Pages

Nguyễn Mộng Hoài - Người ta đối xử tệ bạc với người nông dân đến bao giờ

<div class="boxleft300"><img
src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh0DtqSRC285Tuh6UUP6nF8SBVrfifz7X5Fiw9A7zdpMJ7-ou6jgK59VN-03wG1QyX9nQMK9Bb8sMBUIojfT64NDq6xgBCjICaVUhsk_2yl2vJTC2IYsbAQm4QncYtSJZpCxfbOR6vk-AbJ/s1600/603990_4708086101624_845338314_n.jpg"
/><div class="textholder"></div></div>Dân tộc Việt Nam ta từ bao
đời nay, có thể từ ngày dựng nước, đều rất coi trọng
chữ "HIẾU", chữ "TRUNG". Từ những truyền thuyết, huyền
thoại, truyện dân gian và văn học cổ điển được lưu
truyền đến nay, đều ghi đậm nét những tấm gương trung
hiếu, coi đó là đạo đức tốt đẹp và bền vững của dân
tộc.

Tôi nói đến chữ "Hiếu" trước trong bài viết này là vì con
người ta, con người Việt Nam, kể cả dồng bào dân tộc
thiểu số, khi được sinh ra trong bàn tay thương yêu đùm bọc,
nuôi nấng, dạy dỗ của cha mẹ, ông bà và người thân. Vì
vậy, con cháu phải tu rèn và giữ được chứ "Hiếu" đối
với những người đã sinh thành, dưỡng dục mình từ trong
nôi.


Lớn lên biết nhận thức phải trái, tốt xấu và biết ứng
xử ở đời, dù trong những xã hội khác nhau, chữ hiếu dẫn
dắt con người đến chữ "Trung". Hiếu trung được lấy làm
lẽ sống. Thời phong kiến vua quan, người ta cố tâm thực
hiện "trung quân", tức là "trung với Vua", vì Vua là người có
quyền lực tối cao, trị vì đất nước, muôn dân. Vua thanh
liêm, tài giỏi thì bàn dân thiên hạ được nhờ. Vua biết
lòng dân, thấu hiểu nỗi khổ của dân, có tâm với dân thì
truyền nhau được nhiều đời, giữ được hoàng tộc nhiều
năm, thậm chí mấy thế kỷ. Điển hình như các triều đại
Nhà Lý, bắt đầu từ Lý Công Uẩn, hay nhà Trần, bắt đầu
từ Trần Cảnh. Làm sao để tuyệt đại đa số dân chúng đều
biết "trung quân". Còn các loại "vua" như Lê Chiêu Thống, cho dù
trong sử sách vẫn nhắc đến tên, nhưng là cái tên chỉ rõ
sự phản nghịch. Lịch sử các triều đại Việt Nam có rất
nhiều ví dụ cụ thể, từ vua đến các quan to, quan nhỏ, dân
đều biết chính xác và minh bạch.

Nhờ đâu mà được lên làm vua ? Thứ nhất và quan trọng nhất
là có công tích vĩ đại trong việc cứu dân thoát ách nô lệ
của ngoại bang hoặc xóa bỏ một chế độ mục ruống, thối
nát; thứ hai là theo dòng chảy của chế độ phong kiến "cha
truyền con nối". Trong truyền thống "cha truyền con nối" ấy
vẫn có nhưng ông vua, bà vua trị vì thanh liêm, mà ngày nay ta
gọi là "vì dân". Đối với những vị vua này, dân chúng biết
hàm ơn và nhớ ơn. Sự nhớ ơn ấy được lưu truyền qua thời
gian thăng trầm của lịch sử.

Dông dài một chút để thấy, thời đại nào cũng vậy, dân là
người sáng suốt nhất, vĩ đại nhất. "Vua quan nhất thời,
dân vạn đại !". Người đứng đầu đất nước, ngày xưa
phong kiến thì gọi là Vua, là Chúa, ngày nay dân chủ thì gọi
là Tổng thống, Chủ tịch nước, có nơi gọi là Quốc
trưởng. Lịch sử cận đại và hiện đại của Việt Nam đã
chứng minh những tấm gương "suốt đời vì dân" của nhiều
Vua, thậm chí có ông vua yêu nước, bị thực dân Pháp bắt đi
đày, nhưng cũng có những ông vua vì cái ngai vàng của mình,
đã "cõng rắn cắn gà nhà", "rước voi về rầy mả tổ", bị
nhân dân phỉ nhổ và tất nhiên, dân không còn "trung quân"
nữa.

Ở Việt Nam, sau ngót một thế kỷ, thực dân Pháp đô hộ, dân
chúng chịu nhiều đau khổ, đã xuất hiện một "vị cứu tinh".
Đó là thày giáo Nguyễn Tất Thành, khi nhỏ là Nguyễn Sinh Cung,
khi hoạt động cách mạng ở Pháp và hải ngoại gọi là
Nguyễn Ái Quốc và khi về nước lãnh đạo toàn dân khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, gọi là Hồ Chí Minh
(thế mà có người cố tình lập lờ đánh lận con đen bảo
Hồ Chí Minh là cái "ông Hồ" gì đó là người của họ, nhưng
dân Việt Nam đâu có dễ bị lừa). Lịch sử nói rõ điều này
rồi, khỏi phải nhắc lại.

Khoảng nửa thời gian, kể từ ngày thành lập, đến khi thống
nhất đất nước, 45 năm (1930-1975), toàn dân ta vâng theo Bác
Hồ, mấy chục năm vừa là chủ tịch nườc, vừa là chủ
tịch đảng, đã dốc toàn lực cho ba cuộc kháng chiến chống
đế quốc, phát xít và bành trướng, giành lại độc lập tự
do, hòa bình thống nhất nước nhà. Trong quá trình ấy, toàn
dân Việt Nam, trong đó chiếm đa số là nông dân, dân nghèo và
nói như ngày nay là dân có thu nhập thấp. Theo thống kê, cho
đến những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, Việt Nam vẫn
còn 70% dân số là cư dân nông thôn, trong đó tuyệt đại đa
số là nông dân. Trong cải cách ruộng đất (1956) và sửa sai
(1957), ta thêm hai từ là "nông dân lao động" để hiểu không
bao gồm địa chủ phú nông sống ở nông thôn. Ba mươi năm,
nông dân miền Bắc, phần lớn là "xã viên" hợp tác xã nông
nghiệp, với câu ca dao cửa miệng đầy ấn tượng: "xã viên
làm việc bằng ba/để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân !", nông
dân được gọi là "nông dân tập thể", nghe nó hơi chương
chướng, nhưng lãnh đạo lại bảo là "vinh dự" mới được
gọi như thế. Bắt đầu "đổi mới" từ năm 1986, "nông dân
tập thể "mất hút" cùng với sự cáo chung của "hợp tác hóa
nông nghiệp" bắt chước mô hình của ai đó. Và nông dân lại
được gọi là nông dân.

Ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1946-1954), người ta luôn đề cao nông dân, gọi nông dân là
"đội quân chủ lực của cách mạng" Mà đúng là chủ lực
thật, chủ lực cả về tinh thần lẫn vật chất. Vào bộ
đội Việt Minh, từ 34 cán bộ chiến sĩ nông dân dân tộc
thiểu số là chính, lập nên Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân do đích thân người học trò loại 1 của Bác Hồ,
đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách, tiến đến một quân đội
nhân dân đông đến cả triệu người trải qua gần 40 năm xây
dựng chiến đấu trong khói lửa chiến tranh, là một quân đội
"trăm trận trăm thắng", đang trở thành một quân đội chính
quy, từng bước hiện đại, đủ sức bảo vệ tổ quốc trong
tình hình mới. Lực lượng vũ trang ta, mà nòng cốt là quân
đội nhân dân, đa phần cán bộ chiến sĩ đều xuất thân từ
nông dân, là con em nhân dân. Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn
Thị Thứ ở Quảng Nam có đến 11 người con hi sinh cho cách
mạng, là một gia đình nông dân. Xã chúng tôi hiện có 181
liệt sĩ, 1 anh hùng quân đội, 13 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 65
thương bệnh binh, gần 40 cựu thanh niên xung phong, gần 400 cựu
chiến binh. hầu hết là con em nông dân trong xã. Trong số đó,
nếu kể cả mấy vị tướng vừa mới được phong quân hàm,
thì xã có đến 6 vị tướng, hàng chục sĩ quan cấp tá. Nhân
dân nói chung và nông dân nói riêng đều rất tự hào về con em
mình đã công hiến xương máu, trí tuệ, mổ hôi cho độc lập
tự do và thống nhất đất nước

Theo thống kê của cơ quan chức năng, nước ta hiện có trên
dưới 11.000 xã, phường, thị trấn, trong đó có trên 9900 xã
nông thôn, nơi cư trú của nông dân, diêm dân, ngư dân và
người làm ngành nghề ở nông thôn. Trong những cuộc kháng
chiến lịch sử trước đây, gia cấp nông dân Việt Nam đã
không ngững cung cấp lực lượng về con người, tài sản,
lương thực thực phẩm, về địa bàn hoạt động cho cách
mạng cả tiền tuyến lẫn hậu phương. Trong chiến tranh giải
phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc, địa bàn nông thôn, nông
thôn miền núi đều được chọn làm "căn cứ địa", hoặc
"thủ đô kháng chiến" như Việt Bắc, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên,
miền núi Khu 5 v.v...Những nơi đó không những có địa thế
vững chắc cho căn cứ mà còn có nguồn lực tại chỗ cung ứng
cho kháng chiến. (Rất tiếc là sau hòa bình lập lại năm 1954
cũng như sau ngày hoàn toàn giải phóng, thông nhất nước nhà,
nhiều cơ quan đơn vị được về thành phố, trong đó có Hà
Nội, Sài Gòn, Huế...thì một thời gian dài, những cơ quan đơn
vị này hầu như đã quên mất người và cảnh các căn cứ
địa. (Gần đây, sực nhớ ra nơi đã từng cưu mang cán bộ
bộ đội và cơ quan chỉ đạo kháng chiến, người ta mới cho
xây lại di tích lịch sử để kỷ niệm. Suy cho cùng, cách
mạng có bạc bẽo, những chưa đến nối tệ bạc) Nhưng phổ
biến vẫn còn coi thường nông dân, lực lượng đã theo cách
mạng làm cách mạng hết mình, hi sinh lớn lao vì cách mạng,
nhưng lại được hưởng thành quả cách mạng rất ít, thậm
chí còn bị cưỡng đoạt những cái mà cách mạng mang lại cho
họ.

Nói về vấn đề này có thể kể ra rất nhiều ví dụ cụ
thể, mà càng sống với nông dân càng thấu hiểu "người ta"
đã đối xử tệ bạc với nông dân như thế nào ?

1 - Nông dân (bây giờ theo quan niệm tam nông thì nông thôn bao
gồm người làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư ngư nghiệp, diêm
nghiệp, kể cả người làm ngành nghề ở nông thôn) hiện nay
là người đầu tiên mất đất canh tác, tư liệu chủ yếu
nuối sông nông dân và cả xã hội, tiếng là cho dự án phát
triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng công trình kinh tế, du
lịch v.v...nhưng có rất nhiều diện tích đất nếu vẫn còn
nằm trong tay nông dân thì sẽ sinh ra nhiều của cải, chứ
không bị bỏ hoang, hoặc rơi vào tay những ông bà chủ đất
mới, sử dụng có lợi cho quốc kế dân sinh thì ít, mua đi bán
lại kiếm lời hoặc bỏ hoang hóa thì nhiều, không còn ý nghĩa
của câu "tấc đất tấc vàng" nữa.

Chưa có cơ quan nào thống kê chính xác trên toàn quốc có bao
nhiều "dự án treo", thu hồi đất của nông dân rồi bỏ hoang
hoặc "đô thị hóa vô lối" gây lãng phí rất nhiều. Khu đô
thị sinh thái "Ecopark" ở Văn Giang Hưng Yên được bắt đầu
thực hiện từ 10 năm nay, với 500 hec-ta đất canh tác thuộc
hạng nhất đẳng điền, bờ xôi ruộng mật, khi còn trong tay
nông dân mỗi sào đất canh tác thu từ 100 đến 250 triệu
đồng/năm từ việc đổi mới canh tác bố trí lại các loại
cây trồng, chứ chưa phải "nông nghiệp hiện đại" như các
nước phát triển. Sau khi "được" quy hoạch vào "đôthị sinh
thái" nằm trong tay một nhóm lợi ích, mười năm trôi qua chỉ
thấy một lô nhà cao tầng, một số đoạn đương dang dở và
mấy chục vụ khiếu kiện, cưỡng chế đất, trong đó có vụ
đánh người thành thương.

Một ví dụ nữa, xã tôi có 450 ha đất canh tác, hằng năm cho
nắng suất lúa vào loại cao nhất huyện khoảng 12 tấn
thóc/ha/năm. Vậy mà chỉ trong ít năm qua, người ta tìm mọi
cách dụ dỗ, tuyên truyền cưỡng bức thu hồi 400 ha để cấp
mặt bằng cho khảng 30 doanh nghiệp công nghiệp vào làm ăn,
đến nay thì hầu như các doanh nghiệp đã phá sản, thải hối
công nhân, và những doanh nghiệp lớn thì tổ chức bán mặt
bằng cơ sở, hoặc chờ "công ty mẹ" từ nước ngoài, chưa
sản xuất được gì. Trong khu đất rộng chứng 36.000 mét vuông
gần đương giao thông lớn, được người ta đưa vào dự án
"cảng cạn", nhưng 13 năm vấn xán binh bất động, chỉ mấy
chú chuột tha hồ vung vẩy. Số diên tích này của một công ty,
giá còn trong tay nông dân, thì ít nhất cũng thu được 5400 tấn
thóc.

Trong khi toàn xã hầu hết là nông dân, được một số tiền
đến bù "rẻ như bèo" đã tiêu hết rồi, đành phải đi làm
thuê, tham gia các chợ lao động thành phố và một số làm công
ty thi bị dọa đuổi việc hàng ngày. Lớp người trung tuổi và
cao tuổi trước đây còn ruộng thì cũng đủ ăn, nay không còn,
phải nhờ vào con cháu, những con cháu có phải đứa nào cung
dư dật đâu. Trong khi đó, báo cáo của xã lúc nào cũng nêu
lên con số trên dưới 15 triệu đồng bình quân đàu người !

Nông dân gắn liền với đất đai, núi rừng, sông biển. Nay
mất hết đất rồi, làm gì để sống cho qua ngày đây. Nay mai,
theo quy hoạch vừa được công bố, thì cả huyện sẽ là thị
xã, không biết sẽ đong gạo ở đâu, mà người Việt Nam nào
mà không sông bằng gạo. Tất nhiên là ra chợ, trông vào bà con
xã còn nông nghiệp.

2 - Các loại chính sách xã hôi nhằm mang lại lợi ích và thụ
hưởng cho toàn dân, chứ không để dành riêng cho "giai cấp
nông dân". Nếu có được hưởng thì chỉ được hương chút
ít, còn lại bị ăn chặn từ nhiều phía, thậm chí bị thiên
tai, đói khổ, nhiều nới cứu giúp, nhưng một số gạo và
tiền cứu trợ lại rơi vào tay "quan chức" cơ sở, hoặc để
ùn lại trong kho hàng tháng liền. Khi đói thì không có gao, nay
đứng vững rồi thì lại "tổ chức cứu trợ" mỉa mai thay !.

Chẳng hiểu tại sao làm cán bộ chủ chốt ở xã chỉ một vài
khóa (mỗi khóa 5 năm) từ một người nghèo hoặc trung bình
bỗng trở nên giầu có, có người giầu có tiền tỷ trong tay,
nhiều xuất đất tư dự trữ. Hầu hết cán bộ, đảng viên
có tham gia công tác nhanh chóng xây được nhà tầng với nguyên
vật liệu đắt tiền. Ngày nào cán bộ lãnh đạo xã cung "hái
ra tiền" nhờ đủ các loại lách chính sách, lách luật, ăn
hối lộ, quà biếu, chiết khấu ngân sách. Vì lợi ích cá
nhân, vì lợi ích nhóm, chạy chọt cấp trên, chạy chức chạy
quyền...nhưng cán bộ xã bây giờ sướng như những "ông vua
con" "ho ra bạc khạc ra tiền" nha lại ngày xưa gọi bằng "cụ".
Còn đại đa số nông dân bình thường mất ruộng chỉ còn có
cách chạy chợ buôn thúng bán mẹt, lá rau con tép, thu mua phế
liệu, làm thuê làm mướn, làm ô-sin và ít người trông nhờ
được vào con cháu, vì một số con cháu đã quên mất chữ
"hiếu" rồi !

3 - Một số người nhận xét rằng, sông ở thành phố, thị
xã, có dân chủ hơn ở nông thôn, nhất là nông thôn vùng sâu
vùng xa. Triều đình ở xa, quan nha ở gần. Bây giờ ngoài các
vị "vua lớn nhỏ" còn một "đội ngũ" quan bao quanh chính quyền
cơ sở. Nhân viên môi trường, tức là người quét rác và thu
gom rác do dân trả tiền, cũng nhiều khi hống hách như quan,
mếch lòng một chút là để ứ rác lại trước cửa nhà dân
ngay, ông thợ điện trở thành "ông quan điện", nhiều khi tự
nhiên mất điện không biết hỏi ai vì điện đến nhà dân
phải qua nhiều nấc cầu dao, mỗi cầu dao do một "ông quan
điện" làm chủ. Có khi phải có cái gì mới được đóng
điện. Nhưng người thực thi y đức từ cơ sở trở thành
những "quan" ngành y, người bệnh không có phong bì và phải
biết cách đưa phong bì thì dù bệnh nặng cũng cứ "chờ
đấy"...Tóm lại, bất cứ công việc gì có liên quan đến
người dân trong đó có người nông dân là phải...T, Điều
kiện "đàu tiên" không có thì bà con hày về, mai lên giải
quyết. Bộ máy hành chính ở cơ sở nhiều chỗ hoen rỉ đã
lâu, hoen rỉ toàn diện nên rất cần "bôi trơn" !

Kể ra thì có đến "một nghìn một đêm lẻ" về cách đối
xử với "gia cấp nông dân là quân chủ lực của cách mạng"
bị đối xử tệ bạc từ vĩ mô đến vi mô, trong khi ai cung
nói rằng nông dân hiện chiếm đến 70% dân số, sản xuất ra
nhiều sản phẩm nuôi sông con người. Từ anh xe ôm đến vị
Bộ trưởng, ai cũng cần đến gạo của nông dân. Vạy mà từ
nhiều năm nay, rất ít chính sách cụ thể quan tâm đến nông
dân. Nông dân cảm thấy càng tiến lên chủ nghĩa xã hội thì
nông dân càng bị bỏ rơi. Cái điệp khúc, "được mùa rớt
giá", "đầu vào cao hơn đầu ra" biết bao giờ mới cân bằng
lại. hoặc có lợi cho nông dân thì mới có sự công bằng
phần nào trong xã hội.

Với một giai cấp là quân chủ lực mà bị đối xử như vậy
thì họ còn đối xử tốt với ai nữa ? , phải chăng tất cả
là vì lợi ích nhóm, lợi ích của cá nhân thuộc tất cả các
cấp các ngành. Vậy thì người ta đối xử tệ bạc đối với
nông dân từ bao giờ ? Tôi có thể nói ngay, từ năm 1958, khi
bắt đầu phong trào "hợp tác hóa nông nghiệp" ở miền Bắc
và từ khi miền Nam được giải phóng và thống nhất nước
nhà. Đất đai, tư liệu chính của nông dân để làm ra của
cải vật chất tối cần cho đời sống xã hội thì nay thuộc
về sở hữu toàn dân, mà ông toàn dân này mơ hồ, không định
danh và có quyền ban phát đất đai cho bất cứ ai, họa chăng
chỉ là "nhóm lợi ích", những ông chủ bà chủ mới, những tư
bản đỏ và quý tộc đỏ. Vì có ông chủ tịch tỉnh nọ có
đến 100ha rừng cao su, và nhiều ông chủ tịch tỉnh như vậy
thì nông dân lấy đất đâu ra mà sản xuất ?...

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140211/nguyen-mong-hoai-nguoi-ta-doi-xu-te-bac-voi-nguoi-nong-dan-den-bao-gio),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét