Pages

Nguyễn Hưng Quốc - Ai kiềm hãm dân chủ?

<div class="boxleft300"><img
src="http://gdb.voanews.com/C1207CB3-7EBA-4111-8BBA-CB1509726387_w268_r1_cx0_cy24_cw0.jpg"
/><div class="textholder"></div></div>Không thể phủ nhận được giá
trị, sự cần thiết và xu hướng phát triển tất yếu của
dân chủ, giới cầm quyền Việt Nam, và cùng với họ, các cán
bộ tuyên huấn cũng như gần đây, các "dư luận viên"
được trả lương để nói quấy nói quá trên các diễn đàn
mạng, thường tìm mọi cách để trì hoãn tiến trình dân chủ
hóa. Hai lý do thường được đưa ra: Một, mỗi quốc gia và
mỗi nền văn hóa có một mô thức dân chủ riêng; nước này
không có quyền áp đặt mô thức dân chủ của mình lên các
nước khác; và hai, Việt Nam chưa sẵn sàng cho một nền dân
chủ đa đảng kiểu Tây phương.

Lý do thứ nhất, thật ra, là bắt chước từ luận điểm về
các giá trị đặc thù của châu Á (Asia values) của Lý Quang
Diệu, nguyên Thủ tướng Singapore, và Mahathir Mohamad, nguyên Thủ
tướng của Malaysia, trong thập niên 1990. Nội dung của quan
điểm này là: văn hóa Á châu khác hẳn văn hóa Âu châu và
Bắc Mỹ, hoặc, nói cho gọn, Tây phương. Trong khi văn hóa Tây
phương dựa trên Thiên Chúa giáo và tinh thần duy lý của triết
học cổ đại Hy Lạp, văn hóa Á châu dựa trên Phật giáo, Nho
giáo, Lão giáo và Hồi giáo; trong khi nền văn hóa trên được
xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa cá nhân, nền văn hóa
dưới được xây dựng trên nền tảng của tinh thần tập thể
và cộng đồng; trong khi nền văn hóa trên đề cao tinh thần
cạnh tranh, thích đối đầu và nhắm đến tham vọng chinh phục
và khống chế, nền văn hóa dưới đề cao tinh thần hài hòa
và đồng thuận, sẵn sàng hy sinh lợi ích của mình cho cộng
đồng. Hệ quả, về phương diện chính trị, người Á châu
dễ dàng cảm thấy hài lòng dưới những chế độ dễ bị Tây
phương xem là độc tài: Với họ, đó là điều hợp lý và
cần thiết vì nhờ vậy, họ đạt được nhiều mục tiêu
chung, trong đó, quan trọng nhất là sự ổn định và phát
triển.

Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á vào năm 1997
dẫn đến sự suy thoái của nhiều nước, đặc biệt tại
Indonesia, Thái Lan, Hàn Quốc, Hong Kong, Malaysia, Lào và
Philippines… khiến người ta đặt lại vấn đề: Những cái
gọi là tinh thần cộng đồng hay tập thể không bảo đảm
được sự phát triển và ổn định. Sự suy thoái của Nhật
Bản trước đó cũng đã chứng tỏ điều đó. Từ những cuộc
khủng hoảng ấy, người ta nhận thấy: kinh tế và chính trị
có những quy luật riêng, có tính phổ quát, bất kể các dị
biệt về văn hóa; thậm chí, một số giá trị văn hóa mâu
thuẫn với những quy luật ấy có thể bị xem là có hại và
không có lý do gì phải cố duy trì.

Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ và các quốc gia Tây phương
mười năm sau đó (từ 2007) làm cho những sự phê phán vừa kể
dịu lại. Tuy nhiên, nó cũng làm cho các chính khách châu Á
thấy hoang mang và mất tự tin, từ đó, người ta ít nhấn
mạnh một cách quá đáng vào những cái gọi là giá trị đặc
thù của văn hóa Á châu. Ở Việt Nam, giới lãnh đạo và giới
tuyên huấn cũng bớt mạnh miệng.

Thế vào đó, họ nêu lên lý do thứ hai: người Việt chưa đủ
điều kiện để xây dựng một nền dân chủ thực sự và lành
mạnh. Đó là những điều kiện gì? Không ai nói ra một cách
cụ thể, nhưng hầu như ai cũng hàm ý này: Một, trình độ dân
trí còn thấp; và hai, sự chia rẽ, thậm chí, thù hận, còn quá
nặng nề.

Về lý do thứ nhất, trình độ dân trí (có người diễn tả
một cách văn hoa hơn: tinh thần dân chủ), có nhiều vấn đề:

Một, về phương diện lý thuyết, cho đến nay, các nhà nghiên
cứu vẫn chưa tìm được câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi
này: giữa cơ chế dân chủ và tinh thần dân chủ, yếu tố nào
xuất hiện trước và là tiền đề cho yếu tố kia? Một số
người đáp: thể chế cần có trước để làm cơ sở, từ
đó, làm nảy nở tinh thần dân chủ. Một số người khác lại
đáp: cần có tinh thần dân chủ trước, nếu không, mọi thể
chế, dù dân chủ đến mấy, cũng sẽ dẫn đến khủng hoảng
mà hậu quả cuối cùng là làm sụp đổ cái cơ chế dân chủ
vừa mới manh nha. Vấn đề này khá phức tạp, cần nghiên cứu
riêng, do đó, tôi xin tạm gác lại cho một bài khác.

Hai, về phương diện thực tế, có thực trình độ dân trí
Việt Nam còn thấp quá hay không? Ở đây, lại có nhiều vấn
đề: Một, ngay cả khi dân trí Việt Nam còn thấp thì, như
nhiều người đã chỉ, dân trí Việt Nam hiện nay dù sao cũng
cao hơn "quan trí", tức trình độ trí thức của giới lãnh
đạo. Trong trường hợp này, không thể lấy trình độ của
giới lãnh đạo để đo lường trình độ của dân chúng
được. Làm vậy không những sai lầm mà còn là một sai lầm
có tính lừa bịp. Hai, không thể chối cãi là dân trí Việt Nam
chưa cao, nhưng chắc chắn là, nói chung, nó không thể thấp hơn
trình độ dân trí của Mỹ và Pháp trong thế kỷ 19, thời khai
sinh của dân chủ hay trình độ dân trí của nhiều quốc gia Âu
châu trong nửa đầu thế kỷ 20 (ở đây, tôi chỉ nói đến
trình độ dân trí nói chung chứ không so sánh các đỉnh cao,
trình độ của giới ưu tú – elite – trong xã hội giữa các
nước, điều, thành thực mà nói, về nhiều phương diện,
chúng ta vẫn còn thua khá xa!)

Ba, nếu trình độ dân trí Việt Nam thấp thật thì đâu là
nguyên nhân của sự thấp kém ấy? Không nên quên, ở Việt Nam,
đảng Cộng sản đã bắt đầu cầm quyền từ năm 1945: đến
nay, đã gần 70 năm. Nếu tính, chỉ ở miền Bắc: đã 60 năm.
Muộn hơn, trong cả nước: gần 40 năm. Một chế độ lúc nào
cũng tự nhận là đỉnh cao của trí tuệ và lúc nào cũng huênh
hoang về các cuộc cách mạng do họ tiến hành, từ cách mạng
quan hệ sản xuất đến cách mạng văn hóa tư tưởng và cách
mạng khoa học kỹ thuật, tại sao lại có thể để cho dân trí
cứ thấp lè tè và lẹt đẹt mãi như vậy? Đổ lỗi cho chiến
tranh ư? Nhưng chiến tranh cũng đã kết thúc gần 40 năm rồi.
Vậy, tại sao? Chỉ có một trong hai lý do: hoặc họ bất lực
trong việc nâng cao dân trí hoặc họ cố tình kiềm hãm sự
phát triển của dân trí bằng các chính sách ngu dân thâm độc?

Về lý do thứ hai, sự thù hận, ai cũng đồng ý: đó là một
sự thật. Một trong những di sản lớn nhất của chiến tranh
là thù hận. Chiến tranh càng kéo dài, thù hận càng sâu sắc.
Ở đâu cũng vậy. Nhưng lại cũng không nên quên: chiến tranh
Việt Nam đã kết thúc gần 40 năm rồi. Cho đến bây giờ,
thành thực mà nói, rất hiếm người thù hận vì chiến tranh.
Người ta thù hận vì những gì xảy ra sau chiến tranh: các
chính sách cướp bóc cũng như trả thù của chính quyền đối
với những người thua trận. Phong trào vượt biên dấy lên ào
ạt là vì những chính sách ấy chứ không phải vì chiến tranh.
Nếu không có các vụ tịch thu tài sản, đuổi đi kinh tế mới
cũng như các vụ học tập cải tạo kéo dài đằng đẵng và
sự kỳ thị đối với con cái những người bị bắt đi cải
tạo, có lẽ không mấy người cảm thấy thù hận.

Sự thù hận trong chiến tranh là điều có tính chất gần như
số phận: đã có chiến tranh thì có thù hận, không thể khác
được. Nhưng những sự thù hận sau chiến tranh thì lại là
một lựa chọn của chính quyền. Có thể nói, trong hơn nửa
thế kỷ vừa qua, đảng Cộng sản Việt Nam có hai sai lầm
lớn: Một, phát động chiến tranh một cách không cần thiết
sau Hiệp định Geneva; và hai, kết thúc cuộc chiến tranh một
cách hẹp hòi và thiển cận. Sự thù hận mà người ta hay nói
hiện nay chính là hệ quả của cả hai sai lầm ấy.

Hơn nữa, cho dù vấp phải hai sai lầm dẫn đến thù hận vừa
kể, đảng Cộng sản và nhà cầm quyền Việt Nam cũng có thừa
thời gian và thừa cơ hội để xóa bỏ sự thù hận ấy, nếu
họ muốn. Gần 40 năm: gần hai thế hệ. Ở Nam Phi, khi Nelson
Mandela lên cầm quyền vào năm 1994, chỉ một thời gian ngắn
sau, mọi thù hận giữa người da đen và da trắng chấm dứt.
Ở Việt Nam, nếu chỉ tính từ năm 1986, lúc phong trào đổi
mới được phát động, nếu chính quyền có thực tâm hòa hợp
và hòa giải, trong vòng 30 năm, họ có thể xóa bỏ hoặc ít
nhất, làm nguôi ngoai sự thù hận ấy rất nhiều.

Trên nguyên tắc, sự thù hận bao giờ cũng là cảm giác của
các nạn nhân, nghĩa là, của những người thua cuộc. Bị đè
nặng bởi cảm giác thù hận, các nạn nhân làm nạn nhân đến
hai lần: nạn nhân của bạo lực và, cùng lúc cũng như sau đó,
nạn nhân của sự thù hận. Tính-nạn-nhân chỉ có thể được
chấm dứt từ một trong hai, hoặc từ cả hai nguồn: sự bao
dung của chính họ hoặc thiện chí của những người gây ra
khổ nạn cho họ. Bao dung không, thật ra, không đủ. Sự bao dung
có thể kéo dài tính-nạn-nhân thay vì chấm dứt nó. Sự bao
dung chỉ có ý nghĩa khi nó đi kèm với thiện chí của tội
phạm đồng thời là những kẻ đang nắm giữ quyền lực.
Nelson Mandela chỉ chấp nhận hòa hợp hòa giải với chính
quyền do người da trắng cầm đầu chỉ với điều kiện:
chính quyền phải chấp nhận người da đen và sẵn sàng chia
sẻ quyền lực với những người da đen.

Bởi vậy, sự thù hận của những người Việt Nam ở hải
ngoại hay ở miền Nam, nếu có, không phải tự họ, xuất phát
từ họ. Mà là từ phía chính quyền: chính quyền hoàn toàn
không có bất cứ một chính sách hòa giải thực sự nào cả
trừ những câu nói đãi bôi và giả dối. Khi chính quyền vẫn
tiếp tục kỳ thị, tiếp tục trấn áp những người bất
đồng chính kiến thì chính quyền đang nuôi dưỡng sự thù
hận. Khi cho sự thù hận là nguyên nhân làm trì hoãn tiến
trình dân chủ, nhà cầm quyền cũng thừa nhận: chính mình là
nguyên nhân gây ra tình trạng trì trệ của dân chủ.

Có thể nói, khi cho trình độ dấn trí thấp và sự thù hận
giữa người Việt Nam là những lý do chính để trì hoãn dân
chủ, nhà cầm quyền Việt Nam đang tự buộc tội chính mình.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140212/nguyen-hung-quoc-ai-kim-ham-dan-chu),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét