quyền lực của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng, nhìn hai
trang báo đăng bài "nhậm chức" dày đặc chữ, mới thấy,
ông làm Thủ tướng tới nhiệm kỳ thứ hai mà cũng không kiếm
được người viết diễn văn biết cách phân biệt sự khác
nhau trong ngôn ngữ của một chuyên viên cấp vụ với ngôn ngữ
của một chính trị gia ở hàng nguyên thủ.
Định xếp trang báo lại coi như nó chẳng liên can gì tới
mình, nhưng anh bạn café cùng bàn thở dài, "sợ đến cuối
nhiệm kỳ, tô phở tăng giá lên mấy trăm"! Nhớ cái Tết
2006, mấy tháng trước khi ông nhậm chức, tô phở 15.000 đồng
đã bị báo chí la làng. Bây giờ tô phở cùng loại đã là
50.000 đồng. Khi ông lên, ký thịt gà loại thả vườn cũng
chỉ mới 28.000 đồng, ký heo nạc mới 38.000 đồng… Như tôi
đã từng phân tích, do những chính sách về tài chính, ngân
hàng của ông mà khủng khoảng kinh tế của Việt Nam xảy ra
từ tháng 3-2008 trong khi, khủng hoảng kinh tế toàn cầu nếu có
ảnh hưởng cũng chỉ có thể lan tới Việt Nam sớm nhất là
tháng 12-2008.
Đầu năm 1998, sau cuộc phỏng vấn một nhà lãnh đạo, biết
ông đang vui, tôi hỏi: "Anh vừa đi Yên Tử về có thấy
những cục đá xung quanh chùa Đồng đầy những tên tuổi của
Trần Văn Chắt, Nguyễn Thị Tèo…?". Thấy ông chưa thực sự
hiểu câu hỏi của mình, tôi tiếp: "Những kẻ, cho dù thuộc
hàng chăn trâu cắt cỏ như Chắt, như Tèo, khi đã leo lên tới
đỉnh thì cũng cố đánh dấu cái nơi mình đã đặt chân lên.
Cái mà một bậc nguyên thủ quốc gia mưu cầu phải là lưu danh
chứ không phải là tiền bạc". Tất nhiên, để được lịch
sử ghi nhận công lao thì khó hơn chia phần trăm và nhận bao
thơ.
Trong cái chính thể do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
Nguyễn Tấn Dũng là vị Thủ tướng có nhiều quyền lực
nhất. Thời ông Phạm Văn Đồng, danh sách nội các thường
chỉ được bên ông Lê Đức Thọ chuyển sang không lâu trước
khi ông đọc trước Quốc hội. Ông Đồng là người trọng
chữ nghĩa, nên ông thường yêu cầu bên ông Thọ cho ông thời
gian để sửa những câu trong tờ trình bị viết sai chính tả,
ngữ pháp. Ông Đồng thừa nhận ông Võ Văn Kiệt là vị Thủ
tướng làm được nhiều việc nhất.
Thời ông Kiệt, tuy không có "tam quyền phân lập" nhưng lại
có "tam nhân phân quyền". Ông Kiệt cũng chịu chế ước
rất nhiều bởi những người đồng nhiệm như Lê Đức Anh,
Đỗ Mười. Khi ông Kiệt đang đẩy nhanh tiến độ công trình
đường điện 500 kv, tư lệnh công trình của ông, Bộ trưởng
Năng lượng Vũ Ngọc Hải, bị xử tù 3 năm. Năm 1995, ông Kiệt
viết thư yêu cầu cải cách chính trị, liền sau đó, ông
Nguyễn Trung, trợ lý của ông, người chấp bút "thư gửi Bộ
Chính trị" đã bị áp lực tới mức phải ra đi, còn ông Hà
Sỹ Phu, người tàng trữ một bản sao bức thư, thì bị bắt.
Trong tình hình ấy, Chính phủ ông Kiệt vẫn hoàn thành một
khối lượng lớn công việc, xây dựng được những bộ luật
làm nền tảng pháp lý cho nền kinh tế thị trường vận hành.
Và, đặc biệt, dù bị cản trở rất nhiều, vẫn đưa Việt
Nam gia nhập ASEAN và EU, thiết lập quan hệ sâu với những
quốc gia một thời bị coi là kẻ thù như Đại Hàn, như Mỹ…
Người kế vị ông, ông Phan Văn Khải nói: "Về bản lĩnh
chính trị, tôi không thể nào so sánh với đồng chí Võ Văn
Kiệt".
Khi ông Phan Văn Khải làm Thủ tướng, người ta sốt ruột bởi
nhịp độ cải cách chậm đi so với người tiền nhiệm. Nhưng,
như ông Kiệt nhận xét: "Thủ tướng Phan Văn Khải là một
nhà kinh tế hàng đầu của đất nước". Ông Khải không có
những tuyên bố làm nức lòng dân bởi ông không phải là một
nhà chính trị. Nhưng nhờ là một nhà kỹ trị, ngay từ khi làm
phó cho ông Kiệt, ông Khải đã tham gia hình thành chính sách
như một kiến trúc sư.
Gần như toàn bộ các thiết chế pháp lý mà nền kinh tế đang
vận hành đều được hình thành dưới thời ông Kiệt và
được tiếp tục hoàn thiện hơn dưới thời ông Khải. Đặc
biệt, chính phủ ông Khải đã có công rất lớn khi ban hành
Luật Doanh nghiệp đồng thời bãi bỏ hàng trăm loại giấy
phép mẹ, giấy phép con. Chính quyền của Thủ tướng Phan Văn
Khải cũng hoàn thành những vòng đàm phán gay go nhất trong
tiến trình Việt Nam gia nhập WTO, để lại cho Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng một nền kinh tế đang tăng trưởng trên 8%,
lạm phát chỉ hơn 6% và một Việt Nam có vị thế khá cao trên
trường quốc tế.
Thật khó để gạch ra vài đầu dòng để nói về đóng góp
của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong nhiệm kỳ đầu nhất
là về mặt chính sách. Nhưng, khác với những người tiền
nhiệm của mình, Nguyễn Tấn Dũng đang có cả một nhiệm kỳ
trước mắt. Đây có thể là cơ hội cuối cùng và cũng có
thể là cơ hội bắt đầu để ông tiếp tục nắm quyền với
vai trò Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch Nước.
Chính trị là "nghệ thuật của những điều có thể". Có
rất nhiều điều chúng ta muốn làm cho đất nước nhưng chúng
ta không có quyền. Có rất nhiều điều có thể ông Dũng cũng
muốn làm, nhưng thế và lực cũng không cho phép. Với năng lực
của cá nhân Thủ tướng và đội ngũ cố vấn hiện thời,
Chính phủ chưa nên ban hành chính sách gì mới. Việc đầu
tiên, trong phạm vi quyền Hiến định của mình, <em><strong>Chính
phủ nên sắp xếp lại các cơ quan chính phủ theo hướng tách
bạch chức năng hành pháp chính trị và hành chính công
vụ.</strong></em>
Năm 2006, Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, trong một trạng thái
tinh thần lãng mạn, đã lập ra một nhóm nghiên cứu giúp ông
Nguyễn Thiện Nhân cải cách giáo dục. Khi đó, tôi đề nghị,
ông Nhân thay vì đưa ra chính sách, trước hết phải sắp xếp
lại bộ máy của Bộ Giáo dục theo hướng: lập các vụ, chỉ
tham mưu chính sách cho bộ trưởng; lập các cục, chỉ thi hành
hành chính công vụ. Không thể đòi hỏi các vụ của ông giảm
bớt các thủ tục và thôi can thiệp vào công việc của các
nhà trường khi chính họ là người hưởng lợi từ việc duy
trì những thủ tục không cần thiết ấy. Nhưng, thay vì thao
tác như một bộ trưởng ông Nhân đã làm phong trào "hai
không" như một cán bộ đoàn.
Khi đã tách bạch hai chức năng này thì chỉ rất ít bộ còn
các cục vì chức năng hành chính công vụ sẽ được giao cho
địa phương. Bộ trưởng chỉ làm vai trò chủ yếu là hành
pháp chính trị. Mỗi bộ có thể sẽ có một ông thứ trưởng
chuyên nghiệp, một nhà kỹ trị đúng nghĩa, trông coi phần
hành chánh công vụ thuộc ngành mình và chỉ ra tay khi có một
cấp nào đó hiểu sai chính sách và chỉ hướng dẫn lại để
các địa phương hiểu đúng về thủ tục và chính sách.
Tách bạch như vậy, chính phủ chỉ còn quan tâm tới việc hình
thành những hành lang pháp lý sao cho người dân dễ thở, kinh
tế phát triển: sáp nhập Thủ đô thì không nghĩ đến các dự
án đất đai của đàn em; bãi bỏ thi cử thì không sợ mất
khoản phần trăm từ việc in ấn đề thi… Những người chạy
chức bộ trưởng sẽ không dám bỏ tiền triệu ra vì mai mốt
không thể bán giấy phép mà thu hồi vốn. Và, Hà Nội đất
chật sẽ không còn tấp nập xe cộ vào những khi lễ, tết vì
chẳng ai còn có nhu cầu biếu quà.
Việc thứ hai, nhân sửa đổi Hiến pháp, nên <em><strong>áp
dụng chế độ đa sở hữu đối với đất đai</strong></em>.
Đây là một vấn đề mà khi soạn thảo Hiến pháp 1992, Chính
phủ Võ Văn Kiệt đã muốn làm nhưng điều kiện chính trị
chưa chín muồi như bây giờ. Chế độ đất đai thuộc sở
hữu toàn dân chỉ mới được đưa vào Hiến pháp 1980 trong
một hoàn cảnh mà ngay chính những người soạn thảo cũng
không hiểu hết hệ lụy của nó. Khi trình dự thảo hiến pháp
1980, Chủ tịch Ủy Ban sửa đổi Hiến pháp Trường Chinh đề
nghị áp dụng 5 hình thức sở hữu đối với đất đai. Nhưng,
khi họp Trung ương, Tổng Bí thư Lê Duẩn có một bài phát
biểu riêng về việc lấy tư tưởng "làm chủ tập thể"
làm trung tâm. Sau khi phân tích "đạo lý của việc áp dụng
phương thức sở hữu toàn dân đối với đất đai", ông Lê
Duẩn cho rằng tinh thần của Hiến pháp 1980 phải dựa trên ba
yếu tố: làm chủ tập thể, chuyên chính vô sản và sở hữu
toàn dân. Cả chuyên chính vô sản và làm chủ tập thể đã
gãy và cái kiềng ba chân ấy chỉ còn cái chân sở hữu toàn
dân cà nhắc.
Không chỉ lỗi thời về mặt lý luận, việc không tách bạch
các hình thức sở hữu đất công, đất tư đã dẫn đến sự
lúng túng trong việc ban hành các chính sách liên quan đến thuế
và thu tiền sử dụng đất. Việc các chính quyền địa phương
bị thao túng bởi các doanh nghiệp, tiếp tay cho họ cướp
đất, đang là mầm mống của những vụ gây bất ổn về chính
trị. Có lẽ chính quyền cũng nên biết xấu hổ khi người dân
ở các vùng đất chống Mỹ như Bến Tre, Long An… giờ đây khi
bị mất đất thay vì cậy đến chính quyền mà họ đã đổ
máu để lập nên đã phải khăn gói đến cầu xin trợ giúp
trước các cơ quan ngoại giao của Mỹ.
Có một việc mà cả Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải
đều chưa làm được là <em><strong>cải cách khu vực kinh tế
nhà nước, tiến tới dẹp bỏ kinh tế quốc doanh</strong></em>.
Nhu cầu để quốc doanh "chết" xuất hiện từ cuối năm 1989
khi Chính phủ Đỗ Mười chống lạm phát thành công bằng cách
áp dụng lãi suất tín dụng theo nguyên tắc kinh tế thị
trường và buộc các doanh nghiệp phải tự hạch toán kinh doanh.
Chính sách này đã làm cho nền kinh tế mạnh lên nhưng đồng
thời đã đặt các doanh nghiệp quốc doanh trước nguy cơ phá
sản. Ông Mười bị Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phê phán đã
định quay lại chính sách bao cấp nhưng, trước sự can gián
của những nhà cố vấn dũng cảm như Đào Xuân Sâm, Trần
Đức Nguyên, Lê Đức Thúy, Nguyễn Văn Nam… ông đã chỉ lùi
một bước: ném cái phao tín dụng để cứu quốc doanh. Kinh tế
quốc doanh vì thế đã tiếp tục được bú bầu sữa từ độc
quyền khai thác tài nguyên, độc quyền các thương quyền, đến
được ưu đãi hơn về tín dụng.
<em><strong>Việt Nam, xét về bản chất, không còn là một quốc
gia cộng sản mà chỉ là quốc gia độc đảng</strong></em>. Trong
thâm sâu, những người đồng nhiệm của ông Dũng không còn coi
ý thức hệ là kim chỉ nam cho dù độc đảng vẫn là lẽ sinh
tồn của họ. Nếu ông Dũng đòi xét lại định hướng xã
hội chủ nghĩa, ông cũng sẽ bị tiêu diệt. Các đối thủ
của ông sẽ chống ông không vì niềm tin mà vì đấy là công
cụ tấn công mà không ai dám cãi. Nhưng, với tư cách Thủ
tướng, ông Dũng có thể thuyết phục các đồng chí của mình:
<em><strong>Giữ định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng thay vì
lấy quốc doanh là chủ đạo thì phải chọn hiệu quả của
nền kinh tế làm chủ đạo</strong></em>.
Năm 2005, năm trước khi ông Nguyễn Tấn Dũng cầm quyền, khu
vực quốc doanh tuy nắm 54,9% tổng số vốn sản xuất kinh doanh,
51% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn
nhưng chỉ tạo ra 38,8% doanh thu; Trong khi khu vực tư nhân chỉ
chiếm 25% vốn sản xuất kinh doanh, 20,6% giá trị tài sản cố
định và đầu tư tài chánh dài hạn nhưng đã tạo ra mức
doanh thu chiếm 39,5%. Thế nhưng, năm 2006, thành phần kinh doanh
kém hiệu quả này vẫn được ưu tiên, doanh nghiệp nhà nước
vẫn nắm giữ 75% tài sản cố định quốc gia, 20% vốn đầu
tư xã hội, gần 50% vốn đầu tư của nhà nước và 60% tín
dụng ngân hàng trong nước và 70% vốn vay từ nước ngoài. Ngay
từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu chấp nhận kinh tế
nhiều thành phần, chưa bao giờ khu vực kinh tế quốc doanh
được coi là một khu vực kinh doanh hiệu quả. Không thể có
cái gọi là chủ nghĩa xã hội như đức tin của một số
người nếu những anh nắm nhiều nhất tài nguyên và vốn
liếng quốc gia lại làm ra tiền ít nhất.
Tất nhiên, nếu ông Dũng muốn, việc thực hiện những điều
tối thiểu này cũng không phải dễ dàng. Một nội các mà một
số thành viên của nó đã phải chi phí rất nhiều để ngồi
vào không thể sẵn sàng chia tay với quyền cấp từng tờ giấy
phép. Nhưng, cũng như "Trần Văn Chắt, Nguyễn Thị Tèo", đã
lên tới đó thì đừng nghĩ tới mục tiêu kiếm chác. Thủ
tướng cũng cần có sự ủng hộ của các thành viên trong gia
đình. Đối với một dòng họ có một người ngồi trên ghế
Thủ tướng tới hai nhiệm kỳ thì điều đáng tự hào là
những gì người đó đã làm chứ không phải là lượng đất
đai, cổ phiếu mà các thành viên trong gia đình nắm được.
Viết đến đây thì nhận được tin tòa y án đối với Cù Huy
Hà Vũ. Như vậy, không chỉ những người giúp việc viết diễn
văn, các cố vấn chiến lược của Thủ tướng cũng vẫn mang
những tư duy cũ. Tiểu khí vẫn bị đánh thức. Thay vì, sau
những nỗ lực sinh tử để thâu tóm quyền hành, bậc anh hùng
phải bắt đầu nhiệm kỳ bằng cách mở lòng đại xá. Hy
vọng, sau khi Quốc hội phê chuẩn nội các, Thủ tướng sẽ có
những người giúp việc hiểu được vai trò lịch sử của ông
hơn.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9510), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét