Giáp Văn Dương - Thoát Trung Luận

Thời gian gần đây, khi thảo luận về những nguy cơ đối với
nước ta trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, về lựa chọn
mô hình phát triển cho Việt Nam, về tình hình tranh chấp Biển
Đông …, một số người thuộc giới trí thức trong và ngoài
nước, dù chưa chính thức, cũng đã ít nhiều đi đến một
nhận định chung: <strong><em>Cần thoát khỏi sự ảnh hưởng
của Trung Quốc!</em></strong>

Tuy nhiên, nhận định này chưa bao giờ được viết ra một
cách mạch lạc, có hệ thống, và dường như chỉ mới dừng
ở mức trực giác. Vì thế, một bài luận nhằm phân tích rõ
ràng về nhận định quan trọng này là cần thiết.

<center>*
* *</center>

Tư tưởng thoát khỏi Trung Quốc thực ra không hề mới. Lịch
sử nước ta có thể được diễn giải tương đối đầy đủ
dưới góc nhìn thoát Trung. Phần lớn các cuộc khởi nghĩa, các
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch
sử của dân tộc ta đều mang trong mình một thông điệp nóng
hổi: <strong><em>Thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Trung
Quốc!</em></strong>

Sự kiện dân tộc Việt Nam không bị đồng hóa và giành lại
được độc lập sau gần một nghìn năm Bắc thuộc là một
sự kiện hy hữu trên thế giới. Đó là kết quả của một
quá trình thoát Trung bền bỉ kiên trì. Sau khi giành được
độc lập, quá trình này được tiếp nối không chỉ ở các
cuộc kháng chiến vệ quốc, mà còn ở các nỗ lực giữ gìn
ngôn ngữ, văn hóa ở các triều đại sau này.

Khi còn nhỏ, tôi đã từng ngạc nhiên khi đọc bài hịch của
vua Quang Trung khích lệ tướng sĩ trước khi ra trận:
<em>"Đánh cho để dài tóc. Đánh cho để răng đen…"</em>.
Tôi đã tự hỏi, vì sao nhà Vua không chọn những biểu tượng
lớn lao hơn mà lại chọn những điều nhỏ nhặt như vậy để
động viên quân sĩ? Nhưng càng ngày tôi càng thấm thía: Đó là
lòng kiên định của tổ tiên nhằm thoát khỏi vòng kiềm tỏa
của nền văn hóa Trung Hoa, ngay từ những việc nhỏ nhất.

Ý thức vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa này là thường trực.
Tuy nhiều lúc bị chao đảo bởi sự tấn công mạnh mẽ đến
từ phương Bắc, nhưng mỗi khi cần đến thì ý thức vùng
thoát này lại bùng lên dữ dội. Nỗ lực xây dựng chữ viết
riêng cho dân tộc như chữ Nôm của cha ông, và gần đây nhất
là việc toàn dân đồng loạt chuyển sang sử dụng chữ quốc
ngữ, là minh chứng rõ ràng cho sự vùng thoát khỏi vòng kiềm
tỏa này.

Riêng với việc chuyển sang sử dụng chữ quốc ngữ, có thể
nói, đây là một cuộc thoát Trung ngoạn mục. Thành quả của
nó thật đáng nể: Số người biết đọc biết viết tăng lên
gấp bội, số lượng văn bản sử dụng chữ quốc ngữ chỉ
trong một thời gian ngắn đã tăng lên gấp nhiều lần so với
số văn bản chữ Nho của toàn bộ lịch sử nước ta trước
đó. Cũng chính nhờ chữ quốc ngữ mà về mặt hình thức,
ngôn ngữ của chúng ta đã thoát khỏi vòng kiềm tỏa của
tiếng Hán. Tỷ như đến giờ phút này, nước Việt ta vẫn
dùng chữ Nho để viết và giao tiếp với thế giới, thì đối
với họ, ta có khác nào một quận huyện của Trung Quốc? Ta
sẽ gặp khó trong việc thuyết phục họ rằng, ta là một quốc
gia độc lập, có ngôn ngữ và văn hóa riêng.

Tên gọi của nước ta cũng không phải là một sự ngẫu nhiên.
Đằng sau mỗi cái tên đều là một lời nhắn nhủ hoặc một
mong đợi sâu thẳm. Ông cha ta đã chọn hai chữ Việt Nam để
đặt làm tên nước. Việt Nam có nghĩa là tiến về phương Nam.
Điều này có nghĩa là gì? Chỉ có thể cắt nghĩa: <em>Tiến
về phương Nam để thoát khỏi vòng kiềm tỏa của người
phương Bắc</em>. Đó là di lệnh của tổ tiên cho các thế hệ
con cháu người Việt Nam mình.

Như thế, tổ tiên chúng ta bằng kinh nghiệm và trực giác,
thông qua cách chọn tên nước, đã di lệnh cho con cháu: Muốn
tồn tại thì phải tiến về phương Nam, thoát khỏi vòng kiềm
tỏa của người phương Bắc. Lịch sử mở nước của chúng ta
trong thời cận đại có thể được hiểu là gì khác hơn việc
thực hiện di lệnh của tổ tiên mình?

Nhưng điều không may cho chúng ta là nền văn hóa Trung Hoa có
sức ảnh hưởng quá lớn. Nó như một đại nam châm hút các
dân tộc xung quanh về phía mình. Nên dù luôn có ý thức vùng
thoát khỏi ảnh hưởng của người Trung Quốc, dù đã được
cha ông di lệnh kỹ càng, thì lịch sử của Việt Nam luôn là
sự giằng xé giữa hai luồng vận động: <em>Vùng thoát khỏi
Trung Quốc và chầu về Trung Quốc. </em>

Sở dĩ có sự giằng xé này là vì, trong suốt thời phong kiến,
do sự hạn chế của phương tiện giao thông, thế giới bên
ngoài đối với nước ta dường như chỉ có một mình Trung
Quốc. Khi người của ta chưa đủ đông, kinh tế của ta chưa
đủ mạnh, văn hóa của ta chưa đủ trưởng thành, thì việc
chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cũng là điều dễ
hiểu.

Nhưng ngày nay, thời thế đã đổi thay. Một em bé sinh ra ở
một vùng quê hẻo lánh cũng có đủ thông tin để biết rằng,
thế giới không chỉ có một mình Trung Quốc. Thế giới còn có
nhiều nền văn hóa khác, mang nhiều giá trị tiến bộ hơn,
đáng học hỏi hơn nền văn hóa Trung Hoa, đến mức bản thân
người Trung Quốc cũng phải mau mau thay đổi để học hỏi
những điều tiến bộ này. Trên thực tế, những vùng nào của
Trung Quốc gỡ bỏ được một phần văn hóa Trung Hoa truyền
thống để du nhập các giá trị văn hóa phương Tây như các
Hồng Kông, Đài Loan… thì đều phát triển vượt bậc so với
những phần còn lại của Trung Quốc lục địa.

Nhiều nước châu Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
cũng đã tìm cách thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa
thành công và trở thành những con rồng con hổ châu Á mới.
Họ không chỉ giữ được độc lập, mà còn tiến nhanh thành
một nước phát triển, được thế giới kính nể trọng vọng.

Hãy lấy trường hợp Nhật Bản làm ví dụ: Bằng cách thực
hiện cuộc <a href="http://danluan.org/node/373">thoát Á nhập Âu</a>
từ nửa sau của thế kỷ 19, Nhật Bản đã tránh được ách
nô lệ thực dân và phát triển thành cường quốc chỉ sau một
thời gian ngắn. Thoát Á với Nhật Bản thời gian đó là gì,
nếu không phải là thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung
Hoa? Vì vậy có thể nói, chìa khóa để Nhật Bản phát triển
thành công là thoát khỏi vòng ảnh hưởng của Trung Quốc.

Vậy thì tại sao chúng ta lại không làm như họ? Tại sao ta
lại không vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Trung Quốc để
phát triển, khi gương thành công đã bày ra trước mắt cả
trăm năm, khi di lệnh của tổ tiên vẫn còn bên tai văng vẳng?

Câu trả lời chỉ có thể là: Tư tưởng chầu về Trung Quốc
đã trở thành một quán tính tâm lý, một vô thức xã hội hay
một phản xạ có điều kiện. Tư tưởng này đã ăn sâu vào
đời sống ở nhiều dạng nhiều mặt nên khó lòng dứt bỏ
được. Với người dân thì đó là sự tiếp nhận văn hóa
Trung Hoa một cách vô tư hào hứng qua phim ảnh, sách báo…
đến mức trẻ em thuộc sử Tàu hơn sử Ta, quen với đồ chơi
Tàu hơn đồ chơi Ta. Thương nhân ta thì chỉ chăm chắm nhập
hàng Trung Quốc giá rẻ về bán cho dân, dù biết là hàng kém
và có nhiều độc hại. Ở mức quốc gia thì đó là sự ràng
buộc đến mức vô lý về ý thức hệ vào người Trung Quốc,
dẫn đến thua thiệt và bất bình đẳng trong bang giao quốc
tế.

Những việc này đều diễn ra một cách trơn tru tự động,
đến mức không mấy ai tự hỏi: Vì sao mọi chuyện lại quá
dễ dàng như vậy? Câu trả lời hẳn nhiên là tư tưởng chầu
về Trung Quốc đã bén rễ sâu trong tiềm thức của xã hội ta
như một chất gây nghiện, tuy độc hại nhưng rất khó từ
bỏ. Vì nếu từ bỏ thì sẽ gây ra đau đớn và chống chếnh
phần nào. Nhưng từ xưa đến nay, có chất gây nghiện nào có
lợi?

Trong hoàn cảnh đó, chỉ còn một cách duy nhất là quán chiếu
để nhìn sâu hiểu kỹ tác hại của việc chầu về Trung
Quốc, để thấy được mối nguy lâu dài của nó đối với
đất nước thì may ra mới có thể dứt bỏ được.

<strong>Trước hết là về văn hóa</strong>: Có so sánh ra bên
ngoài mới thấy, bản sắc văn hóa của ta quá đỗi mong manh.
Lý do chính là văn hóa của ta đã bị áp đảo bởi văn hóa
Trung Hoa trong suốt nhiều thế kỷ, nay càng bị áp đảo mạnh
hơn bởi tiến bộ của phương tiện truyền thông. Nhiều
người khi còn sống thì một chữ tượng hình bẻ đôi không
biết, nhưng khi chết thì lại được cúng tế bằng các bài
văn khấn chữ Nho. Chuông, khánh trong chùa dù mới đúc, cũng
hết thảy được khắc bằng thứ chữ của người Hán dù
chẳng ai đọc được. Truyền thanh truyền hình, tuy sống bằng
tiền thuế của dân Việt Nam ta, lại ngày đêm truyền bá văn
hóa Trung Hoa đến tận hang cùng ngõ hẻm. Thời sự hơn nữa
thì phim về tổ tông được quay bên Trung Quốc, Vạn Lý
Trường Thành được mang về Đà Lạt... Ôi thôi, biết bao
nhiêu mà kể!

Xin hỏi: Một dân tộc được định hình chính bởi cái gì? Có
phải là bởi đất đai, tài nguyên của dân tộc đó hay không?
Chắc hẳn là không. Người ta phân biệt dân tộc này với dân
tộc khác bởi chính văn hóa của nó. Nay văn hóa của ta đang
bị áp đảo mà dân ta lại vui vẻ cổ vũ chấp thuận, thì
khác nào tay ta đã yếu, mắt ta đã chậm mà ta lại tự mua dây
về bịt mắt trói tay mình?

Chính do sự áp đảo của văn hóa Trung Hoa nên những thói hư
tật xấu của họ đã tìm được đất sống và tác oai tác
quái ở ta. Nạn chuộng bằng cấp hư danh, tệ mua quan bán
chức, thói tầm chương trích cú, ếch ngồi đáy giếng, ngông
nghênh coi thường chân lý, bệnh phụ mẫu quan phương, chính
trị thống soái …– những đặc trưng của văn hóa hủ nho
Trung Quốc không hề giảm đi trên đất Việt Nam ta mà ngược
lại, như rồng gặp nước, múa may phát triển tràn lan, biến
hóa gây hại không biết bao nhiêu mà kể. Vì sao vậy? Vì không
sáng tạo ra chỉ học đòi bắt chước, nên nhiều người mang
lòng kính sợ, nhất nhất tuân theo không dám đổi thay, nên
chỉ nhăm nhắm chầu về, nghiêm cẩn như học trò đối với
ông thầy.

Nay những thói hư tật xấu này đang tác oai tác quái làm suy
đồi văn hóa và đạo đức của ta quá thể. Bệnh hình thức
hư danh, tật khoe khoang thành tích, thói hành dân, nịnh trên
lừa dưới, tệ chạy chức chạy quyền… đã thành phổ biến
, nên không còn cách nào khác là phải dứt bỏ để học những
giá trị tiến bộ của phương Tây như dân chủ, tự do, bình
đẳng, bác ái, thực học thực nghiệp… thì mới có thể
tiến kịp người.

Ta phải tự gỡ bỏ tấm khăn đang bịt mắt ta ra, phải vứt
bỏ sợi dây đang trói buộc mình thì bàn tay khối óc mới
được giải phóng, hoa thơm trái ngọt của sự sáng tạo mới
được thành tựu. Còn như chỉ mê muội sùng kính những thứ
người ta đã phải bỏ đi, thì mãi lếch thếch lôi thôi cũng
là điều tất yếu!

<strong>Thứ hai là về kinh tế</strong>: Việt Nam ta đang bị áp
đảo trong thương mại đối với người Trung Quốc. Nhập siêu
từ họ lên đến 90% so với tổng nhập siêu của cả nước ta.
Trong khi đó, xuất khẩu từ ta sang họ chỉ chiếm một phần
rất nhỏ, lại chủ yếu là nguyên liệu thô và hàng nông sản,
là những thứ mà giá trị chẳng được bao nhiêu. Vậy có thể
nói, về kinh tế, chúng ta đang phụ thuộc vào họ một cách
nặng nề. Nền kinh tế của ta đang ở mức chông chênh, có
thể sụp đổ khi họ chủ tâm đóng cửa.

Nhưng điều đáng lo hơn cả là những người có thẩm quyền
lại không thấy sự bất thường này. Những dự án lớn hầu
hết đều rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc. Tỷ như, 90% các dự
án tổng thầu gần đây đã rơi vào tay họ. Chất lượng của
những công trình này rất kém, vì một lẽ giản đơn: Trình
độ về công nghệ của họ còn thấp, việc tôn trọng môi
trường và văn hóa bản địa họ chẳng quan tâm. Hàng hóa
xuất phát từ Trung Quốc luôn bị thế giới cảnh báo là độc
hại và kém chất lượng. Chính họ đã gây ra nhiều vấn nạn
về văn hóa và môi trường trong nước họ. Vậy thử hỏi,
vẫn những con người đó sang nước ta thì làm sao có thể làm
tốt cho được?

Đáng tiếc thay, tư duy chộp giật, <em>"sống chết mặc bay
tiền thày bỏ túi" </em>của nhiều người có trách nhiệm đã
dung túng tình trạng này, gây hại lâu dài cho nền kinh tế.
Việc này ta phải trách ta trước hết, vì nếu ta không tiếp
tay thì làm sao họ có thể tác oai tác quái. Tiếp tay cho họ
hại mình, thời buổi cạnh tranh, hỏi có khác nào mua dây để
tự trói chân mình. Mà đã mua dây để tự trói chân mình thì
làm sao có thể đi nhanh đi xa cho được?

Chính vì thế, bên cạnh việc vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa
về văn hóa, chúng ta cần tìm cách thoát khỏi vòng kiềm tỏa
về kinh tế. Nhà nước cần có chính sách giảm thiểu nhập
siêu từ Trung Quốc, khuyến khích người trong nước sản xuất
kinh doanh. Người Việt phải xây dựng được một nền kinh tế
độc lập so với người Trung Quốc, phải mở được những
lối đi riêng, tạo dựng được những mô hình phát triển khác
hẳn so với họ. Phải phấn đấu trở thành hội điểm đầu
tư và thương mại toàn cầu. Việc này nói thì dễ mà làm thì
rất khó. Nhưng không vì thế mà không gắng sức, vì tương lai
dân tộc phụ thuộc phần nhiều vào chính chỗ này.

<strong>Thứ ba là về chính trị</strong>: Nước ta đang có một
sự ràng buộc kỳ quặc về ý thức hệ đối với người
phương Bắc. Họ làm gì thì sớm muộn ta cũng làm theo như bị
thôi miên. Rất nhiều khổ đau trong lịch sử của ta đã có
nguồn gốc từ việc làm theo như họ.

Dân ta khác, phong hóa của ta khác, đất đai vị thế của ta
khác, vậy hà cớ gì ta phải dập khuôn theo? Đành rằng,
trước đây ta chỉ biết đến Trung Hoa nên triều chính phải
rập khuôn bắt chước, tuy đáng trách những có thể cảm
thông. Nhưng nay thế thời đã đổi, thế giới đã mở rộng
muôn phương, mà sao ta vẫn nhăm nhắm hướng về phương Bắc?
Bao phen cửa nát nhà tan, bị đè đầu cưỡi cổ, mà sao vẫn
chưa hết tỉnh hết mê? Lẽ nào, luồng tư tưởng chầu về
Trung Quốc, tưởng chừng sẽ nhạt đi khi thế giới được mở
rộng ra, lại một lần nữa giở trò mánh khóe kéo chìm ta
xuống đáy?

Vì sao vậy? Vì đâu vậy? Vì sự u mê đã đến mức thâm căn
cố đế, hay vì đặc quyền đặc lợi của một nhóm người?
Di lệnh của tổ tiên và những bài học lịch sử vì sao không
còn tác dụng? Dù câu trả lời là thế nào đi chăng nữa thì
trên thực tế, sự ràng buộc kỳ quặc về ý thức hệ này
đã gây ra nhiều thua thiệt cho ta trong quốc tế bang giao, làm
mất đi nhiều cơ hội làm ăn của ta với thế giới bên ngoài.
Người ngã xuống vì biên cương hải đảo ta cũng chẳng dám
vinh danh… Hỡi ôi!

Thời thế đã đổi thay. Thế giới ngày nay không chỉ có một
mình Trung Quốc. Đoàn thuyền ra khơi phần đông đều đi theo
một hướng, vậy lẽ gì ta phải tách nhóm đi riêng với kẻ
vẫn bắt nạt mình? Sợi dây trói tay trói chân gỡ ra còn chưa
được, vậy cớ gì ta lại mua dây để tròng đầu tròng cổ ta
thêm?

Và cuối cùng là chủ quyền bị đe dọa: Khi chân tay ta bị
trói, đầu cổ ta cũng chẳng được tự do, mắt ta cũng bị
buộc nhìn về một hướng, thì thân thể ta làm sao mà vẹn
toàn tự chủ? Sự trỗi dậy của người Trung Quốc tất yếu
dẫn đến việc họ mở rộng biên giới quốc gia. Tranh chấp
với xung quanh là điều khó tránh khỏi. Điều này họ đã công
khai thừa nhận. Biển Đông đã nổi sóng. Giờ việc ta cần
làm là hãy nhanh nhanh tự cởi trói cho mình, làm cho ta hùng
mạnh thêm lên thì mới có thể giữ được vẹn toàn cương
thổ.

Khi lực ta còn yếu thì mắt ta phải nhìn xa trông rộng, phải
tìm cách kết thân với những kẻ có thế có quyền, có cùng
lợi ích cùng mối lo âu để đồng tâm đối phó. Muốn vậy ta
phải thiện chí thành tâm, đặt lợi ích quốc gia lên trên
những tính toan nhỏ nhặt. Tình thế đã trở nên nguy ngập.
Nước Việt ta đang đứng trước một lựa chọn lịch sử:
Thoát Trung để phát triển hay cam tâm làm nô lệ một lần
nữa?

Là người Việt, không ai muốn trở thành nô lệ ở bất cứ
dạng nào. Điều này có nghĩa, lựa chọn duy nhất là vùng
thoát khỏi vòng kiềm tỏa của người Trung Quốc để phát
triển.

Vậy thì, hãy làm một cuộc thoát Trung toàn diện để hội
nhập cùng thế giới và kiến tạo một kỷ nguyên phát triển
mới!

Hãy tỉnh cơn mê, dứt cơn mộng mị! Hãy từ bỏ chất gây
nghiện chầu về Trung Quốc! Hãy cởi bỏ tấm khăn bịt mắt!
Hãy vứt sợi dây đang trói tay, trói chân, tròng cổ, tròng
đầu!

Hãy trở về với di lệnh của tổ tiên: <strong><em>Thoát Trung
hay là chết!</em></strong>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9599), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét