Pages

Lỗ Trí Thâm - Hà Nội - Tháng Chạp 72

Cách đây 40 năm xảy ra trận chiến trên không ác liệt trên
bầu trời Hà Nội. Đã qua lâu rồi mà báo chí trong nước vẫn
dùng phương pháp tuyên truyền kiểu chiến tranh lạnh cho rằng
Mỹ thua trên trời ở Hà Nội mới phải ngồi lại bàn đàm
phán Paris còn phía Mỹ cho rằng chỉ ném bom B52 mới kéo Hà
nội ngồi lại bàn hiệp định ngừng chiến. Bài viết này cố
gắng trình bày một cách khách quan những gì xảy ra lúc đó.

Trận chiến trên không xảy ra vào tháng 12, đúng vào những
ngày lễ chuẩn bị Giáng Sinh năm 1972 cho nên báo chí phương
Tây đặt tên là "Quà Giáng Sinh bằng bom" hay "Khủng bố
nhân danh Đức Chúa Trời" còn phía Bắc VN gọi là "Điện
Biên Phủ trên không" hay "Hà nội 12 ngày và đêm". Và tên
chính thức là "Linebacker II"

<h2>Bối cảnh xảy ra trận chiến:</h2>

Miền Nam dưới chế độ VNCH vào cuối năm 1967 đang trong thời
kì thịnh vượng nhất. Chiến sự tương đối im lặng, kinh tế
dồi dào, cuộc sống thanh bình, hàng hoá rẻ nhiều, sinh hoạt
văn hoá rất sôi động. Không phải ngẫu nhiên lúc đó gọi
Sài gòn là hòn ngọc Viễn Đông. Nhiều mặt hàng của Nhật
giá ở Sài Gòn còn rẻ hơn ở Nhật. Và tất nhiên chính quyền
Mỹ không chớp cơ hội đó tự hào khoe với dân đóng thuế Hoa
Kì sự thành công của thế giới tự do dưới ngọn cờ của
Mỹ.

Nhưng bất ngờ, lợi dụng sự thỏa thuận ngừng bắn dân dịp
lễ Tết Cổ truyền thiêng liêng của dân tộc, Bắc Việt nam
đánh úp trên toàn bộ lãnh thổ Nam VN, mở đầu cho chiến
dịch Tết Mậu Thân 1968. Tôi vẫn còn nhớ, Bố tôi lúc đó
thốt lên: Cộng sản đểu thật, giả vờ ngừng bắn, lợi
dụng tiếng pháo giao thừa nhập nhằng nổ súng gây bất ngờ.

Sự kiện Tết Mậu Thân đã phơi bầy sự thật phũ phàng cho
cả hai phía : Mỹ và miền Bắc cộng sản.

Trước hết về phía miền Bắc cộng sản. Ban lãnh đạo miền
Bắc đã ngây thơ cả về chính trị lẫn quân sự.

Trước hết về ngây thơ chính trị.Họ phát động một chiến
dịch "Tổng tiến công và nổi dậy giành lại chính quyền "
trong bối cảnh chiến tranh lạnh đang trong thời cao điểm, trong
đó miền Nam VN là một mắt xích quan trọng trong hệ thống cân
bằng chiến lược cho cả hai phe, đóng vai trò khu đệm an toàn,
cùng với Đông Đức, Bắc Triều tiên bao quanh hệ thống XHCN.
Do đó mất miền Nam đồng nghĩa với việc làm suy chuyển thế
chiến lược toàn cầu, tạo hiệu ứng đôminô đối với Mỹ.
Do đó bảo vệ miền Nam lúc đó là quyền lợi sống còn, không
những với Mỹ mà còn với với các nước tư bản khác. Nếu
Mỹ lúc đó một mình không làm nổi thì sẽ có các nước khác
nhảy vào như Úc, Nam Hàn... Do vậy, Cộng sản cưỡng chiếm
miền Nam lúc đó là điều không tưởng, nếu không nói là dùng
mạng sống của người lính miền Bắc thỏa mãn tính phiêu lưu
của mình.

Nên nhớ là Tổng tấn công Tết Mậu Thân không phải do một
cá nhân, Hồ Chí Minh, Lê Duẩn hay Võ Nguyên Giáp phát động mà
là quyết định của Hội nghị Trung Ương lần thứ 14.Đành
rằng phần lớn những ủy viên TW xuất thân từ nông dân và
trưởng thành trong chiến tranh nên tầm nhìn chiến lược có
phần hạn chế, thế nhưng những người đứng đầu như cụ
Hồ, Trường Chinh hay Võ nguyên Giáp lại không có cái nhìn
tổng thể????

Một điều không kém phần quan trọng là Cộng sản miền Bắc
là nạn nhân cho chính sự tuyên truyền của họ. Bộ máy tuyên
truyền luôn luôn rêu rao là đồng bào miền Nam chịu sự áp
bức kìm kẹp dã man của Mỹ Ngụy và trong Chiến dịch có
phần chính là kêu gọi toàn dân miền Nam nổi dậy cướp chính
quyền từ tay Mỹ Ngụy. Điều trớ trêu là khi chiến sự nổ
ra, đồng bào miền Nam hoặc bỏ chạy hoặc sát cánh cùng chính
quyền Ngụy chống trả quân ta hết sức mãnh liệt.

Ngây thơ về quân sự thì quá rõ. Bộ đội Bắc Việt xưa cò
cưa với quân đội Mỹ được là do lợi dùng địa hình rừng
núi đánh kiểu du kích, đánh rút bất ngờ tập kích rồi rút.
Nay phải phơi mặt ra đường phố, dùng chiến tranh hiện đại
mà trang bị chỉ có AK47 và B40, vài quả đạn cối trong khi đó
phía Mỹ có cả bộ máy quân sự khổng lồ, Máy bay thiết giáp
hạm đội... Chưa nói muốn giải phóng tức là phải giữ
được mục tiêu, tức là vấn đề hậu cần tiếp tế về
người, đạn dược và lương thực. Cái này thì phía Bắc
Việt hầu như là con số không. Có lẽ những nhà quân sự Bắc
Việt nghĩ rằng toàn dân miền Nam nổi dậy cướp chính quyền
như hồi 1945. Nhưng ở ngoài Bắc họ quên rằng người miền
Nam đã có chế độ mới, họ là công dân của VNCH.

Còn về phía Mỹ, qua Sự kiện Mậu Thân đã phơi bầy sự
thật với nhân dân Mỹ, cái gọi là tình hình ổn định phồn
vinh của Nam VN là giả tạo mặc dù Mỹ đã tổn bao nhiêu đôla
súng đạn và cả xương máu của con em họ.Và phong trào chống
sự can thiệp của Mỹ vào Đông dương ngày càng dâng cao,
nhiều lúc làm tê liệt cả cuộc sống bình thường nước Mỹ.

Qua Mậu Thân, tuy phía cộng sản thất bại hoàn toàn nhưng Mỹ
nhận ra không thể ổn định được tình hình lâu dài và cũng
không bao giờ mãi mãi dùng quân sự để ổn định được tình
hình nếu không có giải pháp chính trị, tức là nói chuyện
với đối phương. VÀ phía cộng sản cũng nhận ra rằng, chẳng
bao giờ "Giải phóng" được miền Nam, nếu Mỹ vẫn còn
đó, cuộc hội đàm Paris bắt đầu từ đó.

Chi tiết hội đàm Paris rất dài, tôi chỉ nói vắn tắt để
khỏi mất thời gian các bạn. Nếu có thời gian tôi sẽ viết
vào dịp khác, nó sẽ khác chứ không giống như báo chí trong
nước tự sướng khi viết về cuộc Hội đàm này.

Trước hết hội đàm chỉ có Bắc VN và Mỹ , sau có thêm VN
Cộng Hoà và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hoà miền Nam
Việt nam.Khi bốn bên gặp nhau thì chỉ là cãi vả vô bổ nên
Mỹ và Bắc VN thỏa thuận gặp gỡ riêng , bí mật và phía VNCH
lo sợ Mỹ sẽ đi đêm với cộng sản và quả đúng như vật,
và đó cũng là nguyên nhân chính cuộc rải thảm B52 vào Hà
nội 1972.

Hội đàm bí mật Kissinger/Lê đức Thọ đi đến chỗ bí tắc.
Phía Mỹ đòi hỏi miền Nam ổn định trung lập lâu dài và
phía Bắc Việt cũng tương tự nhưng với điều kiện Mỹ phải
chấm dứt hoàn toàn sự can thiệp vào VN và ngược lại, Mỹ
cũng đòi Bắc Việt nam phải hoàn toàn không dính líu vào Nam
VN. Phía Bắc VN một mặt giằng co trong đàm phán mặt khác gia
tăng những cuộc chiến. Phía Mỹ vào thế kẹt vì một mặt
bị làn sóng phản chiến trong nước, chiến tranh sa lầy tốn
kém có nguy cơ tụt hậu so với Liên Xô.

Nhưng Kissinger đã tìm được lối thoát tuyệt vời cho nước
Mỹ. Ních Xơn bắt tay Mao Trạch Đông ở Bắc kinh vào năm 1972.
Bài toán chiến tranh lạnh tốn kém nhiều xương máu ở Nam VN
được giải quyết nhẹ nhàng và còn hơn sự mong đợi của
Mỹ, vừa giải được bài toán VN vừa phá tung được hệ
thống XHCN. Và từ đây, MỸ quyết đinh bỏ rơi Nam VN và
đương nhiên, cuộc hội đàm Paris chỉ còn là những thủ tục
dể Mỹ rút lui trong danh dự và điều dẽ hiểu là tự nhiên
Mỹ chấp nhận gần như hoàn toàn những gì mà Lê Đức Thọ
đưa ra trước đó.

Đầu tháng 10/1972, Lê Đức Thọ và Kissinger đã thoả thuận và
đồng ý một khung hiệp định và kí tắt, trong đó nêu rõ:

Mỹ sẽ rút toàn bộ quân đội và chấm dứt can thiệp quân
sự ở VN, trao đổi tù binh và Mỹ sẽ bồi thường chiến tranh
cho cả hai miền Nam và bắc VN. Miền Nam VN sẽ có giữ nguyên
hiện trạng có hai quân đội là của VNCH và của Chính phủ
cách mạng lâm thời CHMNVN, hoàn toàn không đả động đến
việc rút bộ đội miền Bắc. Sẽ thành lập chính phủ miền
nam VN gồm 3 thành phần: Quốc gia, Mặt trận giải phóng và
thành phần thứ ba. Sẽ thành lập hội đồng tối cao hoà hợp
hoà giải dân tộc.

Như vậy là phía Mỹ chấp nhận hoàn toàn yêu sách của bắc VN
mà từ lúc đầu bắc VN yêu cầu, chỉ khác có điểm nhỏ là
không yêu cầu Nguyễn văn Thiệu từ chức nữa. Báo chí cộng
sản ca ngợi tài đám phán của Lê đức Thọ nhưng sự thực
là sự thành công nằm ở yếu tố bên ngoài, đó là Mỹ đã
nắm được con bài Trung Quốc và nam VN bây giờ trở thành vô
nghĩa trong chiến lược của Mỹ, càng rút ra nhanh càng tốt. Và
lịch sử đã chứng minh, cho đến giờ phút này, con bài TQ đã
làm cho VN điêu đứng thế nào.

Kissinger bay qua Sài Gòn báo lại nội dung hiệp định cho Nguyễn
văn Thiệu, nhưng bị phán đối kịch liệt. Họ cho rằng, phía
Mỹ đã thoả thuận với cộng sản không bàn trước với họ,
bán đứng VNCH.

Nguyễn văn Thiệu đòi sửa đổi lại hiệp định đã kí tắt,
trong đó muốn ghi rõ:" Miền Nam VN là một quốc gia độc lập
riêng rẽ, có chủ quyền. Vĩ tuyến 17 sẽ là biên giới quốc
gia phải được quốc tế công nhận" chứ không không phải
là ranh giới hành chính tạm thời như trong hiệp định Giơ ne
vơ. Qua điều đó cho ta thấy tính liều mạng của Nguyễn văn
Thiệu. Có lẽ không một chính trị gia nào trên thế giới, dù
điên rồ đến mấy, cũng không dám thò bút kí một hiệp
định chia đôi đất nước mình ra như thế.

Khi Sài Gòn đưa những sửa đổi hiệp định ra công chúng thì
bắc VN cho rằng phía Mỹ lật lọng liền công bố toàn bộ
thoả thuận bí mật cho toàn thế giới biết. Kissinger và Nich
xơn mắc kẹt giữa chính quyền Sài Gòn và, nhất là áp lực
trước quốc hội, khi mà trước đó đã long trọng tuyên bố
"Hoà bình trong tầm tay". Ních xơn đề nghị cử chuyên gia
hai đoàn bàn thảo lại hiệp định trong đó có: Vĩ tuyến 17
là biên giới quốc gia, Rút bộ đội miền Bắc và ủy ban
quốc tế giám sát ngừng bắn.

Trước những đòi hỏi như vậy nên phái đoàn Bắc Việt bỏ
họp không đàm phán và cũng không đưa ra ngày gặp lại. Ních
Xơn không còn thời gian nữa vì áp lực chính trị trong thượng
viện vào tháng tới, nên ra tối hậu thư, trong vòng 72 giờ, Hà
nội phải quay lại bàn đàm phán không sẽ hứng hậu quả
nghiêm trọng. Và vị tổng thống Mỹ đã ra lệnh lần đầu
tiên trong lịch sử chiến tranh dùng máy bay B52 rải thảm với
cường độ lớn vùng đông đúc dân cư miền Bắc VN. Ở Mỹ
lúc đó gọi Ních xơn là kẻ điên rồ. Trong hồi kí của mình,
Kissinger viết là những ngày buồn bã nhất trong đời mình.

Cuộc rải thảm bằng B52 ở Hà nội về quân sự thì không có
ý nghĩa gì. Mỹ là từng đánh phá hơn 10 năm mà không lay
chuyển được đối phương thì có vài chục ngày có ý nghĩa
gì. Nhưng chiến dịch Linebacker II này có ý nghĩa chính trị
lớn lao, nó nhằm thuyết phục Nguyễn văn Thiệu yên tâm kí
hiệp định vì chứng minh rằng Mỹ sẽ sẵn sàng dùng biện
pháp mạnh, tàn bạo khi đối phương vi phạm lệnh ngừng bắn.

Khi Nich Xơn ra tối hậu thư, Hà nội đã hiểu là Mỹ làm thật
và ra lệnh sơ tán toàn bộ dân ra khỏi thành phố. Quân khu
thủ đô đã dùng ôtô và máy phóng thanh đi từng khu phố kêu
gọi ai không có nhiệm vụ phải rời khỏi Thành phố ngay lập
tức và dùng ôtô chuyên chở dân ra khỏi thành phố, một việc
mà suốt cả thời gian chiến tranh chưa từng làm.

Ngày 18/12/1972, ngay từ 4 giờ chiều, Bộ tư lệnh Phòng không
Không quân đã điện xuống cho các đơn vị, đêm nay có thể
B52 sẽ bay vào HÀ Nội và Hải Phòng. Và ban đêm, bộ đội binh
chủng ra-đa đã báo chính xác trước 25 phút: B52 đang bay vào
Hà nội.

Cần phải nó lại rằng, trong cuộc chiến bằng không quân
đánh phá miền Bắc, hệ thống tình báo của Bắc VN hoạt
động khá hữu hiệu. Có những đơn vị bộ đội tên lửa hay
pháo cao xạ ăn cơm chiều xong tự nhiên rút quân kéo pháo đi
nơi khác thì y như rằng tối hôm đó chỗ đó bị máy bay Mỹ
bỏ bom. Sự tác chiến khoa học bài bản của không quân Mỹ
cũng bị phía đối phương lợi dụng triệt để: Trước khi
lên kế hoạch cho phi vụ, thường cho máy bay trinh sát bay thám
thính mục tiêu trước, do đó chỉ cần để ý lộ trình của
trinh sát là biết mục tiêu nào hôm nay trong tầm ngắm. Hay sau
mỗi đợt bỏ bom là máy bay trinh sát đi thị sát lại mục
tiêu kết quả đánh phá, nên khi máy bay này bay qua là biết
hết đợt tấn công.

Diễn biễn của trận chiến 12 ngày đêm, đề nghị các bạn
xem trên mạng, rất nhiều tài liệu. Tôi chỉ viết những
điều chưa ai viết để đỡ mất thời gian.

Điểm yếu của B52 là thời gian khởi động ở mặt đất rất
lâu, do đó dễ bị tình báo đối phương phát hiện. Do trọng
lượng nặng lại phải bay đường dài nên thùng chứa nhiên
liệu rất lớn. Khi bay vào Hà nội lại vào ban đêm nên khi bị
trúng tên lửa nó như một bó đuốc đốt sáng cả bầu trời,
gây tâm lí khủng hoảng tinh thần rất lớn cho phi công các máy
bay còn lại và ngược lại gây kích thich phấn chấn cho đối
phương. Những ai ở Hà Nội những đêm đó không thể quên
được cảnh bầu trời sáng rực bởi tên lửa từ khắp các
hướng bay lên trên trời và từ trên trời xa thẳm, bó đuốc
của B52 bị cháy rơi trùm to như một đám mây. Người HN lúc
đó hoàn toàn không có cảm giác sợ sệt. Sự thành công của
những người cộng sản là khôn khéo biến cuộc nội chiến
thành cuộc đối đầu giữa người Việt với Mỹ, kích thích
tinh thần chống ngoại xâm, nhất là dân ngoài Bắc.

Hai đêm chiến sự đầu tiên phía Mỹ bị thiệt hại ít và
nhiều trận địa pháo tên lửa Bắc Việt bị phá hủy. Đây
là điều dễ hiểu vì lần đầu tiên các đơn vị phòng không
chạm chán với B52. Do B52 khi bay vào có hàng loạt máy bay nhỏ
bay quanh bảo vệ và thả tín hiệu hoặc giấy bạc làm mục
tiêu giả làm nhiễu ra đa đối phương, ngoài ra chính máy bay
B52 cũng phát tín hiệu nhiễu. Hai đêm đầu không có kinh
nghiệm nên không xác định đâu được đâu là mục tiêu thật
nên đành bắn theo xác suất, hiệu quả rất thấp. Chưa nói
phải dò mục tiêu lâu, máy bay tiêm kích Mỹ dò được sóng
ra-đa trạm tên lửa, phóng tên lửa ngược lại theo sóng ra đa
phá hủy trạm ra-đa tên lửa. Nhưng những đêm sau họ đã có
kinh nghiệm, cách bắt mục tiêu cũng như cách tránh tên lửa
của máy bay đối phương bằng cách hắt sóng ra phía sau khi
rocket sắp tới gần.

Phải thừa nhận sự thật một điều, là 12 đêm đó, không
quân Mỹ làm chủ bầu trời Hà nội. Xét về tỉ lệ máy bay
bị bắn rơi so với lượt bay là quá thấp. Nhưng như trên đã
nói, đây là chiến dịch không có ý nghĩa về quân sự cho nên
những thiệt hại nhất định gây cho Mỹ những điều nhức
nhối.

Nhất là về máy bay B52, được mệnh danh là pháo đài bay, bất
khả xâm phạm. Mỹ chế tạo để làm vũ khí chiến lược mang
bom hạt nhân. Thế nhưng khi bay vào Hà nội, chỉ gặp phải hệ
thống tên lửa lỗi thời là SAM II cũng bị bắn rụng. Ngay
hồi đó, nếu Hà nội có SAM 3 và SAM 4 như thành viên tổ chức
Vác-Xa-Va lúc đó đang có thì khó có chiếc nào còn sống sót.
Sau chiến dịch đó, Mỹ phải thay lại quan điểm dùng B52 làm
vũ khí chiến lược vì quá cồng kềnh và chậm chạp, chỉ làm
mồi cho máy bay đối phương khi còn chưa tới mục tiêu nếu
gặp phải đối thủ tầm cỡ ngang mình. Điều đó cho thấy
quan điểm phát triển vũ khí chiến lược của Liên Xô là
đúng, chỉ chú trọng tàu ngầm và tên lửa chiến lược, bỏ
qua máy bay ném bom.

Ngày 22/12 khi oanh toạc vẫn đang ác liệt, Ních Xơn nhắn đề
nghị Hà nội nối lại đàm phán trên cơ sở những điều đã
kí tắt. Hà Nội cứng rắn nói ném bom không phải điều kiện
nối lại đàm phán và đồng ý quay lại khi không kích chấm
dứt.

Bây giờ Ních Xơn còn vướng mắc về Nguyễn Văn Thiệu, khi
VNCH cương quyết không đồng ý hiệp định đã kí tắt thì
Ních Xơn đưa ra tối hậu thư, đe dọa nếu tổng thống Thiệu
không đồng ý thì sẽ đi theo vết xe đổ của Ngô đình Diệm,
nghĩa là sẽ bị Mỹ làm đảo chính, và vào phút trót, biết
Ních xơn không nói xuông qua vụ tàn bạo man rợ rải thảm B52
vào Bắc Viêt, nên Thiệu phải chấp thuận.

Ngay lúc đó cho tới bây giờ, cả Mỹ và Bắc Việt đều giành
cái lí về mình. Ních xơn tuyên bố trước quốc Hội là thắng
lợi của trận oanh kích là kéo Hà nội trở lại bàn đàm
phán, còn phía Bắc Việt nói, Mỹ thất bại thảm hại cho nên
mới phải quay lại chấp nhận những điều đã kí tắt
trước đó. Nhưng sự thật của cuộc anh kích là nhằm trấn an
Nguyễn Văn Thiệu, Mỹ sẽ không nương tay nếu đối phương vi
phạm hiệp định, điều đó đã được nhắc lại trong bức
thư tay của Ních xơn gửi Thiệu.

Hiệp định Paris đã được kí kết vào tháng 1/1973 tại một
khách sạn ở Pháp. Trước hết nó là một thắng lới lớn
của Bắc VN. Trong hiệp định không có điều khoản nào ràng
buộc lực lượng quân sự miền Bắc tại miền Nam do đó trong
tương lai miền Bắc thả phanh chi viện cho miền Nam trong khi đó
VNCH lẻ loi ở lại một mình, và sự sụp đổ của VNCH chỉ
là vấn đề thời gian. Lê Đức Thọ chỉ hứa bằng miệng
với Kissinger sẽ rút bộ đội miền Bắc và ngược lại, Mỹ
cũng hứa bằng miệng sẽ không ủng hộ Khmer đỏ tại Cam Pu
Chia (Ngay từ hồi đó đã có vấn đề Khmer đỏ mà lãnh đạo
miền Bắc vẫn để xảy ra những vụ vào năm 1979 thì thật là
quá yếu kém).

Ngay trong hàng ngũ lãnh đạo cộng sản cũng có ý kiến gay gắt
phản đối Hiệp định Paris, họ cho rằng khi HCM và đảng
cộng sản phát động chiến tranh thì mục tiêu là đánh cho Mỹ
rút, Ngụy nhào thống nhất đất nước thì nay nay nghiễm nhiên
công nhận Ngụy là nhà nước VNCH, đất nước vẫn chia cắt
mà đã buông súng.

Câu hỏi ít ai đặt ra là Mỹ được gì qua Hiệp định Paris?
Câu trả lời là Mỹ được rất nhiều. Ngoài trút được gánh
nặng chiến tranh VN mà vẫn giữ được thế cân bằng chiến
lược Mỹ còn bắt tay được với TQ góp phần phá tan từng
mảnh phe XHCN, mở đầu cho việc kết thúc cuộc đối đầu
chiến tranh lạnh nguy hiểm và tốn kém nhất nhân loại, tiến
tới Toàn Cầu Hoá, mà quốc gia nào cũng được hưởng lợi
như hôm nay. Khi bắt đầu can thiệp vào Nam VN, Mỹ chỉ mong
muốn ổn định và kiểm soát ngặn chặn làn sóng cộng sản.
Nhưng khi ra đi, cho dù toàn VN bị cộng sản hoá nhưng hệ
thống XHCN đó bị Mỹ qua đi đêm với TQ, xé ra xoá sạch trong
vài năm tới. Ai đã từng chứng kiến và tham dự cuộc đàm
phán thì đều nói rằng, Kissinger và Lê Đức Thọ đều không
xứng đáng được nhận giải thưởng Nobel về Hòa Bình, cả
hai chỉ là những tên lính đánh thuê của hai hệ thống.
Người mà xứng đáng nhận giải Nobel về hoà Bình là Ních xơn
và Mao trạch Đông, cho dù cả tay của hai người đều vấy máu
nhân loại, cho dù về quyền lợi quốc gia ích kỉ, nhưng đã
dám gạt bỏ ý thức hệ nặng nề, dám vượt qua sức cản
của cả hai hệ thống để bắt tay nhau, phá tan chiến tranh
lạnh, mở đường cho thế giới chung sống hoà bình trong thời
đại toàn cầu hoá như ngày hôm nay.



***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20121119/ha-noi-thang-chap-72), một số
đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời độc
giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận
có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng
dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét