Nợ nước ngoài: Một năm tăng gần 4,6 tỷ USD

<center><img src="http://danluan.org/files/u1/sub02/043.jpg" width="550"
height="364" alt="043.jpg" /></center>
<center><em>Nợ nước ngoài của Chính phủ và được Chính phủ
bảo lãnh, giai đoạn 2006-2010 - Nguồn: Bộ Tài
chính.</em></center>

<em><strong>Chậm hơn thường lệ, bản tin về nợ nước ngoài
đến cuối năm 2010 của Việt Nam, theo quy định được công
bố với độ trễ nửa năm, mãi đến tháng 8/2011 mới được
công bố chính thức.</strong></em>

Điểm đáng chú ý trong bản tin số 7 vừa công bố là những
cập nhật về mặt con số đều cho thấy gánh nặng nợ nần
của Việt Nam đang tăng lên rất nhanh. Cho nên, nguyên tắc quản
lý nợ công theo quy định của Luật Quản lý nợ công 2009 về
bảo đảm an ninh tài chính quốc gia và cân đối vĩ mô nền
kinh tế, có lẽ là điều đáng bàn nhất lúc này.

<h2>Vượt 32,5 tỷ USD</h2>

Theo bản tin số 7, tổng số nợ nước ngoài của Việt Nam
(chỉ bao gồm nợ Chính phủ trung ương, địa phương và nợ do
Chính phủ bảo lãnh) tính đến cuối năm 2010 đã vượt 32,5
tỷ USD, từ con số gần 27,93 tỷ USD trong năm trước đó.

Điều đó cũng có nghĩa, trong vòng 1 năm, khối nợ nước ngoài
của Việt Nam đã gia tăng thêm gần 4,6 tỷ USD.

Trong khi đó, nếu tính cả khoản trả nợ gốc trong năm gần
1,06 tỷ USD, ước tính trong năm 2010, Việt Nam đã thông qua các
hiệp định, hợp đồng vay nợ tổng cộng xấp xỉ 5,6 tỷ USD,
tương đương khoảng 5,3% GDP cùng năm (theo ước tính của Tổng
cục Thống kê vào khoảng 104,6 tỷ USD).

Với ý nghĩa là khoản vay để bù đắp bội chi ngân sách, theo
công bố của Bộ Tài chính ngày 1/4 năm nay, là vào khoảng 5,6%
GDP, thì vay nước ngoài năm 2010 của Việt Nam có vẻ tiếp tục
vượt trội so với vay trong nước.

Con số dư nợ tăng trong mấy năm gần đây "nhảy nhót"
không theo tốc độ tịnh tiến đều (năm 2007 tăng thêm khoảng
3,6 tỷ USD; 2008 khoảng 2,6 tỷ USD; 2009 trên 6,1 tỷ USD). Có
điểm trùng hợp là ở những giai đoạn thị trường ngoại
hối xuất hiện căng thẳng, hiệp định vay vốn nước ngoài
thường được thông qua. Năm 2010, dự trữ ngoại hối cũng ghi
nhận sự sụt giảm lớn, theo một số ước tính có thể lên
đến 4 tỷ USD, còn năm 2009 trước đó thì ghi nhận mức thâm
hụt tới 8,8 tỷ USD.

Ngoài ra, khía cạnh đánh đổi giữa tăng trưởng đạt thấp
trong năm ngoái (6,78%) với những rủi ro tăng lên cùng khối nợ
nước ngoài nở rộng nhanh cũng là điểm cần xem xét.

<h2>Chi phí vay ngày càng "đắt"</h2>

Cũng theo bản tin số 7, phần lớn nợ nước ngoài của Chính
phủ có lãi suất thấp từ 0% đến dưới 3%. Cụ thể là trong
tổng số gần 27,86 tỷ USD dư nợ thì có tới gần 21,85 tỷ USD
ở mức lãi suất này, tăng khoảng 11,1% so với năm 2009. Dư nợ
các khoản vay có lãi suất thả nổi theo LIBOR 6 tháng và Euro
LIBOR 6 tháng chỉ tăng rất ít trong năm 2010, tổng cộng là trên
1,96 tỷ USD.

Tuy nhiên, tốc độ tăng của các khoản vay lãi suất cao mới
là vượt trội. Có trên 2,15 tỷ USD dư nợ có lãi suất từ 3%
đến dưới 6%, tăng tới 43% so với năm trước; lãi suất từ
6-10% có tổng dư nợ trên 1,89 tỷ USD, gấp hơn hai lần năm
2009.

Điều này cũng làm thay đổi rất nhiều nghĩa vụ nợ hàng năm
về nợ nước ngoài của Chính phủ, theo sau mỗi bản tin về
nợ nước ngoài được công bố. Với cập nhật mới nhất,
từ nay đến năm 2015, Việt Nam sẽ phải trả nợ nước ngoài
cả gốc và lãi mỗi năm xấp xỉ 1,5 tỷ USD.

Mức đỉnh mới về trả nợ sẽ rơi vào năm 2020, với nợ
phải trả lên tới gần 2,4 tỷ USD, trong khi chỉ một năm
trước, Bộ Tài chính mới đưa mức dự kiến cho năm này
khoảng 1,15 tỷ USD.

Riêng trong năm 2010, đã có khoảng 1,67 tỷ USD ra khỏi Việt Nam
qua các khoản trả nợ gốc, lãi và phí, tăng gần 30% so với
con số 1,29 tỷ USD của năm trước đó. So sánh dữ liệu về
nghĩa vụ nợ năm 2010 với tổng thu ngân sách cùng năm của Bộ
Tài chính, tỷ lệ này là khoảng 5,5%.

Liên quan đến dòng chảy này, năm 2010 cũng ghi nhận thêm khoản
nợ mới từ phát hành trái phiếu Chính phủ quốc tế với
lợi suất trên 7% mà thời hạn kéo dài trong 10 năm, rơi đúng
vào đỉnh năm 2020 như nói ở trên.

Cũng sau khoản trái phiếu 1 tỷ USD được phát hành thành công,
chủ nợ của Việt Nam cũng có thêm nhiều đối tượng là cá
nhân nắm giữ trái phiếu. Tuy nhiên, cơ cấu đồng tiền vẫn
khá tập trung, chủ yếu là đồng Yên Nhật, SDR (quyền rút
vốn đặc biệt, đơn vị tiền tệ quy ước của của một số
nước thành viên Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF), USD và Euro.

Cụ thể, đồng Yên chiếm tỷ trọng lớn nhất 38,8%; tiếp
đến là SDR gần 27,1%; và USD, Euro lần lượt là 22,2% và 9,2%.
Điều này cho thấy tỷ giá những khi thay đổi có thể thổi
phồng khối nợ rất nhanh, và tỷ trọng nghĩa vụ nợ so với
thu ngân sách cũng có thể thay đổi theo.

<h2>Có đi kèm rủi ro?</h2>

Theo bản tin số 7, đa số các chỉ tiêu giám sát nợ nước
ngoài xấu đi so với năm 2009. Tổng dư nợ nước ngoài so với
GDP đã ở mức 42,2%, nếu so với tiêu chí của Ngân hàng Thế
giới (WB) thì thuộc diện vừa phải.

Tuy nhiên, tỷ lệ dư nợ nước ngoài so với GDP đang tăng rất
nhanh cũng hàm ý rằng những giới hạn an toàn đang bị đe
dọa. Chỉ trong vòng 3 năm gần đây, từ 2008 đến cuối 2010,
chỉ tiêu này của Việt Nam đã "nở" thêm khoảng 10 điểm
phần trăm.

Nhưng đáng chú ý nhất là tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối so
với tổng dư nợ ngắn hạn đang xuống thấp. Nếu như năm
2007, chỉ tiêu này đang là gấp gần 102 lần, cuối năm 2010 ghi
nhận chỉ còn chưa đầy 2 lần.

Có hai vấn đề đặt ra với sự thay đổi này, một là dự
trữ ngoại hối đang mỏng hơn, và hai là nợ ngắn hạn đang
tăng lên nhanh chóng.

Theo nhiều nguồn số liệu thì năm 2009, thâm hụt cán cân thanh
toán tổng thể của Việt Nam ở mức 8,8 tỷ USD, năm 2010 vào
khoảng 4 tỷ USD (có nguồn tin là 2,6 tỷ USD). Diễn biến này
đã bào mòn dự trữ ngoại hối.

Trong khi đó, nhiều chuyên gia kinh tế đã từng cảnh báo rằng
nợ nước ngoài của Việt Nam có lãi suất ngày càng cao và kỳ
hạn vay ngày càng ngắn. Quan điểm này một lần nữa lại
được khẳng định tại bản tin số 7, khi nghĩa vụ nợ dự
kiến của Việt Nam thay đổi liên tục trong mấy năm gần đây
mà chủ yếu là trong tương lai gần.

Cùng lúc với dư nợ nước ngoài tăng nhanh và dự trữ ngoại
hối vơi đi, tỷ giá tiếp nối vào rủi ro nợ của Việt Nam.
Theo dữ liệu từ bản tin số 7, tỷ giá cuối kỳ của VND so
USD đã giảm khoảng 10,26% trong so sánh năm 2010 với 2009; tương
tự, so với Euro giảm 11,14%; so với SDR giảm khoảng 5,53%; và so
với đồng Yên tăng 6,43%.

Trong bối cảnh lạm phát liên tục tăng cao, dự địa chính
sách tiền tệ để ổn định ngoại hối sẽ khó khăn hơn khi
phải đánh đổi giữa nghĩa vụ nợ tăng lên, hay bào mỏng dự
trữ để can thiệp. Bởi, cùng với trách nhiệm trả nợ thì
Chính phủ còn phải cân nhắc đến khả năng tăng thu ngân
sách, khi mà tỷ trọng thu so với GDP đã cao và tình hình kinh
tế trong ngắn hạn chưa cho thấy triển vọng phục hồi mạnh
mẽ.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9620), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét