Đoàn Khắc Xuyên - Vốn xã hội của Việt Nam, nhìn từ thực tế hôm nay

<blockquote>Lại một bài báo cũ từ tháng 6/2006 của tôi. Đây
là bài ghi nhận từ cuộc hội thảo "Vốn xã hội trong phát
triển" do Tạp chí Tia Sáng tổ chức ngày 24-6 -2006 tại Hà
Nội. Hội thảo đã không tốn nhiều thì giờ cho các vấn đề
lý thuyết, đi từ cách hiểu của R. Putnam, F. Fukuyama đến J.
Coleman, C. Bourdieu hay xa hơn như L.J. Hanifan - dù vốn xã hội là
một khái niệm khá mới mẻ ở Việt Nam. Những bức xúc nóng
bỏng từ thực tế đã "đổ bộ" vào hội thảo.</blockquote>

Một cách khái quát, vốn xã hội nhằm chỉ những mối liên
kết, những "mạng lưới xã hội" hình thành trên cơ sở
lòng tin hay sự tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên của
"mạng lưới", của cộng đồng vốn cùng nhau chấp nhận
những quy tắc, những chuẩn mực xã hội chung. Những mối liên
kết ấy, sự tin cậy lẫn nhau ấy, những chuẩn mực cùng
được chấp nhận ấy có thể giúp làm giảm các chi phí giao
dịch giữa các thực thể trong xã hội, làm tăng hiệu quả
của các hoạt động xã hội bằng cách thúc đẩy sự hợp
tác, và tăng hiệu quả của các thiết chế xã hội mà không
cần đến sự can thiệp của luật pháp. Tạm đồng ý với nhau
về cách hiểu vốn xã hội như vậy, những người tham dự
hội thảo đã tập trung phân tích về thực trạng của vốn xã
hội ở Việt Nam và giải pháp để phát triển nguồn vốn này.

<h2>Nghịch lý: kinh tế tăng trưởng, vốn xã hội suy giảm</h2>

Không gửi tham luận trước mà phát biểu trực tiếp tại hội
thảo, Giáo sư Hoàng Tụy cho rằng vốn xã hội phát triển hay
không phụ thuộc vào hai yếu tố: kết cấu hạ tầng tâm lý
xã hội và thể chế chính trị. Theo ông, về hạ tầng tâm lý
xã hội, đã đến lúc nói đến những nhược điểm, những
khuyết tật trong tâm lý xã hội của dân tộc. Nổi cộm nhất
hiện nay trong hạ tầng tâm lý xã hội, theo ông, là sự gian
dối, không chỉ trong thi cử hay các vụ tham nhũng mà còn ở
những cái lớn hơn, như nói trị tham nhũng không trừ ai nhưng
việc xử lý những vụ tham nhũng gần đây chưa chứng tỏ
được điều ấy. Một khuyết nhược khác trong hạ tầng tâm
lý xã hội của dân tộc là sự thiếu óc tưởng tượng, óc
sáng tạo, ngay từ trong giáo dục. Về thể chế chính trị, ông
cho rằng đang có những "lỗi hệ thống" và cơ chế lựa
chọn lãnh đạo đang có những bất cập. Muốn phát triển vốn
xã hội của Việt Nam cần sửa đổi những yếu tố trên.

Tiếp nối ý tưởng trên, GS Nguyễn Văn Chiển cho rằng ở
Việt Nam đang thiếu cơ chế để người dân có thể vạch
trần sự gian dối. Ông cũng cho rằng có nhiều thứ đang mai
một trong vốn xã hội của Việt Nam như truyền thống đoàn
kết đang suy yếu, thay vào đó là sự tranh giành quyền lợi.

Diễn giả Nguyễn Trung cho rằng trong khi đời sống vật chất
được cải thiện thì vốn xã hội lại đang sút giảm nghiêm
trọng và so với thế giới, đặt trong bối cảnh cạnh tranh,
vốn xã hội của ta đang rất thấp. Ông nói ông không hình dung
được vốn xã hội, đạo đức xã hội xuống cấp như thế
này thì làm sao Việt Nam có thể trở thành một xã hội công
nghiệp hiện đại, một quốc gia công nghiệp vào năm 2020?

Ngược dòng thời gian, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, trong tham luận
của mình, phân tích: từ sau năm 1953, chính sách đại đoàn
kết dân tộc bị thay thế bằng một loạt chính sách rất xa
lạ với truyền thống của dân tộc (thay đại đoàn kết dân
tộc bằng đấu tranh giai cấp, cải cách ruộng đất với đấu
tố, xử lý oan sai hàng loạt cán bộ, sử dụng nhục hình,
kích động con tố cha, vợ tố chồng…) đã phá hoại nặng
nề vốn xã hội ở nông thôn và để lại những di chứng lâu
dài. Cải tạo xã hội chủ nghiã ở thành phố cũng gây ra tác
hại tương tự về vốn xã hội trong quan hệ giữa người và
người, sự tàn phá vốn văn hoá, vốn đạo đức cũng cực
kỳ nghiêm trọng và để lại những hệ qủa lâu dài. Việc áp
dụng triệt để quan niệm thành phần chủ nghiã trong chính
sách cán bộ đã bóp méo nghiêm trọng vốn xã hội truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và gây ra rất nhiều tác động
tiêu cực nhiều mặt đối với xã hội. Con người không còn
được quyết định bởi năng lực và đóng góp của bản thân
mình mà bởi "thành phần" của cha mẹ, ông bà để lại.
Theo ông, trong quá trình đổi mới, một số những cách làm quá
thô bạo và phi lý đã được lặng lẽ điều chỉnh nhưng chưa
bao giờ được chính thức thừa nhận là sai. Song chừng nào
việc quyết định cán bộ còn thiếu công khai minh bạch,
được quyết định bởi những yếu tố không liên quan gì
đến năng lực, phẩm chất thì vốn con người và vốn xã hội
vẫn còn bị hạn chế và bị bóp méo.

Diễn giả Trần Hữu Quang phân tích thêm: chính não trạng coi
trọng chính trị hơn đạo đức trong bối cảnh các thiết chế
xã hội bị nhà nước hoá, chính trị hoá đã khiến cho người
ta có xu hướng quan tâm tới mục đích hơn là phương tiện, coi
trọng thành tích hơn là nỗ lực, phương pháp và con đường
đạt tới mục tiêu - từ đó dẫn tới một thứ tâm lý thực
dụng hiểu theo nghiã tiêu cực trong xã hội. Luật sư Nguyễn
Ngọc Bích thì nhấn mạnh tới tác hại của chủ nghiã thành
tích: chủ nghiã thành tích phá hủy tương lai, vì thành quả
hiện tại mà nó đề cao là không thật. Khi cá nhân chạy theo
thành tích, họ phải loại trừ người khác, phải đứng trên
người khác, nếu không họ sẽ bị lu mờ. Cách thức người ta
dùng để thực hiện óc tư lợi không tạo nên sự hợp tác
tự nguyện, không góp vào mà còn làm giảm đi vốn xã hội.

<h2>Vốn xã hội – Nhà nước pháp quyền – xã hội dân
sự</h2>

Vậy làm thế nào để phục hồi và phát triển vốn xã hội
của Việt Nam?
Hầu như tất cả các diễn giả đều chỉ ra mối liên hệ
giữa việc phát triển vốn xã hội với việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền và xã hội dân sự, bởi vốn xã hội không
tách rời mà luôn có sự tương tác với môi trường các thiết
chế nhà nước và xã hội.

Giáo sư Phan Đình Diệu cho rằng trong xã hội có những mối
liên kết dọc (tiêu biểu là các quan hệ thứ bậc trong trật
tự hành chính, quan hệ giữa nhà nước và công dân) và những
mối liên kết ngang (liên kết tự nguyện và bình đẳng giữa
các cá nhân, không có quan hệ tùy thuộc, trên dưới). Xét theo
quan điểm vốn xã hội, chính các mối liên kết ngang vốn rất
đa dạng, phong phú mới có nhiều khả năng đóng góp những ý
tưởng, những giải pháp thiết thực, có hiệu quả cho những
bài toán phức tạp của cuộc sống muôn màu muôn vẻ khó
lường trước được. Loại liên kết ngang này chủ yếu là
các liên kết trong các tổ chức của xã hội dân sự, độc
lập và bổ khuyết cho Nhà nước pháp quyền trong một xã hội
dân chủ. Như vậy vốn xã hội chỉ có thể phát triển trong
điều kiện xã hội dân sự được phát triển. Một khi xã
hội dân sự chưa được phát triển thì vốn xã hội còn nghèo
nàn và chưa đóng góp được gì đáng kể cho phát triển kinh
tế, thậm chí còn chưa được coi là một nhân tố phát triển.

Giáo sư Ngô Vĩnh Long nhấn mạnh: nói đến vốn xã hội là nói
đến xã hội dân sự, nói đến dân chủ theo nghiã là sự tham
gia trực tiếp của người dân (không phải dân chủ qua bỏ
phiếu). Cái gì người dân làm được hãy để cho dân làm.
Nếu Nhà nước nhúng tay vào tổ chức mọi hoạt động, có
thể có những ảnh hưởng tiêu cực đối với vốn xã hội,
người dân sẽ quen ỷ lại và đánh mất những khả năng vốn
có trong các haọt động chung. Ở Việt Nam, vướng mắc lớn
nhất trong các năm qua là vấn đề cơ chế: quyền lực thì
tập trung cao độ mà Nhà nước lại quản lý kém.

Diễn giả Nguyễn Trung cũng cho rằng không thể tránh né hai
vấn đề cơ bản để phát huy vốn xã hội, đó là xây dựng
Nhà nước pháp quyền và phát triển xã hội dân sự, trong đó,
theo ông, hai yếu tố dân tộc và dân chủ là không thể thiếu.
Theo ông, việc phát triển vốn xã hội trên cơ sở Nhà nước
pháp quyền và xã hội dân sự là bảo đảm tốt nhất loại
trừ những hiện tượng hoang dã trên con đường hướng tới
tương lai, là cách trả giá ít nhất những cái giá phải trả
trong quá trình này, và là cách sử dụng tối ưu, tiết kiệm
nhất mọi nguồn lực có thể huy động được.

Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng trong thời bao cấp chính vốn xã
hội tự có của người Việt Nam đã cứu được xã hội, thể
hiện qua việc đổi mới là từ dưới lên; trong thời đổi
mới, vốn xã hội tự có đã làm cho kinh tế xã hội phát
triển. Nhưng có một nghịch lý là vốn xã hội tích cực ngày
càng suy giảm trong khi những liên kết xã hội xấu, "ma
qủy" lại phát triển mạnh. Do đó vấn đề đặt ra là vừa
phải khôi phục vốn xã hội tốt, vừa phải khắc phục những
liên kết xấu. Muốn làm được như vậy, theo ông, cần phát
triển dân chủ. Những luật cụ thể nhằm triển khai những
quyền tự do cơ bản được ghi trong Hiến pháp không thể nằm
trên Hiến pháp, giới hạn Hiến pháp mà ngược lại. Chẳng
hạn, theo ông và một số diễn giả khác, Luật về hội, Luật
báo chí nên là Luật về quyền tự do lập hội, Luật về
quyền tự do báo chí. Có như vậy mới khắc phục được tư
duy nhà nước hoá tất cả. Có như vậy xã hội dân sự mới
có thể phát triển và vốn xã hội tăng lên.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130902/doan-khac-xuyen-von-xa-hoi-cua-viet-nam-nhin-tu-thuc-te-hom-nay),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét