Pages

Đào Tuấn - Hoa đào biên viễn: Biên giới, Hồi ức 35 năm (bài 1)

<blockquote><strong>Dân Luận:</strong> Chùm phóng sự đặc sắc
của Đào Tuấn viết về chiến tranh biên giới Việt - Trung
trên báo Một thế Giới và vừa bị gỡ xuống chỉ sau vài
giờ đăng tải. Loạt phóng sự này gồm ba phần có tựa
đề "Biên giới, hồi ức 35 năm", "Đồng chí với nhau, ai nghĩ
sẽ đánh nhau" và "Bia trấn ải - nơi tổ quốc được tô màu
đỏ"; với nhiều phỏng vấn các nhân chứng của cuộc
chiến
</blockquote>


<center><img
src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj17eNjZ4v0X3eVVfS7Z4ELE-W2l7gcb3hWW-aUFWEaGzlR-bcRTlYWwVusWbposfPFsWTaXgIpgbShm_54Nat56eSeRUgEnfr0gfx6AUAOF9PQGeZWegAlgjddbp24L8Jgn-mGS51ywIV2/s1600/A_QJYB.jpg.ashx.jpg"
width="560" /></center>
<strong>
Bài 1: Biên giới, hồi ức 35 năm</strong>

Tháng 2 năm nay, những cây đào Tổng Chúp, Hưng Đạo, Cao Bằng
bỗng dưng đỏ loét trong cái nắng trái mùa. Trên đồn biên
phòng Pha Long, Lào Cai, thật lạ, chỉ duy nhất một gốc đào
đơm hoa. Còn ở pháo đài Đồng Đăng, Lạng Sơn, những cây
đào khoe sắc vô duyên bên nền đá xám xịt và lau lách tùm lum
của một pháo đài hoang phế đã đi vào quên lãng.

<b>Một số phận</b>

Trong ngôi nhà nhỏ ở dốc cầu Nà Rụa, phường Tân An, Cao
Bằng, bà Nguyễn Thị Quỳ cũng có một cành đào nhỏ trước
ban thờ chồng, người 35 năm trước bất đắc dĩ trở thành
"tù binh chiến tranh".

Câu chuyện liên tục ngắt quãng khi đôi vai của người phụ
nữ nhỏ nhắn run lên bần bật trước những hồi ức từ 35
năm trước. Chiến tranh đã lấy đi của bà một đứa con. Và
sau 35 năm, vết thương ấy chưa bao giờ lành khi hàng đêm, hình
ảnh đứa nhỏ tím tái chết trong mưa lạnh vẫn ùa về như
một nỗi kinh hoàng không bao giờ phai nhạt.

"Cô sinh cháu và gói trong một chiếc áo. Và rồi đó cũng
là chiếc áo liệm"- người cựu binh chống Mỹ khốn khổ
đưa tay lên dụi mắt.

Sáng 17.2.1979, trời rất mù và lạnh. Từ thị trấn Nước
Hai, bà Quỳ chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ chạy loạn khi
tiếng pháo của lính Trung Quốc "như bom Mỹ rải thảm"
khắp nơi. Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, người sản phụ
khốn khổ đang mang thai đến tháng thứ 9 chỉ còn biết vác
bụng lặc lè để chạy.

"Cô chạy vào núi đá Mỏ Hách. Rồi từ Mỏ Hách chạy sang
Đại Tiến. Chạy ngược với tiếng pháo". Đám người chạy
loạn bị lính Trung Quốc phát hiện, truy đuổi, và lại tứ
tán khắp nơi. "Chúng nó đông lắm cháu ơi! Đâu đâu cũng
thấy lính Trung Quốc".

Trong gần một tuần lễ trốn trên động đá, bà Quỳ đau
đẻ trong cái đói, trong cái rét, trong trời mưa lạnh, trong
tối tăm mò mẫm. Không một hạt gạo mang theo. Không một tấm
chăn. Cả đám người đói khát, rét mướt và lo sợ đến
hoảng loạn. Chỉ ngay phía dưới, lính Trung Quốc đông lúc
nhúc, vây hãm khắp nơi.

Những con người khốn khổ lấy nước bằng cách hứng từ
giọt gianh trong một tấm nilon rộng chừng 2 bàn tay. Ăn tất
cả những gì mà ban đêm mấy người đàn ông mò mẫm được
từ bờ cây, gốc sắn… ngay sát nơi lính Trung Quốc dựng
trại.

Đến hôm đau đẻ, bà được đồng bào gom cho thìa đường
cuối cùng, hòa với vốc nước "để có sức mà đẻ".
Đứa con đầu lòng được sinh ra trong hang đá nhưng 3 hôm sau
thì qua đời.
<center>
<img
src="http://motthegioi.vn/uploaded/anhdu/2014_02_12/anh%2044_ikvc.jpg.ashx?width=600"
width="560" /></center>
<center><em> "Cô sinh cháu và gói trong một chiếc áo. Và rồi
đó cũng là chiếc áo liệm"- người cựu binh chống Mỹ khốn
khổ đưa tay lên dụi mắt. Những giọt nước mắt mờ đục
lăn dài trên khuôn mặt "một ngàn nếp nhăn" tưởng chừng
đã không còn có thể đau khổ được nữa: "Lúc đó cô yếu
quá, bỏ mấy đồng nhờ một ông già mang cháu đi. Chắc vứt
nó ở một đâu đó".
</em></center>
Nhưng bi kịch chưa dừng lại ở đó. Đêm ngày 25.2, người
chồng nửa đêm đi kiếm ước uống bị sa vào tay lính Trung
Quốc. Ông bị giam giữ cho đến ngày 3.6 và từ sau đó, những
đồng nghiệp của ông ở Ty Thể thao Cao Bằng cho biết ông
bỗng dưng có thói quen ăn cơm với nước lã.

Còn bà Quỳ, quãng thời gian trong động đá và cái chết bi
thảm của đứa con đầu lòng khiến bà trở nên trầm uất
suốt 3 tháng. Tuyến sữa viêm tắc khiến sau đó người phụ
nữ khốn khổ phải cắt đi một bên ngực.

35 năm, bằng đấy thời gian chưa đủ để bà Quỳ quên đi
hình ảnh đứa con đầu lòng chết tím tái. "Đau xót lắm
cháu ơi. Cô đi cúng, Thầy bảo nó không có nhà, lang thang ở
một gốc cây nào đó"…

Không chỉ Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, cả thị xã Cao
Bằng lỗ chỗ tổ ong như vừa trải qua "một trận B52 mặt
đất", không còn thứ gì cao quá 1m. Bách hóa tổng hợp, một
biểu tượng của Cao Bằng bị hủy hoại đến không còn một
viên gạch lành.

Chị Hoài Phương, phóng viên của Đài truyền hình Cao Bằng,
năm đó 9 tuổi, đến giờ vẫn không thể quên hình những xác
người bị súng phun lửa đốt cháy trên mặt đất. Khắp nơi.

Ông Nguyễn Duy, Phó Chủ tịch Hội cựu chiến binh Hòa An nhớ
lại: Đến ngày 20.3, cả thị xã vẫn như một đụn khói lớn.
Chiều 29.3. Không một chiếc xe, không một người dân đi trên
đường. Kho lương thực còn cháy nghi ngút. Thị xã tan hoang khi
lính Trung Quốc trước khi rút đã ốp mìn giật đổ từng cây
cầu, từng cột điện. Cái gì lấy được thì lấy hết. Cái
gì không lấy được thì phá hết.

<b>Khi giặc đến nhà</b>

Ngày 17.2.1979, Trung Quốc đã dùng một lực lượng quân sự
chính quy lên tới 60 vạn quân tấn công Việt Nam trên khắp
chiều dài 1.200 km biên giới 6 tỉnh phía Bắc. Cao Bằng chính
là một trong những trọng điểm đánh phá của quân đoàn 41A
với sự tham gia của xe tăng và pháo binh.

Theo nhận định của Xiaoming Zhang trong một nghiên cứu đăng
trên tạp chí China Quarterly tháng 12.2005, cuộc tấn công của
Trung Quốc phụ thuộc phần lớn vào việc nhanh chóng chiếm
được Cao Bằng.

Nhưng hai mũi tấn công không đến được mục tiêu trong vòng
24 tiếng. Khu vực đồi núi cùng kháng cự của dân quân Việt
Nam tạo ra khó khăn lớn. Việc đi chậm khiến Xu Shiyou, lãnh
đạo cánh quân Quảng Tây, phải hoãn cuộc tấn công vào Cao
Bằng, mặc dù phó tướng Wu Zhong đã đến sát thành phố này
ở mạn phía đông và nam.

Trong một bài phát biểu được nhà nghiên cứu Dương Danh Hy
dịch ra tiếng Việt ít năm trước, nhà lãnh đạo Trung Quốc
khi đó là Đặng Tiểu Bình đã xác nhận đó là cuộc chiến
"giết gà đã phải dùng dao mổ trâu". Cụ thể "vũ khí, quân
số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí
ít là năm đánh một, sáu đánh một, chiến đấu ở Lạng Sơn,
Lào Cai cũng đều gấp mấy lần, thậm chí sáu đánh một, bảy
đánh một".

Vì sao ở Cao Bằng, chiến tranh lại đồng nghĩa với tàn phá
như vậy?

Trang mạng quân sự <a href="http://milchina.com/"
target="_blank">milchina.com</a> của Trung Quốc 3 năm trước đã cho
đăng thư của một cựu chiến binh Trung Quốc từng tham gia
chiến tranh biên giới 1979 phần nào giải thích lý do: "Mục
đích của cuộc chiến tranh này là tàn phá, hủy hoại quốc
lực của Việt Nam chứ không phải là chiếm lĩnh lãnh thổ,
nên sau hai ngày đánh nhau, lính tham chiến bắt đầu chấp hành
mệnh lệnh bán chính thức là "không bắt tù binh",
"không để lại cho Việt Nam một lá cây ngọn cỏ".


<b >Cho đến cuối cuộc chiến tranh, ở Cao Bằng "không ai
theo địch, không ai đầu hàng, không ai phản bội"- giọng
người cựu bí thư tỉnh ủy rưng rưng nước mắt. </b><b >Bao
đời nay vẫn vậy, mỗi khi giặc đến nhà thì mỗi một
người dân chính là một người lính.</b>

Ông Vương Dường Tường, nguyên bí thư tỉnh ủy Cao Bằng
giai đoạn 1979-1992 nhớ lại: Bấy giờ, tình trạng tranh chấp,
lấn chiếm và vấn đề người Hoa đã khá căng thẳng, nhưng
không ai nghĩ là chiến tranh xảy ra. Chủ trương của ta là đưa
thanh niên ra biên giới tổ chức các lâm nông trường. "TƯ
xác định cũng phải đề phòng, nhưng là phòng xích mích biên
giới thôi"- ông Tường nói.

Tỉnh ủy Cao Bằng bấy giờ chủ trương đưa một số bộ
đội về một số xã để củng cố đội ngũ cán bộ. Quân
đội không có ở Cao Bằng. Lực lượng công an vũ trang chỉ có
ở cấp tỉnh chứ cấp huyện là không có người. Cả thị xã
bấy giờ chỉ có 1 một trung đoàn bộ đội địa phương
(E567), nhưng cũng chủ yếu là làm kinh tế. Đến đội ngũ dân
quân tự vệ, "có thì có đấy, căng thì căng như thế nhưng
đã được phát súng đâu". Thậm chí khi chiến tranh đã nổ
ra, có thêm một sư đoàn được thành lập, nhưng lúc đó cũng
chưa có quân".

<center><img
src="http://motthegioi.vn/uploaded/anhdu/2014_02_12/anh%202_nquv.jpg.ashx?width=600"
/></center>
<em><center>Ông Vương Dường Tường, nguyên bí thư tỉnh ủy Cao
Bằng </center></em>

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng Trần Hùng, thời điểm 1979
đeo quân hàm trung sĩ, tiểu đoàn 40 Bộ đội địa phương còn
nhớ như in là khi xe tăng Trung Quốc vượt cầu Sông Hiến vào
đến tận dốc Nà Toòng, đại đội 3 phòng không của trung
đoàn 567 phải thay đạn, chúc nòng pháo 37 ly xuống để bắn xe
tăng bằng đạn xuyên.

Chính ông Hùng là một trong những người đầu tiên chạy bộ
đạp lá sa mộc đến bên xác xe tăng còn nghi ngút khói.

"Chúng tôi chỉ có 3 khẩu súng AK để bảo vệ trận
địa", ông Hùng nói, "về sau, khi lính Trung Quốc lên quá
đông, đơn vị đã phải tháo súng (pháo) để rút".

Theo Xiaoming Zhang, đến ngày 23.2, Trung Quốc mới chiếm được
Cao Bằng sau khi nhận ra nơi này chỉ có một số lượng nhỏ
quân Việt Nam cố thủ. Nhưng sự chậm chân khi chiếm Cao Bằng
đã ngáng trở kế hoạch ban đầu của Trung Quốc, vốn nhấn
mạnh việc tác chiến nhanh và quyết liệt.

Cao Bằng có gì để chống lại 6 sư đoàn chính quy với xe
tăng và pháo binh yểm trợ?

"Dân Cao Bằng sẵn biết Trung Quốc rồi. Ở đâu cũng đánh,
gặp đâu cũng đánh, ai cũng đánh. Một, hai người cũng đánh.
Chặn khắp nơi"- ông Vương Dương Tường nói.

Ở Hòa An, dù lúc đó mất hoàn toàn liên lạc, một nhóm cựu
binh vẫn tự tập hợp nhau lại lập chốt đánh địch. Nhặt
được cái gì thì đánh được bằng cái đó. Ở Trà Lĩnh,
Quảng Hòa, Hà Quảng đều có những chốt đánh địch như
vậy.

Người Cao Bằng sau phút bất ngờ đã chủ động trở lại.
Cho đến cuối cuộc chiến tranh, ở Cao Bằng "không ai theo
địch, không ai đầu hàng, không ai phản bội"- giọng người
cựu bí thư già rưng rưng. Bao đời nay vẫn vậy, mỗi khi giặc
đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người lính.

Tháng 2 năm nay, trên nền bách hóa tổng hợp bị đánh sập
năm xưa, một siêu thị mới đã được dựng lên, cho dù
người Cao Bằng vẫn gọi đó là Tổng Hợp Đổ.

Còn người nữ cựu binh Nguyễn Thị Quỳ, đến giữa câu
chuyện, bỗng bất ngờ hỏi lại chúng tôi: "Sao các cháu
không hỏi vì sao tháng 2 năm ấy cô không đi tìm một cây súng?
Và rồi, bà quả quyết tự trả lời: "Năm xưa, cô phải
chạy giặc vì lúc đó đang mang bầu, không muốn ảnh hưởng
đến anh em đồng chí. Còn nếu bây giờ giặc đến nhà, cô
sẽ tìm một khẩu súng. Nếu cô già yếu không đánh được,
những đứa con của cô sẽ cầm súng".

Con gái bà, một cô gái niềng răng sinh năm 1988 sau đó nói
sẽ đưa chúng tôi vào Tổng Chúp, dù ở Cao Bằng, không còn
nhiều người biết đến những gì xảy ra tại Tổng Chúp 35
năm trước, dù theo lời cô bé: "nơi đó giờ đã hoang vắng
lắm rồi anh ạ".




***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140213/dao-tuan-hoa-dao-bien-vien-bien-gioi-hoi-uc-35-nam-bai-1),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét