Việt Nam ra mắt tạp chí Nhân quyền Việt Nam với sự có mặt
và phát biểu ý kiến của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm,
Trưởng ban chỉ đạo về nhân quyền. Có lẽ đây là một tạp
chí được ra mắt long trọng nhất trong lịch sử báo chí Việt
Nam. Tôi hết sức quan tâm ba nhiệm vụ của tạp chí này do Phó
thủ tướng chỉ đạo:
<div class="special_quote">1 – Tuyên truyền các thành tựu đạt  
được trong lĩnh vực nhân quyền;
2 – Đấu tranh chống các thế lực thù địch vẫn không ngừng  
lợi dụng các vấn đề dân chủ nhân quyền, tôn giáo, dân  
tộc để vu cáo xuyên tạc, can thiệp vàò sự phát triển của  
Việt Nam;
3 – Kênh thông tin chủ lực nhằm phổ biến các quan điểm  
chủ trương, chính sách đúng đắn của Nhà nước Việt Nam  
trong lĩnh vực nhân quyền.</div>
Phải chi ông Phó thủ tướng chỉ đạo thêm cho tạp chí sớm  
mở mục thảo luận: <em><strong>Nhân quyền là gì?</strong></em>  
Tại sao lại gọi là nhân quyền phương Tây và nhân quyền  
Việt Nam, nó cơ bản khác nhau chỗ nào? Nội dung nhân quyền  
trong 8 yêu sách của Nguyễn Ái Quốc ở Hội nghị Versailles có  
gì khác với quan điểm của Đảng ta ngày nay? Nếu không có gì  
khác thì tại sao chúng ta không thực hiện? Quan điểm đúng  
đắn về nhân quyền của Nhà nước ta còn có những chỗ yếu  
nào, lổ hổng nào khiến cho hàng chục năm nay cứ bị kẻ thù  
lợi dụng xuyên tạc? Và chúng ta cũng nên tìm những bài học  
thực hiện nhân quyền của những quốc gia luôn luôn được dư  
luận quốc tế tặng điểm son xem họ đã làm thế nào mà  
giỏi thế? Như vậy sẽ thiết thực và tạo điều kiện để  
mong ước của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh phải thành sự  
thật?
Mới đây, ông Michael W. Michalak Đại sứ Mỹ trả lời nhà báo  
Nguyễn Anh Tuấn của Tuần Việt Nam, đã ca ngợi quan hệ Việt  
– Mỹ phát triển hết sức tốt đẹp, kể cả về quốc  
phòng, đã đạt tới "đối tác chiến lược". Sau đó, ông ấy  
thẳng thừng trả lời rằng, tuy vậy vẫn chưa thể trao vũ khí  
cho Việt Nam được, vì bị "ảnh hưởng của vấn đề nhân  
quyền"! Ông cũng thẳng thắn cho rằng Mỹ chưa thể tính tới  
việc trở thành đồng minh của Việt Nam, vì đã là đồng minh  
thì phải chịu trách nhiệm về an ninh cho nhau mà Mỹ và Việt  
Nam thì hãy còn những khác biệt về thế giới quan, khác biệt  
về dân chủ, về tự do báo chí…
Vậy thì những lời đáp hết sức thẳng thắn và công khai  
của ông Đại sứ Mỹ, chúng ta nên coi đó là lời thiện chí  
của bạn bè hay phải coi là âm mưu của bọn thù địch?
Cách đây hơn nửa năm, ngày 10-10-2009, trong diễn văn bế mạc  
Hội nghị trung ương Đảng của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh  
có câu: "<em>Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người  
là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát  
triển</em>". Ông cho biết "Hội nghị biểu thị sự đồng tình  
cao" nội dung này trong văn kiện sẽ trình Đại hội Đảng.
Đọc xong, tôi không khỏi băn khoăn. Dù được đặt ở địa  
vị "chủ thể", "mục tiêu", nhưng khi đã gọi là "nhân tố"  
(Có nghĩa là "Yêu cầu cần thiết, gây ra, tạo ra cái gì đó"  
– Từ Điển tiếng Việt) thì dù được "phát huy tối đa", con  
người vẫn chỉ là công cụ? Không! Con người là "<em>đối  
tượng thụ hưởng chủ yếu và tham gia vào quá trình thực  
hiện những quyền này (nhân quyền) và các quyền tự do</em>".
Mới đây, trong buổi gặp gỡ những người có công với đất  
nước, nhân ngày Thương binh Liệt sĩ, Chủ tịch Nguyễn Minh  
Triết nhắc nhở rằng "<em>Để tỏ lòng nhớ ơn những anh hùng  
liệt sĩ, việc đầu tiên là phải bảo vệ vững chắc chế  
độ xã hôi chủ nghĩa</em>". Tôi những muốn ông nói thêm  
rằng, việc đầu tiên trong đổi mới xã hội chủ nghĩa là  
tích cực thực hiện đầy đủ nhân quyền cho nhân dân Việt  
Nam đã quá nhiều đau khổ hy sinh phải được mở mày mở mặt  
như thiên hạ đang sống ở các quốc gia văn minh tiến bộ .
Trong những ngày ở tù Hồ Chí Minh dù chịu muôn vàn gian khổ  
thiếu thốn vật chất, nhưng ông chỉ khao khát tự do: "<em>Vừa  
ngâm vừa đợi đến ngày tự do</em>" ; "<em>Còn lại trong tù  
khách tự do</em>"; "<em>Tự do tiên khách trên trời/Biết chăng  
trong ngục có người khách tiên</em>"; "<em>Trên đời ngàn van  
điều cay đắng/Cay đắng chi bằng mất tự do!</em>"…
Năm 1950, khi đang học ở trường trung học giữa rừng U Minh an  
toàn, hưởng ứng lệnh chuẩn bị tổng phản công, tôi đã  
cùng hàng trăm đồng học làm đơn xin đóng cửa trường để  
được gia nhập Vệ quốc đoàn, giành quyền sống cho con  
người Việt Nam mất nước. Niềm tự hào là thành viên của  
lực lượng giải phóng dân tộc, giải phóng con người trong  
chúng tôi được nâng lên không ngừng: xóa bỏ bóc lột, đem  
lại bình đẳng… Rời tay súng, tôi tập tành cầm bút với  
niềm tin viết để bênh vực cho công nhân lao động, những con  
người thấp cổ bé họng; viết ca ngợi sự nghiệp độc lập,  
tự do, hạnh phúc đã đơm bông kết trái; viết để làm sáng  
lên chân lý "<em>Việt Nam là lương tri của cả loài người  
tiến bộ</em>".
Tháng 6 năm 1993, Hội nghị Nhân quyền thế giới họp ở Vienna,  
thủ đô nước Áo, có 6.000 đại biểu của 183 nước tham dự.  
Một đoàn người Việt ở nước ngoài cầm cờ vàng ba sọc  
đỏ kéo tới trước nơi họp phản đối đoàn đại diện của  
Chính phủ Việt Nam, đòi thực hiện nhân quyền cho nhân dân  
Việt Nam. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam hồi đó là ông  
Lê Mai tuyên bố rằng, những người Việt ấy "<em>làm chính  
trị chứ không phải làm nhân quyền</em>". Nhất trí với nhận  
xét của ông, tôi đã viết bài báo có tựa đề là "Đối  
thoại nhân quyền" với bút danh Thuận Lý, đăng trên trang nhất  
báo Lao động ngày 24-6-1993, trước khi Hội nghị bế mạc một  
ngày. Bài viết có những câu "Những kẻ toan tính đè bẹp  
chúng ta trong chiếc bẫy nhân quyền đã không chịu hiểu rằng,  
hơn nửa thế kỷ qua, nhân quyền luôn luôn là mục tiêu nhằm  
đạt tới của toàn Đảng, toàn dân ta. Từ năm 1925, Bác Hồ  
đã viết "Công nông mình cứu lấy mình/ Sửa sang thế đạọ,  
kinh dinh nhân quyền"; "Trước đây, nhân quyền cao nhất là  
"Không có gì quý hơn độc lập tự do", còn ngày nay: "Đầu  
tiên là công việc đối với con người". Ít lâu sau, tôi mới  
nhận ra câu này tôi trích từ bản Di chúc ông cụ viết năm  
1968, nhưng đã bị bỏ đi. Trong bản Di chúc được công bố  
thì "Trước hết nói về Đảng"!
Sau ngày báo phát hành, anh Nguyễn Kiến Giang đến tòa báo gặp  
tôi, nói: "<em>Mình xem Tống văn Công là người bạn tốt. Còn  
ông Tổng biên tập Tống văn Công thì dù đã dám đưa mình vào  
danh sách cộng tác có trả lương hàng tháng, mình vẫn phải  
thẳng thắn nói rằng, bài vừa rồi không thể gọi là "Đối  
thoại nhân quyền" mà phải nói, Tống văn Công chỉ "độc  
thoại"</em>!
Nếu nhận xét đó là của một người nào khác thì chắc tôi  
không thể ngồi im. Nhưng đây là Nguyễn Kiến Giang, người khi  
tuổi lên 3 phải theo mẹ tới nhà tù Lao Bảo thăm bố là tù  
cộng sản, 16 tuổi được đặc cách kết nạp vào Đảng khi  
cuộc kháng Pháp tới gần, 20 tuổi vào Ban Thường vụ Tỉnh  
ủy lãnh đạo một vùng đất được nhạc sĩ Nguyễn văn  
Thương vinh danh trong bài hát "Bình-Trị-Thiên khói lửa". Vậy  
mà, chỉ vì dám bảo vệ quan điểm chống sùng bái cá nhân,  
đề nghị thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội,  
bênh vực quyền tự do tư tưởng, anh đã bị giam vào trại tù  
cải tạo nhiều năm không qua xét xử. (Cùng bị giam với anh  
còn có hằng chục đảng viên khác). Lời nói của anh có sức  
nặng của cả đoạn đời tươi đẹp nhất bị mất trắng và  
những giọt nước mắt của vợ con anh suốt mấy ngàn ngày.  
Bản thân anh là một bài học sống của một người dám hy sinh  
để đạt tới nhân quyền! Tôi phải nghiêm túc lắng nghe,  
thành tâm trao đổi ý kiến với anh. Và tôi chợt tỉnh như  
một người mãi đi theo quán tính mà không nhận ra rằng khi đã  
đi hết đoạn đường giành Độc lập thì phải rẽ vào bước  
ngoặt của con đường để tiến tới Tự do, Hạnh phúc. Hồ  
Chí Minh chẳng đã cảnh báo rằng "Nếu nước được độc  
lập mà dân không có tự do hạnh phúc thì độc lập cũng  
chẳng có nghĩa lý gì" đó sao?
Tuyên bố Vienna và Chương trình hành động, được Hội nghị  
Nhân quyền thế giới thông qua ngày 26-6-1993 cho rằng "bảo vệ  
các quyền con người và quyền tự do cơ bản trên bình diện  
quốc gia và quốc tế cần mang tính phổ cập và được thực  
hiện vô điều kiện". Ở điều 5 của chương 2, viết: "Hội  
nghị Nhân quyền khuyến khích các quốc gia xem xét hạn chế  
mức độ các bảo lưu của họ đối với các công ước quốc  
tế về nhân quyền, các bảo lưu cần chính xác và hẹp tới  
mức có thể bảo đảm rằng không có bảo lưu nào không phù  
hợp với các mục đích và mục tiêu của Công ước liên quan  
và thường xuyên xem xét lại các bảo lưu nhằm rút bỏ chúng".
Anh Nguyễn Kiến Giang gợi ý hai chúng tôi cùng giở lại Công  
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên  
hiệp quốc mà trước đó 13 năm Nhà nước Việt Nam đã gia  
nhập, xem chúng ta còn "bảo lưu" những gì. Buồn thay, hầu như  
chúng ta "bảo lưu" hầu hết những quyền cơ bản của con  
người mà chính Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã đặt ra  
sớm hơn hàng chục năm so với các Công ước và Tuyên bố nói  
trên của Liên hiệp quốc.
Càng nguy hiểm hơn khi chúng ta không gọi là "bảo lưu" mà cho  
rằng thực hiện nhân quyền phải thích hợp với truyền thống  
văn hóa; rằng thực hiện quyền con người phải gắn với lợi  
ích dân tộc, gắn với an ninh Tổ quốc, gắn với quyền làm  
chủ của nhân dân". Tức là theo Đảng và Nhà nước Việt Nam,  
trên đời này có 2 thứ nhân quyền rất rạch ròi, của ta và  
của Tây, mỗi bên cứ biết phận mình đừng ai xía vào chuyện  
ai! Nếu vậy thì liệu có thể lấy gì để đo, đếm, để  
nhận sau khi Tổ quốc thống nhất con người Việt Nam đã  
được hưởng nhân quyền và các quyền tự do hơn ngày xưa  
hoặc hơn các dân tộc khác hay không? Xin thưa cũng có phép đo  
rất chính xác đấy!
Khi con người tự thấy mình phải được hưởng các quyền tự  
do mà Tạo hóa đã ban cho thì người ta sẽ thoát khỏi mọi  
nổi sợ hãi, người ta sẽ rất tự tin nói lên điều mình  
nhận biết khác hẳn mọi người, giống như Galileo kêu lên  
quả đất tròn. Con người tự do sẽ đầy sức sáng tạo, làm  
ra sản phẩm vật chất và tinh thần cho mình và cho đất  
nước. Vậy con người Việt Nam 50 năm, 30 năm và hiện nay ra  
sao?
Con người Việt Nam, đặc biệt là những đảng viên cộng sản  
Việt Nam luôn tự hào đã kiên cường đối mặt với "hai đế  
quốc to", sau khi được sống trong Nhà nước của dân, do dân  
vì dân thì càng ngày càng co rúm lại, không ai dám nói những  
điều mình nhận thấy! Bởi trước mắt họ nhà cách mạng  
Nguyễn Hữu Đang chỉ đề nghị "pháp trị" đã lập tức trở  
thành tên phản động. Giám đốc Nhà xuất bản Văn học,  
nguyên Chính ủy Hà Minh Tuân viết tiểu thuyết Vào đời đã  
phải trở thành anh cưa gỗ. Việt Phương viết một câu thơ  
"Bùn đã vấy đến chín tầng mây, đã phải rời Văn phòng  
Thủ tướng đi lao động ở nông trường!… Tôi chỉ xin nêu ra  
đây vài điều thổ lộ âm thầm của một số nhân vật có  
vị trí cao trong Đảng và trong xã hội.
Nhà văn Nguyễn Tuân một người nổi tiếng tài hoa và sống  
ngay thật đã từng nói với bạn bè "Mình tồn tại tới giờ  
là do biết sợ".
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết nhật ký, ngày 18-3-1958: "Bây  
giờ đã đến cảnh không ai dám nói thật với ai, sợ rồi  
một ngày kia người ta đem ra liên hệ". Ngày 10-7-1959 ông viết:  
"<em>Thấy không khí vẫn có cái gì nằng nặng. Không ai nói  
một ý gì khác. Ít ai suy nghĩ. Trên bảo thế nào cứ y thế. It  
ai ra khỏi cái khuôn sáo của công thức</em>".
Nhà văn Nguyễn Khải viết năm 2006 (Nhưng dặn con chỉ công bố  
khi ông đã qua đời!): "<em>Được gặp gỡ các nhà văn nhà  
báo, các nghệ sĩ chế độ cũ mà thèm. Họ sống thoải mái  
quá, cử chỉ khoáng đạt,như chưa từng biết sợ ai. Còn mình  
thì đủ thứ sợ, sợ gặp người thân vì không biết họ có  
liên quan gì với Mỹ, ngụy? Nói cũng sợ vì nói thế đúng hay  
sai? Đến vẻ mặt cũng phải canh chừng, vui quá sợ mất cảnh  
giác, khen quá có thể ăn bả của nền kinh tế tư bản</em>".
Còn bao nhiêu người khác không phải nhà văn, họ không viết  
ra, nhưng chắc chắn biết bao sợ hãi cất giấu trong lòng. Có  
người thắc mắc, tại sao những đảng viên cộng sản rất  
kiên cường trong nhà tù đế quốc, lại tỏ ra quá hèn kém sợ  
hãi trước Đảng? Theo tôi, đó là vì họ chưa bao giờ nhìn  
Đảng như nhìn kẻ địch, họ luôn nghĩ, nếu Đảng có phạm  
sai lầm thì cũng chỉ là tạm thời, rồi Đảng sẽ nhận ra,  
sẽ sửa sai. Thậm chí có nhiều người trước khi bị đội  
cải cách ruộng đất xử bắn vẫn hô to: "Đảng Cộng sản  
Việt Nam muôn năm!" Gần đây những dân oan đi biểu tình cũng  
hô như thế! (Tuy nhiên ngày nay đã có khác xưa: Nhiều người  
chỉ tìm cách để đối phó!).
Phranklin D. Roosevelt, trong diễn văn nhậm chức Tổng thống Mỹ  
đã nói một câu rất sâu sắc: "Điều duy nhất đáng sợ chính  
là bản thân sự sợ hãi". Câu nói đó đã khuyến khích người  
dân Mỹ tự do tranh cãi tìm hướng đi cho nước Mỹ vượt qua  
thời kỳ khủng hoảng để phát triển. Họ chất vấn Tổng  
thống có định đưa đất nước vào con đường xã hội chủ  
nghĩa hay không? Họ tranh cãi: Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa  
Dân chủ xã hội cái nào tốt hơn, cái nào đem lại phúc lợi  
xã hội nhiều hơn. Trong một thông điệp hằng năm, ông viết:  
"<em>Dân chủ là một khế ước giữa những con người tự  
do</em>". Tự do đã gắn kết người dân gồm nhiều chủng tộc  
vào hợp chủng quốc đoàn kết, đồng lòng hợp sức còn hơn  
nhiều quốc gia chỉ có dân tộc thuần chủng mà lại thiếu  
Tự do. Tự do đã đưa nước Mỹ, một quốc gia sinh sau đẻ  
muộn nhanh chóng trở thành siêu cường, có vai trò dẫn đầu  
thế giới. Tự do đúng như nhà bác học Einstein nói: "<em>Không  
có tự do sẽ không có Shakespeare, không có Goethe, Newton, không  
có Faraday và Pasteur… Vì chỉ con người tự do mới làm ra  
những khám phá và giá trị tinh thần, những thứ làm cho cuộc  
sống của chúng ta, những con người hiện đại, trở nên đáng  
sống</em>" (Einstein, do Nguyễn Xuân Xanh biên soạn). Có thể nói  
thêm là không có tự do thì cũng không có EInstein! Có phải vì  
thiếu tự do mà các Giáo sư, Tiến sĩ Việt Nam có số công  
trình, bài viết hàng chục lần ít hơn và thấp kém hơn các  
đồng nghiệp trong vùng?
Einstein còn tiên đoán hơn nửa thế kỷ về những trở ngại  
khó vượt qua của chủ nghĩa xã hội. Ông nói: "<em>Chủ nghĩa  
xã hội phải đối mặt với một vấn đề chính trị – xã  
hội không dễ giải quyết: Làm sao, trong một sự tập trung  
rộng lớn quyền lực chính trị và kinh tế, ngăn ngừa được  
việc bộ máy quan liêu quá lớn lao, quá phình lên, đến nỗi  
cá nhân teo lại về chính trị và với nó, cái đối trọng dân  
chủ trước quyền lực của bộ máy quan liêu cũng teo theo  
luôn</em>"! Như vậy theo Einstein, con người cá nhân bị teo lại,  
làm mất "đối trọng dân chủ", như vậy không phải khiến cho  
nhà nước xã hội chủ nghĩa mạnh lên mà khiến cho nó lâm vào  
tình trạng nguy hiểm! Ba mươi lăm năm sau ngày Einstein qua đời,  
lời ông nói ở trên đã được ứng nghiệm với sự sụp đổ  
phe xã hội chủ nghĩa. Chẳng lẽ chúng ta không học được gì  
từ cảm nhận tiên tri của con người vĩ đại ấy cho bài học  
nhân quyền, cho sự nghiệp đổi mới xã hội chủ nghĩa? Tại  
sao chúng ta không thể thực hiện tự do báo chí đúng như  
điều 19 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và  
chính trị của Liên hiệp quốc mà Nhà nước ta từ ngày  
24-9-1982 đã cam kết thực hiện, để người dân Việt Nam  
được "<em>tận hưởng tự do về dân sự và chính trị, không  
bị sợ hãi</em>"? (Lời nói đầu Công ước). Sợ địch lợi  
dụng ư? Vậy thì xin nhắc lại rằng: Ngày 22-7-1938 tại số  
nhà 43 đường Hamelin (nay là Lê thị Hồng Gấm), Sài Ggòn, tờ  
báo Dân chúng của Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản số  
đầu tiên không xin phép và sau đó được chính quyền thuộc  
địa chấp nhận, trở thành tờ báo mở đầu cho nền tự do  
báo chí ở nước Việt Nam thuộc địa, nhân dân đang sống  
trong thân phận nô lệ. Chẳng lẽ một Nhà nước thống nhất  
vững mạnh hơn bất kỳ thời kỳ nào lại sợ hãi một kẻ  
địch vô hình hơn cả thực dân Pháp sợ một đảng cách mạng  
của một nhân dân đang bị chúng nô dịch? Hay vì cho rằng dân  
trí Việt Nam còn quá thấp chưa đủ bản lĩnh phân biệt đúng  
sai? Coi chừng luận điệu ấy phạm vào tội coi khinh quần  
chúng cách mạng Việt Nam đã đổ bao xương máu cho Tổ quốc  
và cho sự trưởng thành của Đảng Cộng sản. Và hãy nhìn sang  
Cam puchia, người anh em mà chúng ta hằng tự hào đã giúp cho  
họ thoát nạn diệt chủng, đã làm cố vấn cho họ nhiều  
mặt, nay họ đã thực hiện tự do báo chí đầy đủ theo  
điều 19 của Công ước quốc tế, hơn hẳn chúng ta. Chẳng lẽ  
dân trí Việt Nam đã thua sút hẳn Campuchia?
Cách đây gần 20 năm, cụ Nguyễn Văn Trấn, nhà báo Việt Nam  
lỗi lạc, thành viên Ban biên tập của báo Dân chúng từ số  
đầu tiên, và phải ngồi tù khi sắp nổ ra chiến tranh thế  
giới, chính quyền thuộc địa giở trò phát xít, đã phải kêu  
lên: "<em>Xin Quốc hội thực hiện quyền tự do báo chí cho  
nước ta bằng với chế độ thực dân Pháp!</em>"
Chao ơi, sao mà đến nông nổi này!
Còn tự do lập hội? Chính Cụ Tôn Đức Thắng đã lập Công  
hội không xin phép ở Ba Son từ năm 1920. Cụ bị bắt không  
phải vì tội lập hội. Ra đời dưới chế độ thuộc địa  
còn có thể kể hai Hội nữa, hội của nhà văn là Tự lực  
văn đoàn (Có người cho rằng trong lịch sử cho đến nay, các  
nhà văn Việt Nam chưa có một hội đoàn nào sánh kịp Tự lực  
văn đoàn về dân chủ, về hiệu quả hoạt động) và hội  
của nhà giáo là Hội Truyền bá quốc ngữ lập ra đều không  
phải xin phép nhà cầm quyền. Nhớ lại năm 1992, khi tôi có  
dịp ra Quảng Ninh, nhà báo Ngô Mai Phong có đưa anh Nguyễn Văn  
Dũng Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh này đến thăm tôi ở  
khách sạn Hạ Long. Sau khi nâng ly bia ới anh, máu nghề nghiệp  
nổi lên, tôi đề nghị anh cho tôi làm một cuộc phỏng vấn.  
Anh ngạc nhiên: "<em>Có gì bức thiết mà đang nhậu vui anh Công  
lại đòi phỏng vấn?</em>" Tôi nói: "Trong báo cáo tổng kết  
hằng năm, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam có nhận xét  
rằng hệ thống công đoàn tỉnh Quảng Ninh rất yếu. Cách đây  
gần 30 năm, trong hội nghị tổng kết hoạt động công đoàn  
tại Trường Công đoàn Trung ương, tôi được chứng kiến Chủ  
tịch Hồ Chí Minh gay gắt hỏi ông Lê Bùi Chủ tịch Công đoàn  
Quảng Ninh: "Hằng ngày chú làm gì mà công nhân khổ sở kêu  
mãi không thấu tai chú?". Vậy là sự yếu kém quá lâu! Tôi  
muốn đồng chí Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân  
dân, phân tích nguyên nhân của sự yếu kém kéo quá dài đó".  
Anh Dũng cười, thoải mái đáp: "Tôi trả lời được, nhưng e  
rằng anh Công lại không đăng được!" Tôi quả quyết: "Anh dám  
nói thì tôi dám đăng. Tôi biết tôn trọng quyền tự do ngôn  
luận của anh mà!" Anh Dũng với vẻ mặt nghiêm hẳn, lên  
giọng: "Lý do đơn giản thôi, vì hệ thống công đoàn của  
chúng tôi được tiếng là đại diện cho hàng vạn công nhân  
vùng mỏ giàu truyền thống cách mạng, nó tự hào tới mức  
kiêu căng, trong khi đó một mình một chợ, nó không có tổ  
chức công đoàn nào khác cạnh tranh, để người công nhân  
được quyền chọn lựa vào công đoàn nào bảo vệ mình tốt  
hơn. Trong tình hình đó nó không yếu kém thì mới lạ! "Dứt  
câu anh nhìn tôi chờ phản ứng. Tôi cất máy ghi âm vào túi,  
nâng ly bia với anh, cười thẳng thắn: "Tôi xin chịu thua! Thôi  
ta chỉ nhậu, không nói chính trị nữa!". Tôi tự biết mình  
không đủ sức bảo vệ quyền tự do ngôn luận của anh Dũng  
như vừa mới hứa. Bởi cách đó không lâu, tôi có ý kiến  
với Đảng đoàn Tổng liên đoàn lao động, xin cho Chủ tịch  
Công đoàn các cấp đứng ngoài Ban thường vụ và Ban chấp  
hành của Đảng cùng cấp, để giữ được tính độc lập  
của tổ chức Công đoàn. Sự tôn trọng tổ chức công đoàn  
chỉ cần có quy định cho Ban thường vụ Đảng họp thì phải  
mời Chủ tịch Công đoàn. Nếu hai bên trái ý nhau thì chuyển  
vấn đề lên cấp trên. Vì ý kiến ấy tôi đã bị không ít  
người cho rằng, đó là mầm mống của tư tưởng đòi Công  
đoàn thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, trở thành một thứ  
Công đoàn Đoàn Kết. Qua chuyện phỏng vấn hôm đó tôi và anh  
Dũng hiểu nhau, quý trọng nhau mãi cho tới giờ.
Sau Đại hội 6 – Đổi mới, Hội nghị Trung ương Đảng lần  
thứ 8, có Nghị quyết 8B về đổi mới các đoàn thể quần  
chúng: "<em>Trong giai đoạn mới cần thành lập các Hội đáp  
ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống của  
nhân dân, hoạt đông theo hướng ích nước lợi nhà, tương  
thân tương ái. Các tổ chức này được thành lập theo nguyên  
tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính trong  
khuôn khổ pháp luật</em>". Nhờ có Nghị quyết 8B, các nhà  
nghiên cứu đã dám mạnh dạn phân tích sự trì trệ lâu nay  
của các đoàn thể. Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Cường, Viện nghiên  
cứu xã hội viết: "<em>Từ năm 1975 đến 1985 hầu hết các tổ  
chức xã hội dân sự chính thức đều bị hành chính hóa,  
được bao cấp và kiểm soát chặt chẽ bởi Nhà nước. Trong  
cơ chế này các tổ chức xã hội dân sự hầu như mất đi vai  
trò năng động và tự chủ của mình trong việc huy động các  
nguồn lực cho xã hội, cũng như đại điện cho lợi ích của  
các thành phần trong xã hội</em>". Tiếc thay Nghị quyết 8B về  
đoàn thể quần chúng cũng chịu yểu mệnh như Nghị quyết 5  
về tự do sáng tác của văn nghệ sĩ. Bởi vì sau sự sụp đổ  
của phe xã hội chủ nghĩa các thế lực bảo thủ muốn gò ép  
trở lại.
Thử đem bức tranh về các tổ chức xã hội dân sự mà tiến  
sĩ Nguyễn Mạnh Cường phác họa khá chính xác cách đây 25 năm  
so lại với các đoàn thể hôm nay, từ Công đoàn, Thanh niên,  
Phụ nữ, Nông hội, Nhà báo, Nhà văn … có phải vẫn còn y  
nguyên bộ mặt "hành chính hóa" của ngày hôm qua?
Nhân quyền! Con đường dằng dặc của nhân loại đi tìm sự  
tự khẳng định mình. Từ sự thờ cúng vật linh tới thờ  
cúng thần thánh có hình ảnh giống mình là một bước giải  
phóng đầu tiên. Từ thờ cúng thần thánh con người tìm ra  
Thượng đế và trước Thượng đế con người tự thấy mình  
là những cá nhân bình đẳng, đó là một cuộc giải phóng quan  
trọng tiếp theo. Rồi cuộc cách mạng vĩ đại về thế giới  
quan xảy ra ở thời kỳ Phục hưng đã hoán vị con người vào  
vị trí của Thượng đế. Chính bước nhảy vọt phi thường  
này đã đặt nền móng cho chủ nghĩa nhân văn ở thế kỷ Ánh  
sáng. Không phải thần thánh, không phải Thượng đế mà là Con  
người có những quyền tự nhiên do tạo hóa ban cho, với lý  
tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Quyền con người và chủ  
nghĩa dân chủ đã được thực hiện trong cuộc Cách mạng Mỹ  
1776 và Đại cách mạng Pháp 1789. Ở các quốc gia này, con  
người được sống trong xã hội công dân, mỗi cá nhân là  
một chủ thể bình đẳng về các quyền tự do, quyền sở hữu  
tài sản và được bảo vệ bởi pháp luật. Đâu phải vô cớ  
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập  
nước ta bằng những câu về Nhân quyền, Dân quyền trích từ  
hai bản Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp:
- "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo  
hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong  
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và  
quyền mưu cầu hạnh phúc".
- "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và  
phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Nhân quyền và dân quyền đâu phải chỉ là giá trị của văn  
minh phương Tây, đó là giá trị văn minh của toàn nhân loại!  
Chẳng lẽ những người công kích nhân quyền phương Tây không  
thấy rằng đó là sự xúc phạm Cụ Hồ?
Ngày nay hàng trăm dân tộc đã sánh bước trên trên con đường  
tự do – dân chủ. Trong tự do, Thomas L. Friedman nhìn ra thế  
giới phẳng, ở đó con người cá nhân có đủ điều kiện  
vươn ra toàn cầu tìm chỗ đứng cho mình. Cũng trong tự do,  
Naomi Klein bảo rằng thế giới không phẳng, toàn cầu hóa còn  
có những mặt khuất và bà kêu to: "Hãy đặt con người lên  
trước lợi nhuận"! Con người Việt Nam chịu quá nhiều đau  
khổ hiện đang ở mặt khuất nào trong thế giới vừa phẳng  
vừa không phẳng này đây?
Tôi tha thiết mong rằng tạp chí Nhân quyền Việt Nam, khuôn  
mặt trẻ nhất, mới nhất, thời đại nhất của nền báo chí  
Việt Nam đã có hơn 150 năm tuổi, phải xứng đáng là ngọn  
đuốc soi sáng những mặt khuất của Nhân quyền Việt Nam.  
Trước hết hãy làm sáng tỏ để thực hiện cho kỳ được 2  
điều trong 8 điều mà cách đây gần tròn 100 năm Nguyễn Ái  
Quốc đã đòi cho nhân dân Việt Nam:
- Tự do báo chí và Tự do ngôn luân. Điều mà sau ngày độc  
lập cụ đã diễn đạt một cách nôm na: " Dân chủ là mọi  
người dân được mở miệng".
- Tự do lập hội và tự do hội họp.
Cả 2 điều ấy cần phải được hiểu và được thực hiện  
đúng với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính  
trị mà Nhà nước Việt Nam đã gia nhập từ 24-9-1982 và cam  
kết thực hiện.
Đó là điều 19:
1 – Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà  
không bị ai can thiệp vào.
2 – Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm  
cả quyền tự do tìm kiếm, nhận, và truyền đạt mọi loại  
tin tức, ý kiến không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên  
truyền miệng, hoặc bằng chữ viết, in, hoặc bằng hình thức  
nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác  
tùy theo sự lựa chọn của họ.
3 – Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 của  
điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt.  
Do đó có thể dẫn đến một số hạn chế nhất định, tuy  
nhiên những hạn chế này phải được pháp luật quy định và  
cần thiết để:
- Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác.
- Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe  
hoặc đạo đức của công chúng.
Điều 22:
1- Mọi người có quyền tự do lập hội với những người  
khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo  
vệ lợi ích của mình.
2 – Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ  
trường hợp do pháp luật quy định và những hạn chế này là  
cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc  
gia, an toàn và trật tự công cộng, để bảo vệ sức khỏe  
hoặc đạo đức của công chúng hoặc các quyền và tự do của  
các người khác. Điều này không ngăn cản việc hạn chế hợp  
pháp đối với những người trong các lực lượng vũ trang và  
cảnh sát.
3 – Không một quy định nào của điều này cho phép các nước  
tham gia Công ước 1948 của Tổ chức lao động quốc tế về  
tự do lập hội và bảo vệ quyền được tổ chức hội  
được tiến hành những biện pháp lập pháp, hoặc áp dụng  
luật làm phương hại đến những đảm bảo nêu trong Công  
ước đó.
Làm được những điều ấy, tạp chí Nhân quyền Việt Nam sẽ  
góp phần đáng trân trọng, làm bừng lên ước vọng tự do,  
dân chủ, tạo ra sức mạnh chấn hưng dân khí, mở mang dân  
trí, đưa Tổ quốc và Nhân dân Việt Nam ta lên ngang tầm thời  
đại.
Ngày 18-7-2010
TVC
HT Mạng Bauxite Việt Nam biên tập
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận  
(http://danluan.org/node/5767), một số đường liên kết và hình  
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để  
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường  
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa  
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây  
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)  
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress  
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),  
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp  
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để  
gửi bài viết cho Dân Luận!
 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét