Bill Hayton - Việt Nam: Con Rồng Đang Lên (3)

Nhưng Việt Nam có thật sự là kiểu mẫu theo tiêu chuẩn của
Ngân hàng Thế giới? Câu giải thích quen thuộc về thành công
kinh tế của Việt Nam thường là như thế này: cơn khủng
hoảng kinh tế trong những năm đầu 1980s đã bắt buộc phải
có một lựa chọn tỉnh táo để chấp nhận những thế lực
thị trường trong Đại hội Đảng lần thứ 6 vào tháng Mười
Hai 1986, sau đấy nền kinh tế được mở cửa, với sự cố
vấn của Ngân hàng Thế giới, cuối cùng Việt Nam đã tham gia
Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2007. Nói đúng ra, đây
chỉ là một nửa câu chuyện. Để hiểu được một nửa kia ta
phải bắt đầu sớm hơn và phải thay đổi hướng nhìn. Một
giải thích đúng hơn về sự thành công của Việt Nam là quá
trình đổi mới đã bắt đầu nhằm bảo vệ khu vực nhà
nước chứ không phải xóa bỏ nó; rằng sự can thiệp của nhà
nước vẫn giữ nguyên một cách sâu rộng trong suốt thời kỳ
đổi mới; và rằng, cho đến gần đây, những cố vấn về
chính sách của Ngân hàng Thế giới đã bị phớt lờ, trừ khi
chúng phù hợp với những ưu tiên của Đảng Cộng sản. Để
hiểu rõ hơn việc này chúng ta cần đánh một vòng ngắn qua
lịch sử của nền kinh tế.

Cơn khủng hoảng đầu tiên của Việt Nam thống nhất đến vào
bốn năm sau khi xe tăng Cộng sản cán đổ cổng Dinh Tổng
thống ở Sài Gòn, chấm dứt cuộc "Chiến tranh chống Mỹ" và
hai mươi năm hai miền bắc nam bị chia cắt. Nền kinh tế nông
thôn đổ nát, miền bắc bị dội bom trở lại thời kỳ tiền
công nghiệp và cuộc chiến đã giết, làm bị thương hoặc ly
tán hàng triệu người. Nhưng chiến thắng dường như đã
chứng minh được ưu thế của kiểu mẫu cộng sản: nó đã
đánh bại tầng lớp tư bản và người hậu thuẫn nó là Hoa
Kỳ. Nhưng thắng lợi không là vĩnh viễn; chính quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã không hoạt động được. Cho đến năm
1979 ngành công nghiệp nặng đã ngốn hết tài nguyên nhưng lại
không có năng xuất, công nghiệp nhẹ bị thu nhỏ và nông
nghiệp bị đình trệ, trong khi nông dân ở miền nam cộng sản
phản đối quá trình tập thể hoá. Quốc gia này đã bắt buộc
phải nhập 200 nghìn tấn gạo để chống đói. Không những
thế, Việt Nam đã đánh chiếm Cambodia trong khi Trung Quốc tấn
công và cắt đứt mọi viện trợ kinh tế cho Việt Nam. Những
lĩnh vực kinh tế phụ thuộc vào nhập khẩu từ Trung Quốc rơi
vào khủng hoảng. Cần phải làm một việc gì đấy. Quyết
định của Đảng Cộng sản vào tháng Tám 1979 nhằm mục đích
giữ vững nền kinh tế cộng sản mà họ đã bỏ ra một phần
tư thế kỷ để xây dựng nhưng cuối cùng đã phải từ bỏ.
Kế hoạch tập trung hoá kinh tế và tài nguyên do nhà nước
phân phối - tất cả những giáo điều này cuối cùng đã phải
bỏ đi. Giới lãnh đạo kêu gọi sự "bùng nổ" năng xuất.
Những công ty nhà nước vẫn phải giữ cam kết của mình với
kế hoạch của trung ương - nhưng giờ đây chúng được phép
mua bán sau khi đạt đủ chỉ tiêu đề ra của chính phủ [1].
Đến năm 1979, trước khi Trung Quốc và Liên Xô mở cửa với
chủ nghĩa tư bản công nghiệp, những người cộng sản Việt
Nam đã bắt đầu thử nghiệm nó.

Mục đích của chính sách trên không nhằm để phá bỏ việc
vạch kế hoạch xã hội chủ nghĩa mà để cứu vãn nó. Một
số Công ty Nhà nước (CTNN) đã bắt đầu mua bán một cách
không chính thức, và thậm chí một số khác còn có những
thương vụ với nước ngoài để trả nợ nần. Với việc
ngầm chấp thuận những trao đổi không chính thức này Đảng
hy vọng có thể kiểm soát được và ghìm chúng lại dần dần.
Nhưng sự việc đã đi ngược lại. Trao đổi bất hợp pháp
tăng gấp đôi từ 20 phần trăm của thị trường trong năm 1980,
hai năm sau đã lên đến 40 phần trăm [2]. Hiện tượng này
được gọi là phá rào - lách luật để được việc [3]. Vào
tháng Giêng 1981, giới lãnh đạo cố gắng mạnh tay hơn. Họ
đưa ra Chỉ thị 25-CP ra lệnh tất cả các công ty nhà nước
phải đăng ký các mặt hàng mua bán của mình. Đây là một nỗ
lực nhằm quản lý thị trường đen nhưng đồng thời cho phép
các CTNN "tự cân đối" - được quyền buôn bán một cách độc
lập - sau khi đã hoàn thành chỉ tiêu được giao từ Kế hoạch
Kinh tế của chính phủ. Đây chính là khởi đầu thực sự
của việc đổi mới kinh tế. Các nhà lãnh đạo các tỉnh phía
nam còn tiến xa hơn nữa. Vào cuối năm 1985, lãnh đạo Thành
phố Hồ Chí Minh đã phớt lờ luật nhà nước và tự cho phép
các công ty sử dụng "phương pháp quản lý mới". Quá trình mở
cửa kinh tế đã xảy ra từ lâu trước khi được "chính thức"
đổi mới vào năm 1986.

Và trong năm ấy đã có nhiều việc xảy ra cùng lúc. Tăng
trưởng và sản xuất lương thực bị đình trệ, lạm phát
tăng đến gần 500 phần trăm [4]. Lê Duẩn, nhà lãnh đạo
Đảng Stalinist, người chính thức lèo lái quốc gia sau khi Hồ
Chí Minh qua đời năm 1969 (và không chính thức ít nhất là
mười năm trước đấy), qua đời. Đảng triệu tập Đại hội
toàn quốc và tất cả mọi áp lực dồn nén từ bên trong trong
suốt cả thập niên đã bùng nổ. Một phần của lực lượng
dẫn đầu là một nhóm những nhà cải cách kinh tế bên trong
Đảng, nhưng chủ yếu là những người đứng đầu các công ty
nhà nước hiện đang hưởng thụ những thành quả có được
từ việc phá rào, đang muốn hợp thức hoá việc tự do trao
đổi. Họ đã bắt buộc giới lãnh đạo Đảng huỷ bỏ kế
hoạch từ trung ương và để thị trường có ảnh hưởng mạnh
hơn - quá trình giờ đây được gọi là đổi mới, có nghĩa
đen là "chuyển sang một cái mới hơn", nhưng thường được
diễn giải là "cải tổ". Dần dần thị trường "tự do" song
song đã chiếm thế thượng phong, cho phép một sự chuyển biến
ra khỏi những kế hoạch của trung ương kiểu cũ một cách êm
thấm hơn so với những quốc gia xã hội chủ nghĩa khác. Một
chương trình cải cách ruộng đất sâu rộng đã cho phép nông
dân quản lý ruộng của mình, sản lượng nông nghiệp (chiếm
40 phần trăm tổng sản lượng kinh tế) [5] bùng nổ, Việt Nam
rút quân ra khỏi Cambodia và tái lập quan hệ với Trung Quốc,
và nước này cũng đã cho phép tái lập việc nhập hàng giá
rẻ dọc theo biên giới phía bắc [6]. Hoà bình cho phép cắt
giảm lớn trong chi phí quân sự và sự suy giảm viện trợ của
Liên Xô nói chung đã bắt buộc phải cắt giảm mạnh hơn chi
phí xã hội. Đến năm 1991, lạm phát đã giảm xuống đến
mức có thể kiểm soát được.

Nhưng nếu quá trình chuyển biến được xem là nhẹ nhàng thì
nó cũng quá chậm rãi, rối rắm và mâu thuẫn. Thật nực
cười khi Việt Nam thường được xem là một điển hình sáng
của việc đổi mới kinh tế. Thực tế dường như ngược
lại. Sự chuyển đổi của Việt Nam đã được đánh dấu
bằng việc tăng cường quản lý của nhà nước vào kinh tế
bằng những nỗ lực mạnh mẽ nhằm điều khiển nền kinh tế
từ trung ương và quyết tâm của Đảng trong việc từ tìm một
con đường độc lập, bỏ qua những lời khuyên của Ngân hàng
Thế giới, Quĩ Tiền tệ Quốc tế và những tổ chức hậu
thuẫn cho chủ nghĩa tư bản tự do laisez-faire. Trong mọi khủng
hoảng và lựa chọn, ưu tiên của Đảng vẫn luôn là sự tồn
tại của mình. Sự cần thiết phải làm vừa lòng giới phản
kháng, san xẻ tăng trưởng và giảm bớt sự bất bình đẳng
vùng miền luôn luôn được dùng để phủ định những kêu
gọi cho việc mở cửa hơn nữa, xoá bớt kiểm soát hoặc theo
đuổi phát triển kinh tế cá thể. Cho đến nay, kết quả là
một tổng hợp của tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo
và ổn định chính trị mà những quốc gia đang phát triển
không thể sánh kịp. Theo lời của Hồ Chí Minh, đấy là:
"thành công, thành công, đại thành công."

Trong khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ ở châu Âu, thì chính
các nhà tư bản ngoại quốc và các tổ chức viện trợ quốc
tế lại là người giúp Đảng Cộng sản giữ nguyên quyền
lực ở Việt Nam. Trong năm 1981, viện trợ từ Liên Xô cung cấp
khoảng 40 phần trăm ngân sách nhà nước. Đến năm 1991, nó đã
bị cắt đứt hoàn toàn. Đảng tuyên bố Việt Nam mở cửa cho
đầu tư nước ngoài và sự kết hợp giữa lương lao động
rẻ, nhà máy làm việc dưới công suất và vị thế địa lý
lý tưởng đã trở nên quá hấp dẫn để các tập đoàn nước
ngoài có thể bỏ qua. Nhưng ngay cả tại thời điểm này, chính
quyền vẫn giữ quyền kiểm soát, và đầu tư nước ngoài
được đưa vào những liên doanh với các công ty nhà nước.
Trong mọi quốc gia cộng sản từng mở cửa thay đổi kinh tế,
tỉ lệ thành phần kinh tế do nhà nước kiểm soát đều giảm
thiểu. Nhưng tại Việt Nam nó lại tăng lên: từ 39 phần trăm
trong năm 1992 lên đến 41 phần trăm vào năm 2003 - không kể
đến những công ty đầu tư ngoại quốc, vốn thường là
những liên doanh với CTNN [7]. Nhưng không như những quốc gia
khác, nhà nước kiểm soát không có nghĩa là kinh tế trì trệ -
tăng trưởng đã nhảy vọt lên 8 phần trăm mỗi năm. Sự bùng
nổ này đặc biệt mạnh mẽ ở miền nam. Cho đến cuối thập
niên, các công ty nhà nước ở Thành phố Hồ Chí Minh đã đóng
góp khoảng phân nửa ngân sách của quốc gia. Có nghĩa là Sài
Gòn và những vùng phụ cận đã gánh lấy vai trò của Liên Xô
hai thập niên trước.

Trên hầu hết các quốc gia khác, khi thành phần nhà nước trong
kinh tế tăng cao thì thường dẫn đến đình trệ, khủng hoảng
ngân sách và lạm phát phi mã. Việt Nam không như thế bởi vì
những công ty nhà nước hoạt động với hầu như không có
hậu thuẫn của chính quyền; đến nỗi các "ông chủ" - gồm
các bộ trung ương, chính quyền các tỉnh, các cơ cấu của
Đảng, vân vân... - đối xử với họ như là những công ty tư
nhân, mặc dù chúng có những ưu tiên trong việc vay vốn ngân
hàng nhà nước cũng như được các cơ quan chính phủ bảo vệ.
Adam Fforde, nhà phân tích hàng đầu về kinh tế Việt Nam, gọi
chúng là "những công ty cổ phần ảo". Chúng làm ra lợi nhuận,
mở rộng và đa dạng hoá: ngành xuất khẩu của Việt Nam đã
tăng gấp bốn lần từ 1990 đến 1996 [8]. Các giám đốc của
chúng thương lượng hợp đồng, mua chuộc những thành phần
bảo kê và làm giàu. Rất dễ dàng cho những ai có mối quan hệ
tốt dập tắt các đối thủ cạnh tranh, những mặt hàng xuất
khẩu hoặc những người ngoại quốc chân ướt chân ráo. Tham
nhũng trở thành đại bệnh, các ngân hàng nhà nước vung tiền
cho vay và một số công ty tìm cách biến thành những tiểu đế
chế - đến nỗi, trong một số trường hợp, chúng đã thiết
lập những liên doanh ngầm với những nhà đầu tư bí mật và
qua mặt sự kiểm soát của nhà nước, vốn là chủ nhân của
chúng. Trong những trường hợp tồi tệ nhất, một số tập
đoàn này trở thành những tội phạm chính hiệu.

Đây không phải kiểu mà các nhà tài trợ quốc tế mong muốn.
Từ năm 1993, khi việc chấm dứt cấm vận của Hoa Kỳ cho phép
Ngân hàng Thế giới tái lập việc cho Việt Nam vay vốn, cơ quan
này - cùng với Quỹ Tiền tệ Quốc tế - từng tìm cách thuyết
phục chính phủ đi theo công thức cố hữu về mở cửa thị
trường. Năm 1996 Ngân hàng Thế giới, chính phủ và Quỹ Tiền
tệ Quốc tế đã đồng ý một Văn bản Chính sách Khung chung,
thiết lập những bước cần phải làm. Nó đã không được thi
hành. Có rất nhiều người trong Đảng phản đối bất cứ nỗ
lực nào nhằm hạ thấp vị trí của các CTNN hoặc mở cửa cho
nền kinh tế chịu ảnh hưởng quá nhiều từ nước ngoài. Mô
hình kiểu mẫu trước đấy của Ngân hàng Thế giới là
Indonesia đã lâm vào tình trạng suy sụp kinh tế khi tìm cách
làm việc tương tự này trong năm 1997, làm tăng thêm những khó
khăn. Ngân hàng Thế giới đã đề xuất cho vay 300 triệu Mỹ
kim dưới hình thức Nợ Điều chỉnh Khung. Việt Nam đã từ
chối thẳng. Quốc gia này có quá ít nợ và đã kiếm đủ
tiền qua xuất khẩu cũng như đầu tư nước ngoài để phải
cần đến tiền mặt. Ngân hàng Thế giới, vốn không quen bị
từ chối, đã phải cụp đuôi bỏ đi.

Đến cuối năm 1998 Ngân hàng Thế giới đã quay lại. Cơ quan
này và những nhà tài trợ khác đề xuất với Việt Nam một
khoản phụ trợ tăng cường 500 triệu Mỹ kim (bên cạnh 2,2 tỉ
tài trợ không điều kiện) nếu quốc gia này đồng ý thực thi
một kế hoạch nhằm bán hết các CTNN còn lại, tái cơ cấu
lĩnh vực ngân hàng nhà nước và đưa ra một chương trình cải
cách thương mại. Chính phủ đã đồng ý với điều kiện trên
nhưng lại không làm gì để thực hiện. Đòi hỏi trên quá
lớn để những thế lực chính trong Đảng có thể chấp nhận.
Tháng Mười Hai 1999, các nhà tài trợ còn hứa sẽ tăng thêm -
700 triệu Mỹ kim - nếu chính quyền chịu làm theo những đề
xuất của họ. Câu trả lời đã không cho thấy có thể thương
lượng được. Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư Trần Xuân Giá
đã nói với các phóng viên, "Anh không thể mua sự cải cách
bằng tiền... không ai có quyền ép buộc Việt Nam làm bất cứ
việc gì." [9] Không thể có ví dụ nào rõ hơn về các ưu tiên
hàng đầu của Đảng. Trong vòng ba năm, họ đã từ chối tổng
cộng 1,5 tỉ Mỹ kim vì muốn đặt ổn định chính trị lên
trên việc mở cửa thị trường. Mặc dù Ngân hàng Thế giới
tiếp tục cho vay những viện trợ lớn khác mà không có điều
kiện kèm theo, họ đã thất bại trong việc đòi hỏi các
điều kiện của mình. Việt Nam đã đối đầu trực diện với
một cơ quan quyền uy từ Washington và đã thắng. Ngân hàng Thế
giới đã đi đến kết luận rằng hợp tác với Đảng thì dễ
dàng hơn là đối đầu với họ.

Nhưng trong khi cuộc chiến với Ngân hàng Thế giới vẫn đang
tiếp diễn, Đảng đã bắt đầu nhận ra rằng ngay cả với
đầu tư từ nước ngoài, lĩnh vực kinh doanh của nhà nước
vẫn không thể cung cấp nổi một triệu việc làm mỗi năm. Và
họ đã có một quyết định lịch sử: cho phép lĩnh vực tư
nhân phát triển. Vào tháng Năm 1999, bộ Luật Doanh nghiệp mới
được thông qua, dẹp bỏ hầu hết những thủ tục quan liêu
phiền hà từng cản trở các công ty tư nhân trong việc đăng
ký chính thức. Khi luật này có tác dụng vào ngày 1 tháng Giêng
2000, nó đã có tác dụng tức khắc: trong vòng năm năm sau đã
có 160 nghìn doanh nghiệp đăng ký hoạt động. Đa số là những
công ty không có môn bài đã ra đời trước đấy, nay tận
dụng cơ hội của luật mới để ghi danh. Dù sao, bộ luật này
cũng có nghĩa là lĩnh vực tư nhân cuối cùng đã có mặt tại
Việt Nam - 20 năm sau khi quá trình cải tổ kinh tế bắt đầu.
Với nhận thức muộn màng, có lẽ sự chậm trễ này đã cho
phép những doanh nghiệp tiểu thương có thời gian để tích
luỹ nguồn vốn và kinh nghiệm trước khi cú sốc đột ngột
của cơ chế thị trường tự do đè bẹp họ xuống đáy. Việt
Nam đã thành công hơn nhiều trong khía cạnh này so với những
nền kinh tế "chuyển tiếp" khác.

Với việc thả lỏng khu vực tư nhân, cuộc đại chiến cuối
cùng trong Đảng là cần mở rộng cửa đến tầm mức nào
trước nền thương mại quốc tế. Nó được lộ rõ quanh việc
có nên ký bản Hiệp ước Thương mại Song phương với Hoa Kỳ
hay không. Các cuộc đàm phán đã bắt đầu từ năm 1995, bị
Hà Nội bác bỏ vào năm 1997, nhưng sau đó đã được tiếp
tục. Sau chín tháng ròng đàm phán - cuộc họp cuối cùng vào
tháng Bảy 1999 kéo dài suốt 17 tiếng đồng hồ - hai bên đã
đồng ý một thoả thuận được xem là bản hợp đồng thương
mại phức tạp nhất trong lịch sử Hoa Kỳ với 100 trang. Một
nhân vật chủ chốt phía Việt Nam lúc ấy là Phó Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng. Lần nào cũng thế, mỗi khi cuộc đàm phán
lâm vào điểm bế tắc, người Mỹ liền liên lạc trực tiếp
với ông và mọi cản trở liền được giải toả [10] Nhưng
thoả thuận của Dũng đã không làm hài lòng một số thành
phần trong Đảng vốn vẫn có ác cảm với đầu tư ngoại
quốc và Hoa Kỳ. Một buổi lễ ký kết chính thức đã được
dự định tổ chức tại hội nghị Châu Á - Thái Bình Dương
trong năm đó - nhưng đã bị huỷ bỏ vào phút cuối vì các
nhân vật chủ chốt đòi hỏi nội dung bản ký kết cần
được xem xét lại bởi cơ quan soạn thảo chính sách của
Đảng là Uỷ ban Trung ương. Mãi cho đến tháng Bảy 2000 Uỷ ban
Trung ương mới đồng ý ký duyệt. Đấy là một cuộc họp
rất quan trọng. Không những Uỷ ban Trung ương đồng ý với
nội dung bản Hiệp ước, họ cũng đã thông qua việc mở cửa
một thị trường chứng khoán tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ
lúc ấy trở đi tăng trưởng trong khu vực tư nhân đã qua mặt
lĩnh vực của nhà nước và tiếp tục đi lên cho đến nay [11].
Việt Nam đã được đặt trên con đường hướng tới giao
tiếp thương mại quốc tế và từ đó đã dẫn đến (sau
những đàm phán dài) việc được nhận vào Tổ chức Thương
mại Thế giới vào tháng Giêng 2007. Lúc đấy Nguyễn Tấn Dũng,
người đã giúp Hoa Kỳ thương thảo Hiệp ước Thương mại
Song phương, đã là Thủ tướng, là người dẫn đầu quá trình
cải cách và con gái ông đã đứng đầu một ngân hàng đầu
tư.

(còn tiếp)
_____________________________

<h2>Chú thích:</h2>

1. Chuyện về những năm đầu đổi mới kinh tế dựa trên
những nghiên cứu của Adam Fforde. Xem Chương I của cuốn sách do
ông viết: Công nghiệp Nhà nước Việt Nam và nền Chính trị
Kinh tế của Phục hưng Thương mại: Răng Rồng hay Trứng
Thối?, Oxford: Chandos; 2007

2. Phần mở đầu của Chỉ thị Nhà nước 188-HDBT, trích trang
36.

3. Adam Fforde cho rằng khái niệm này được sử dụng đầu tiên
bởi hai nhà kinh tế Dam Van Nhue và Le Si Thiep vào năm 1981 trong
một bài viết đăng trong Tạp Chí Kinh Tế số 10, Bộ thứ 5.

4. Nguyen Tri Hung, Nạn Lạm phát trong thời kỳ quá độ ở Việt
Nam Bài Thảo luận 22, Trung tâm Nghiên cứu ASEAN, Đại học
Antwerp, Tháng Giêng 1999, http://webh01.ua.bc/cas/PDF/CAS22.PDF

5. David Dollar, Paul Glewwe và Jennie Ilene Lietvack, Đời sống Gia
đình và Thời kỳ Quá độ ở Việt Nam, Bài viết Kỹ thuật
của Ngân hàng Thế giới 389, 1998.

6. Fforde, Công nghiệp Nhà nước Việt Nam, tr. 43.

7. Trích nguyên văn từ thống kê của chính phủ Việt Nam, tr.
xxiii.

8. Martin Gainsborough, "Những vấn đề chủ yếu trong nền kinh
tế chính trị của Đổi Mới", trong cuốn Thẩm định Việt
Nam, London và New York: Routledge Cuon, 2004, tr.43.

9. Agence France Presse, 15.12.1999. Trích từ Carlyle Thayer, "Chủ
nghĩa thụ động: tương lai của đổi mới". Văn bản trình bày
tại Học viện Nghiên cứu Quốc tế Cao cấp Nitze, 11.2001.
http://www.vpa-inc.org/conference/pdf/thayer.pdf

10. Carl Thayer, "Sự hoà nhập của Việt Nam vào trongkhu vực và
cơn khủng hoảng tài chính châu Á". Bài phát biểu tại Hội
nghị EuroViet 4, Passau, Đức, 16.09.1999.
http://www.unsw.adfa.edu.au/hass/ima...ct/vietnam.pdf

11. Gainsborough, "Những vấn đề trọng yếu", tr. 50.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/5087), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét