâm sự với tôi đầy tự tin: "<i>Đã biết
chân lý là dân chủ đa nguyên thì ta cứ xốc thẳng tới đó
mà tiến, chẳng phải rắc rối quanh co gì hết! Còn cả thế
giới bên ngoài, sợ gì</i>!"
Ta đã từng chê cười chủ trương trước đây "<i>dựa vào
sức mạnh vô địch của phe ta, để tiến nhanh tiến mạnh
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội</i>", nhưng hiện nay
xốc nổi như thế thì khác nào "<i>dựa hẳn vào sức mạnh
Hoa Kỳ để tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên dân
chủ đa đảng đa nguyên"</i>? (Có người còn dự đoán năm
2007, năm 2008… dân chủ sẽ toàn thắng!) Vẫn giống nhau cái
tâm lý thực dụng, ăn xổi, võ biền thì rất khó rút kinh
nghiệm. Ai phê bình là tự ái ngay.
Có người lại hỏi: "<i>Thế bên Tiệp, cũng xã hội chủ
nghĩa, sao người ta làm Cách mạng Nhung, xoạch một cái là xong?
Chờ xây dựng dân trí thì đến mùng thất!</i>". Xin thưa, cái
nền dân trí của Tiệp đã cao hơn mình hẳn một tầm, nhưng
dân trí là cái vô hình, nó ngấm sâu vào tâm lý, vào nhiều
mặt sinh hoạt khác nên ta không để ý. Dân trí lại phụ
thuộc nhiều vào giới trí thức tinh hoa. Dân trí chỉ xuất lộ
trước những biến cố, nên ngồi nói chuyện với một người
dân Tiệp có thể thấy họ cũng chẳng hơn gì mình, nhưng
đừng vì thế mà nghĩ rằng dân trí hai nước như nhau. Châu Âu
đã từng trả bao nhiêu xương máu (từ thế kỷ 18-19) để có
ý thức dân chủ ngày nay, để bây giờ có cái Nghị quyết
1481. Nước mình đổ xương máu cũng nhiều, nhưng chỉ để
trả cái nợ độc lập cho dân tộc còn chưa xong, cuộc tranh
đấu cho dân chủ mới chỉ bắt đầu.
d. <u>Vững tin vào con đường dân chủ-xã hội</u> (<i>Social
Democracy</i>)
Mấy năm gần đây, tuy chưa khai thác được "kho báu" tư
tưởng Phan Châu Trinh, nhiều trí thức Việt Nam trong và ngoài
nước tự mình cũng đã lưu tâm đến con đường dân chủ xã
hội (cũng gọi là xã hội dân chủ) và tìm thấy ở đó sinh
lộ cho tình hình Việt Nam.
Bài <a
href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5273&rb=0401">"5
nhà trí thức phát biểu về "Con đường xã hội – dân
chủ" ở nước ta"</a> của Lê Bảo Sơn-Phan Trọng Hùng
(talawas 2.9.2005) [9] đã giới thiệu tóm tắt ý kiến của Phan
Đình Diệu, Lữ Phương, Lê Đăng Doanh, Nguyễn Xuân Nghĩa, Hà
Sĩ Phu về con đường XHDC ở nước ta.
Sau đó là tác phẩm <a
href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5181&rb=0401"><i>Huyền
thọai về một nhà nước tự tiêu vong</i> </a>và bài "<a
href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9182&rb=0402">Dân
chủ - Xã hội là gì?</a>" của Mai Thái Lĩnh, bài "Xưa nhích
chân đi, giờ nhích lại" của Hà Sĩ Phu… và rất nhiều bài
viết khác của các tác giả trong và ngoài nước (tôi xin lỗi,
vì không có văn bản chính thức trong tay nên không kể được
ra đây) từ những cách tiếp cận khác nhau đều gặp nhau ở
niềm hy vọng vào con đường dân chủ xã hội (cũng gọi là xã
hội dân chủ), bạn bè khắp nơi giới thiệu những thành tựu
đỉnh cao của Thụy Điển, Na Uy.
Đến khi phát hiện con đường dân chủ xã hội trong kho tàng
tư tưởng Phan Châu Trinh thì chúng tôi mừng lắm, khâm phục
viễn kiến của Phan Châu Trinh vô cùng, như đã giới thiệu
trong các phần trên.
Một thắng lợi bất ngờ là lại đến. <a
href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10006&rb=0402">Tác
giả Trung Quốc Tạ Thao</a> giới thiệu công trình nghiên cứu
của một đảng viên cộng sản Trung Quốc, ông Tân Tử Lăng.
Tác giả khẳng định sự thắng lợi của chủ nghĩa <i>xã
hội dân chủ</i>, tức Quốc tế Hai, là tất yếu, thất bại
của "<i>chủ nghĩa xã hội bạo lực"</i> của Lênin là tất
yếu. Vì chính cuối đời Marx và Engels đã thấy sai lầm và
sửa đổi theo tinh thần xã hội dân chủ (?), chỉ có Lênin lúc
ấy còn chống lại.
Xin trích vài dòng trong bài viết của Tạ Thao:
<ul> <li> "<i>Quyển 3 </i>Tư bản luận<i> đã lật đổ kết
luận của quyển 1 </i>Tư bản luận<i>", "chủ nghĩa cộng
sản Marx đề xướng lúc trẻ nhưng vứt bỏ lúc cuối đời"
(?);</i>
</li> <li> <i>"Breznev nói với em trai: Chủ nghĩa cộng sản cái
gì, đều chỉ là những lời nói trống rỗng nhằm dỗ dành
dân chúng";</i>
</li> <li> <i>"Cái viết trên ngọn cờ chủ nghĩa Mác đương
đại là chủ nghĩa xã hội dân chủ, kiên trì chủ nghĩa Mác
là kiên trì chủ nghĩa xã hội dân chủ", "Khi chủ nghĩa xã
hội bạo lực đi đến sơn cùng thủy tận, thì chủ nghĩa xã
hội ở Tây Âu và Bắc Âu lại giành được thành công cực
lớn</i>";
</li> <li> "<i>Thụy Điển là tấm gương của chủ nghĩa xã
hội dân chủ, kinh nghiệm của Thụy Điển có giá trị phổ
cập thế giới, là cống hiến vĩ đại cho văn minh nhân
loại"</i>;
</li> <li> <i>"Chỉ có chủ nghĩa xã hội dân chủ mới có thể
cứu Trung Quốc</i>";
</li> <li> "<i>Năm 2004, Hồ Cẩm Đào nói chuyện tại Quốc
hội Pháp, đã trịnh trọng nói rõ với thế giới: "Phát
triển chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn
đấu trước sau không thay đổi của chúng tôi", "hàng loạt
chính sách mới đó thuộc về chủ nghĩa xã hội dân chủ,
nhưng để tránh nỗi nghi ngờ "chủ nghĩa xét lại" chúng ta
đã gọi nó là con đường xã hội chủ nghĩa có sắc thái Trung
Quốc"… <a name="nr10"></a><a
href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10080&rb=0306#anm10"><sup>[10]</sup></a>
</i>
</li> </ul> Đây là lời những đảng viên cao cấp của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, những người "<i>một lòng canh cánh
cứu Đảng</i>", dũng cảm gấp trăm lần những đảng viên
cộng sản Việt Nam, và đi trước Đảng Cộng sản Việt Nam
nhiều lần, nhưng thưa rằng so với Phan Châu Trinh thì họ chỉ
là những người nói sau ngót một thế kỷ!
e. <u>Phan Châu Trinh, lý tình trọn vẹn</u>
Phan Châu Trinh sống giữa một giai đoạn đầy biến động
của một dân tộc đang tìm đường cứu nước, nên tính mâu
thuẫn giữa các xu hướng là điều nổi bật.
Nhưng phê phán nhau kịch liệt (về phương pháp) mà vẫn không
quên ca ngợi <i>sở trường</i> của bạn, bảo vệ quan điểm
của mình mà vẫn dũng cảm nhận ra <i>sở đoản</i> của mình,
mà vẫn khuyên nhủ thuyết phục nhau, vẫn ủng hộ nhau, mà
vẫn vui sướng khi xu hướng khác mình giành được thắng lợi
như các vị ấy thì thật hiếm có.
Trong những cuộc bàn thảo vừa xung đột vừa cảm động ấy
(đặc biệt là giữa Phan Châu Trinh với Phan Bội Châu và
Nguyễn Tất Thành) Phan Châu Trinh luôn là người chủ động
nhất và cũng là người có nhiều trăn trở dằn vặt nhất.
Sở dĩ như vậy là vì Phan Châu Trinh luôn là người trung dung,
dân chủ, ôn hòa, mà người như thế thường là chiếc cầu ở
giữa nối các phía cực đoan gần lại với nhau.
Nhưng từ khi Phan Châu Trinh mất đi, phe ôn hòa không còn, chỉ
còn toàn những phe chủ trương bạo lực thì tình hữu ái
tương đối ấy không còn nữa, tuy cùng muốn cứu nước mà
lại tìm cách vu cáo nhau, thôn tính nhau, tranh công của nhau
đến một mất một còn. Bài học ấy đáng để những người
đương thời suy ngẫm.
f. <u>Tại sao tư tưởng Phan Châu Trinh bị chìm lắng</u>?
Đã 81 năm kỷ niệm ngày mất của chí sĩ họ Phan (24.3.1926),
hôm nay đã có đủ độ lùi để nhìn lại một giai đoạn
lịch sử dân tộc. Tất nhiên lịch sử là cái đã qua, nhưng
với niềm luyến tiếc ta cứ thử nghĩ về một chữ "nếu".
Nếu đoàn tàu Việt Nam thuở ấy rẽ vào đường ray Phan Châu
Trinh, nhằm hướng <i>xã hội dân chủ</i> như Na Uy, Thụy Điển
bây giờ thì sao nhỉ?
Nếu nương vào Pháp để đi lên thành công, không thành cộng
sản, thì giản ước được bao nhiêu thứ:
<ul> <li> không có cuộc đánh Pháp 9 năm
</li> <li> không có cuộc "Nam Bắc phân tranh lần thứ 2" dẫn
đến cuộc đánh Mỹ
</li> <li> không phải tham chiến ở Căm-pu-chia
</li> <li> không tranh giành gì để phải đánh Tàu năm 1979 (và
đứng trước nguy cơ Bắc thuộc mới)
</li> <li> không có lý do gì phải tiến hành cuộc "đổi mới
hay là chết"
</li> <li> không có lý do gì để xuất hiện làn sóng đòi dân
chủ-nhân quyền, dẫn đến hài kịch bịt miệng bị cáo
trước toà cho thiên hạ xem, vân vân…
</li> </ul>
Nghĩa là tiết kiệm được bao nhiêu thời gian, bao nhiêu gương
anh hùng, bao nhiêu nạn nhân, bao nhiêu máu xương, bao nhiêu hận
thù…, và tăng thêm được bao nhiêu là hạnh phúc. Lịch sử
không thể quay lại để kiểm chứng, nhưng ai cũng có quyền
giả thiết để suy ngẫm, để rút kinh nghiệm cho hiện tại và
tương lai.
Nhưng tổ tiên mình thuở trước chắc vụng đường tu nên
Trời đã sai lão Thiên lôi ra "bẻ ghi" để con tàu Việt Nam
không thể đi vào đường ray Phan Châu Trinh, mà ngoặt sang
<i>đường ray Quốc tế số 3</i>, có chữ "<i>tiên tiến nhất
trong xã hội loài người</i>", và thế là hôm nay ta đang ngồi
đây giữa sân ga hiện thực này, tụt hậu so với xung quanh
gần nửa thế kỷ, với bao vết thương trên thịt da và trong
phủ tạng.
Sau khi đã công nhận những điều ưu điểm tuyệt vời trong
tư tưởng Phan Châu Trinh, ta thường an ủi cho sự đi trệch
đường ray đó bằng cách giải thích:
"<i>Lịch sử, do những éo le của nó, đã không đi được
theo con đường Phan Châu Trinh sáng suốt lựa chọn gần 100 năm
trước</i>" (Nguyên Ngọc, bđd.). Có lẽ hầu hết chúng ta
đều làm dịu vết thương của mình như thế.
Nhưng cái gì là "<i>sự éo le</i>" của lịch sử? Ta bảo
đó là "<i>kẻ thù đã buộc chúng ta…</i>"
Cũng có thể kể ra một loạt sử liệu làm "bằng chứng
cấu thành tội phạm" để kết án kẻ thù đã làm chúng ta
"lỡ tàu", để tự an ủi bằng chữ "bất khả kháng".
Nhưng mọi kẻ thù xưa nay, dù ở mức độ này hay mức độ
khác, bản chất chúng bao giờ cũng thế thôi, bao giờ kẻ thù
chẳng buộc chúng ta chọn con đường bất lợi. Quy tội cho
chúng một nghìn lần cũng vô ích.
Vấn đề là ở mình. Nhìn số phận của mình mà lại thấy
nguyên nhân nằm ở ngoài mình thì có nghĩa là mình bó tay. Cứ
chịu bó tay, cứ chịu thua kém thiên hạ thì kẻ thù lại
đến, và mình lại phải gồng lên để lại tiếp tục "<i>anh
hùng</i>"! (Năm 1975, sau "đại thắng", ta tuyên bố từ nay
trở đi không kẻ thù nào dám xâm phạm bờ cõi ta nữa, thì
chỉ 4 năm sau, một kẻ thù khác lại xâm phạm bờ cõi ngay
chứ họ sợ gì đâu? Rồi đây, cái "biên giới mềm" lại
càng khó bảo vệ hơn nữa). Phan Châu Trinh là người Việt Nam
đầu tiên nhận ra nguyên nhân gốc rễ của cái chuỗi khổ ải
lặp đi lặp lại bất tận ấy, là thua kém thiên hạ một tầm
văn minh, và có giải pháp cơ bản để thoát ra và chấm dứt
nó.
Nhưng bất hạnh thay, lịch sử đã không "chọn" Phan Châu
Trinh.
Không, đừng nói lịch sử, phải nói: dân tộc này đã không
"chọn" Phan Châu Trinh. Đổ cho lịch sử khách quan là vô
trách nhiệm với chính mình.
Mặc dù đã cố gắng hết mình, lo cho số phận dân tộc, Phan
Châu Trinh vẫn không thoát khỏi số phận cô đơn. Nếu Phan
Châu Trinh cũng hô "<i>Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc
tận rễ</i>", cũng "<i>thề phanh thây uống máu quân
thù</i>" (lời cũ bài Quốc ca) thì chắc "lịch sử" đã
chọn cụ rồi. Chọn cái gì, không chọn cái gì là do tâm lý
dân tộc, sở thích của dân tộc, nhận thức của dân tộc, và
chúng ta lại trở về với hai phần đầu của bài viết này
(về mấy nhược điểm chính trong tính cách của dân tộc ta).
Thay vì "phanh thây" quân thù ta cần "nội soi" và mổ xẻ
chính cơ thể mình với bàn tay tinh tế của y thuật.
Phan Châu Trinh lo cho dân trí của dân tộc này, nhưng chưa kịp
làm cho dân trí trưởng thành thì dân trí đã gạt cụ ra bên
lề lịch sử (mặc dù vẫn kính trọng cụ nhưng <i>kính nhi
viễn chi</i> thôi, chỉ "<i>cung kính</i>" chứ không "<i>tòng
mệnh</i>", không đi theo đường).
Nhưng điều oái oăm là trong khi những người muốn đổi mới
số phận dân tộc còn đang lúng túng trước dân trí thì phía
cai trị bao giờ cũng hiểu dân trí rất rõ và tận dụng rất
tài những nhược điểm của dân trí.
<center> * * *</center>
Mở đầu bài viết tôi chỉ muốn kính gửi đến các ông Võ
Văn Kiệt, Bùi Tín, Lê Hồng Hà (và đến tất cả mọi người)
mấy ý kiến nhỏ mà các ông đề cập về tình hình thời
sự-chính trị, mà rồi lan man phải nhắc đến cụ Phan Châu
Trinh 100 năm về trước, có lẽ một phần vì những điều các
ông phát biểu (nhất là bài của ông Lê Hồng Hà) đều phảng
phất có hình bóng Phan Châu Trinh trong đó, gợi ra cái nhu cầu
phải ôn lại nhân vật lịch sử kiệt xuất này, làm chút ánh
sáng giúp ta tránh một số điều mù quáng hiện nay. Nhưng đây
là lĩnh vực tôi ít hiểu biết nhất. May mà có những người
đi trước đã khảo cứu khá sâu về Phan Châu Trinh như các vị
Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Văn Dương, Nguyên Ngọc, TS Thu Trang, Mai
Thái Lĩnh…, lại thêm ở quê nhà Quảng Nam của cụ Phan cũng
đã có nhiều hoạt động để nối tiếp con đường của cụ.
Tôi xin cảm ơn các vị ấy.
Để kết luận, tôi thấy không gì bằng dùng lời kết của TS
Thu Trang khi viết về Phan Châu Trinh: " CHỚ ĐEM THÀNH BẠI
LUẬN ANH HÙNG!"
Bà nhắc lại lời của triết gia Nietzsche: "<i>Có vô vàn sự
việc mà nhân loại đã thu đạt được trong bao thời kỳ
trước, nhưng với một vẻ rất nhỏ, rất yếu tựa như còn
trong trứng, nên người ta không trông thấy được sự thành
hình. <b>Nhưng với thời gian, có khi cần đến hàng thế kỷ,
những sự việc ấy mới nổi bật lên trong ánh
sáng</b>…</i>" (Thu Trang, sđd)
Sinh thời, bao giờ Phan Châu Trinh cũng rất yêu mến bạn bè và
dân chúng, thế mà rất nhiều lần cụ phải nhắc đến chữ
"ngu", như nhắc đến một kẻ thù nguy hiểm, không thể coi
thường. Chính cụ cũng lấy chữ ngu ra để tự răn mình.
Vâng, cái ngu dốt thật đáng sợ, nhưng đáng sợ nhất là ngu
dốt mà được hoan hô và nhất thời thắng lợi, vì như thế
nó phá hủy mất khả năng nhận thức ra chân lý.
Đà Lạt, viết xong ngày 24.5.2007
<b>H.S.P.</b>
Tác giả trực tiếp gửi cho <i>BVN</i>
Có thể đọc trên: <a
href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10080&rb=0306">http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10080&rb=0306</a>
<a
href="http://www.hasiphu.com/baivietmoi_12.html">http://www.hasiphu.com/baivietmoi_12.html</a>
[1] Mai Thái Lĩnh, "Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu
Trinh - Về những nguyên tắc căn bản của chế độ dân chủ
(Phần 1)", talawas 24.2.2007
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9307&rb=0306
[2] Mai Thái Lĩnh, "Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu
Trinh - Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (Phần 2)",
talawas 26.2.2007
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9321&rb=0306
[3] Mai Thái Lĩnh, "Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu
Trinh - Về nền tảng đạo đức Nho giáo (Phần 3), talawas
24.3.2007
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9553&rb=0306
[4] Nguyễn Q. Thắng, <i>Phan Châu Trinh - Cuộc đời và tác
phẩm</i>, Nxb Văn học, 2006 (tái bản lần thứ tư, có bổ sung)
[5] TS Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp
1911-1925, Nxb Văn Nghệ TPHCM, 2000
[6] Nguyên Ngọc, "Nhà cải cách giáo dục lớn đầu thế kỷ
XX", tạp chí <i>Tia sáng</i>, Bộ Khoa học và Công nghệ, tháng
10.2002, Hà Nội
[7] Daniel Héméry, trích theo Nguyên Ngọc, tạp chí <i>Tia sáng</i>
(bài đã dẫn)
[8] Trích theo Huỳnh Lý, <i>Lời giới thiệu - Phan Châu Trinh toàn
tập</i>, tập I, Nxb Đà Nẵng, 2005, tr. 13-14
[9] Lê Bảo Sơn; Phan Trọng Hùng, "5 nhà trí thức phát biểu về
'Con đường xã hội-dân chủ ở nước ta'", talawas 2.9.2005;
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5273&rb=0401
[10] Tạ Thao, "<a
href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10006&rb=0402">Mô
hình chủ nghĩa xã hội dân chủ và tiền đồ Trung Quốc,
talawas 22.5.2007</a>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20131027/ha-si-phu-nhan-vat-lich-su-phan-chau-trinh-va-nhung-bai-hoc-cho-hom-nay),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét