Trương Nhân Tuấn - Vấn đề Kampuchia: Tranh chấp lãnh thổ

<blockquote><strong>Lời tác giả:</strong> Từ nhiều tháng qua, liên
tiếp các cuộc biểu tình chống người Việt đã xảy ra trên
đất Kampuchia, đã qui tụ nhiều người. Cầm đầu là nhóm «
Liên hiệp Khmer Kampuchea Krom (AKKK) », do ông Thạch Setha lãnh
đạo. Mục đích của các cuộc biểu tình này là yêu cầu ông
đại sứ VN là Trần Văn Thông phải lên tiếng xin lỗi người
dân Kampuchia, nguyên do vì ông này đã nói rằng « đất Khmer
Krom, theo lịch sử là của VN ». Từ đó đến nay không thấy
phía tòa đại sứ VN tại Kampuchia lên tiếng trả lời hay bình
luận gì về việc này. Tòa đại sứ cũng từ chối các cuộc
phỏng vấn của báo chí. Vừa rồi, vị sư có tên là Sơn Hải,
nghe nói xuất thân từ Trà Vinh, nguyên là một trong số những
người Khmer Krom cầm đầu biểu tình, bị nhà cầm quyền
Kampuchia bắt và bỏ tù 1 năm vì tội « cản trở nhân viên
công lực thi hành nhiệm vụ ». Trước dư luận dân chúng Khmer
cũng như VN, sự im lặng của đại sứ Trần Văn Thông được
hiểu như là mặc nhiên nhìn nhận sự sai trái trong lời tuyên
bố của mình. Việc nhà sư Sơn Hải bị bắt, có thể vì một
lý do khác, nhưng điều này không hề giải quyết được vấn
đề mà ngược lại, nó càng làm cho sự hận thù của một
thành phần dân tộc VN đối với đất nước của mình càng
thêm sâu sắc.

VN (qua các đại diện của mình ở các nước), sẽ phải trả
lời trước dư luận thế giới như thế nào để chủ quyền
quốc gia về lãnh thổ không bị thách thức, đồng thời lịch
sử không bị bóp méo vì quan điểm chính trị hay tinh thần dân
tộc chủ nghĩa? Bài này được viết ra, như sự ủy nhiệm
của người dân VN, để tìm một câu trả lời thỏa
đáng.</blockquote>

<center>* * *</center>

Tranh chấp về lãnh thổ giữa hai bên VN và Kampuchia, nếu xét
trên phương diện những yêu sách khác nhau của người Khmer
hiện nay về lãnh thổ thì ta thấy các học giả Khmer nghiêng
về lịch sử. Mà nói về lịch sử thì có thể nói là tranh
chấp hai bên đã xảy ra từ rất lâu. Dầu vậy ta có thể chia
ra làm năm thời kỳ. Mỗi thời kỳ bản chất của tranh chấp
khác nhau, các lý lẽ biện minh cho yêu sách của các bên khác
nhau. Điều này xảy ra do ảnh hưởng địa chính trị, hoàn
cảnh lịch sử cũng như tinh thần dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ
từ các bên.

- Thời kỳ đầu, từ đầu thế kỷ thứ 17 đến khi Nam kỳ
trở thành thuộc địa của Pháp 1862.

- Thời kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945, sau khi Đại
chiến thế giới kết thúc.

- Thời kỳ thứ ba, từ 1945 cho đến năm 1954, hiệp định
Genève được ký kết.

- Thời kỳ thứ tư, từ 1954 đến 1975.

- Thời kỳ thứ năm từ 1975 đến hôm nay.

Giữa hai bên có ba loại tranh chấp. 1/ về lãnh thổ trên đất
liền, có hai khuynh hướng tranh chấp, thứ nhứt là đất khu
vực dọc theo biên giới, thứ hai, tranh chấp vùng đất mà
người Kampuchia gọi là Khmer Krom 2/ về chủ quyền các đảo,
quan trọng nhất là đảo Phú Quốc và 3/ tranh chấp về ranh
giới hải phận, về hiệu lực các đảo trong vịnh Thái Lan.

Muốn biết nội tình các tranh chấp này ra sao, lý lẽ mà các
học giả Kampuchia vịn vào để đòi đất đai, lãnh thổ là
như thế nào, cũng như các lý lẽ này có hợp lý hay không?
điều cần thiết là ta cần phải hiểu ngọn nguồn, tức là
vừa theo lịch sử của tranh chấp, vừa theo tinh thần của
luật pháp quốc tế.

<h2>1/ Thời kỳ thứ nhất, thuần túy lịch sử. Cũng cần nói
sơ qua vì các yêu sách của phía Khmer hiện nay nghiêng về lịch
sử.</h2>

Bắt đầu sau khi VN bình định xong Chiêm Thành khoảng đầu
thế kỷ 17. Lãnh thổ VN được mở ra về phía nam cho đến
Bình Thuận. Từ đó hai dân tộc VN và Khmer trực tiếp đối
đầu với nhau. Vào thời điểm này thì đế quốc Khmer đã suy
tàn.

Đế quốc Khmer là một đế quốc hùng mạnh, cao điểm là thế
kỷ thứ 11. Theo ý kiến các học giả phương Tây thì lãnh thổ
đế quốc này trải dài từ bắc Thái Lan, một phần Miến
Điện, bao gồm thêm nam Lào cho đến miền Nam VN hiện nay. Đế
quốc này suy tàn bắt đầu từ thế kỷ 14. Các đế quốc Xiêm
lần lượt mang tên Sukhôthaï, Ayuthia và Bangkok, đã chinh phục
hầu như 80% lãnh thổ đế quốc Khmer. Đế quốc Khmer hùng
mạnh ngày xưa đã bị đế quốc Thái tiêu diệt gần hết. Dân
chúng Khmer sót lại đã chạy đi tản mát, một số trở thành
các bộ lạc nhỏ trong rừng sâu, núi thẳm, số còn lại lui
về lập đô ở Nam Vang. 2/3 diện tích nước Thái Lan hiện nay
vốn ngày xưa thuộc về đế quốc Khmer. Các di tích lịch sử,
đền đài của Khmer như Angkor Thom và Angkor Vat, hoàn toàn xóa
bỏ trong ký ức của dân Khmer, bị bỏ hoang phế. Chỉ đến
giữa thế kỷ thứ 19 thì các phế tích này mới được mọi
người biết đến.

Công cuộc nam tiến của VN, cũng như sự bành trướng của đế
quốc Thái gặp nhau. Vô hình chung đế quốc Khmer ở Nam Vang
trở thành một quốc gia « trái độn » ở giữa hai thế lực
mạnh mẽ là Thái và Việt. Việc dằn co hai bên Thái-Việt về
Khmer kéo dài khoảng 1 thế kỷ.

Trong khoảng thời gian dằn co này, ta có thể nói rằng VN đã
xây dựng và củng cố xong địa bàn của mình ở miền Nam
hiện nay. Các tỉnh Biên Hòa, Mỹ Tho được xây dựng dưới
thời các chúa Nguyễn, nhờ công lao các cựu trung thần nhà
Minh, như Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên. Khu vực Hà
Tiên và vùng chung quanh như Châu Đốc, Rạch Giá, Phú Quốc…
cũng được xây dựng nhờ công lao của một người Hoa khác,
thần phục VN, tên là Mạc Cửu.

Năm 1834 dưới triều Minh Mạng, VN đã áp đặt được quyền
lực của mình lên đế quốc Khmer. Nam Vang được gọi là «
Trấn Tây Thành », lãnh thổ nước này được phân chia ra thành
32 tỉnh, huyện. Đến năm 1841, được sự trợ giúp của quân
Xiêm, dân Khmer ở Nam Vang nổi loạn, quân VN phải rút đi. Nhưng
đến năm 1845 phía Khmer lại cầu cứu VN, vì so ra ách cai trị
của quân Xiêm còn bạo tàn nhiều hơn VN. Cuối cùng đế quốc
Khmer phải chịu thần phục cùng lúc hai nước VN và Thái Lan.
Việc này kéo dài cho đến khi đế quốc Pháp vào VN.

Trong khoảng thời gian này thì không có vấn đề gọi là «
tranh chấp về biên giới hay lãnh thổ » giữa hai bên Việt và
Miên, mà chỉ có hiện tượng gọi là cá lớn nuốt cá bé,
xảy ra thường trực ở mọi nơi trên thế giới. Tức là, một
dân tộc muốn tồn tại là phải mạnh và không thể để hiện
hữu các thế lực đe dọa chung quanh. Ta thấy, ở Châu Á,
trường hợp đế quốc Trung Hoa với các dân tộc chung quanh, hay
tại Châu Âu, Trung Á, các nước Ả Rập... các đế quốc chinh
phục lẫn nhau để mở rộng bờ cõi. Mạnh được yếu thua. Ta
thấy biết bao nhiêu đế quốc mạnh mẽ như Roma, Ottoman, các
đế quốc thuộc văn minh Nhị Hà (tức là Mésopotamia) thuộc
Irak, Iran hiện nay... có lúc cực thịnh, nhưng rồi đều suy
tàn. Cá lớn nuốt cá bé. Các việc chinh phục xảy ra thường
trực mà không hề dựa trên một phép tắc hay theo một đạo
lý nào. Đế quốc Khmer, đến thế kỷ 14 mạnh mẽ biết bao
nhiêu. Sau đó thì suy tàn, đến đỗi con cháu họ không biết
đến nền văn minh rực rỡ Angkor Vat, Angkor Thom của tổ tiên
họ ra sao. Các học giả Tây phương cùng đồng ý rằng, nếu
Pháp không kịp thời có mặt tại Đông dương, đế quốc Khmer
chắc chắn sẽ bị mất về hai đế quốc Thái lan và VN.

Các học giả Khmer hiện nay lên án rằng VN chiếm đất của
tổ tiên họ. Điều này trên quan điểm lịch sử và luật lệ
quốc tế thì không thuyết phục. Cũng như VN hiện nay khó mà
nại lý do Trung Hoa chiếm đất của tổ tiên mình ở Quảng
Đông, Quảng Tây. Cũng như dân Ý bây giờ đâu thể nào đòi
lại lãnh thổ trước kia thuộc đế quốc Roma, hay nước Thổ
đòi tái dựng lại đế quốc Ottoman. Nếu ai cũng nại lý do
như vậy thì thế giới sẽ đảo lộn, biển Địa Trung Hải
sẽ trở thành « nội hải » của nước Ý. Nếu chỉ nói trong
khu vực, tại Trung Quốc, các tỉnh Mãn Châu, Vân Nam, Tây Tạng,
Quảng Đông v.v... trước kia là các quốc gia độc lập. Ai cũng
lên tiếng đòi đất, đòi độc lập thì lãnh thổ của Trung
quốc sẽ không còn.

Mặt khác, dân Khmer, ảnh hưởng văn minh Ấn Độ, không có quan
niệm quốc gia với đường ranh giới rạch ròi, như là quan
niệm của văn minh Trung Hoa. Chính người Khmer, khi lục lại
lịch sử của họ cũng không tìm thấy một tấm bản đồ nào
cho mọi người biết là lãnh thổ của họ đã mở từ đâu
đến đâu. Không biết lãnh thổ mình có từ đâu đến đâu
thì đòi lại cái gì? và ở chỗ nào?

Quan niệm về quốc gia của dân tộc Khmer chỉ mới có sau khi
tiếp xúc với văn minh Tây phương. Và chỉ sau khi tiếp xúc
với Pháp, công nhận sự bảo hộ của Pháp, lãnh thổ Khmer
mới lần hồi thành hình qua các đợt phân giới và cắm mốc
sau này.

Những yêu sách về lãnh thổ của các học giả Khmer khi nại
lịch sử là điều không phù hợp công pháp quốc tế, không ai
chia sẻ. Kể cả những học giả quốc tế có cảm tình nhất
với dân tộc này.

<h2>2/ Thời kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945:</h2>

Sau khi triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước giao các tỉnh
miền Nam cho Pháp năm 1862, thì năm 1856 vua Norodom (Nặc Ông
Dương) thỉnh cầu được sự bảo hộ của Pháp. Ngày 11 tháng
8 năm 1863 hai bên ký ký hiệp định, vương quốc Khmer, lúc đó
gọi là Cambodge, được đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp.
Từ đó Pháp đại diện cho vương quốc Khmer trong các lãnh vực
đối ngoại và đối nội.

Nhưng nội dung kết ước này vua Norodom không hề nói tới lãnh
thổ, biên giới của vương quốc mình có từ đâu tới đâu.

Người lãnh đạo Pháp ở địa phương lúc đó là đô đốc De
La Grandière, ông này quyết định phân định biên giới nhằm
xác định lãnh vực thuộc quyền quản trị của Pháp. Nhưng
sự mù mờ của biên giới, cộng với sự thiếu hiểu biết
tình hình địa chính trị của khu vực, ông này đã làm cho
phía Thái Lan hưởng lợi.

Biên giới giữa Cambodge với Thái Lan được phân định hấp
tấp, Pháp đại diện Khmer ký kết hiệp ước đầu tiên với
Xiêm vào ngày 15 tháng 6 năm 1867, Xiêm từ bỏ quyền « thuợng
quốc » của Xiêm đối với Khmer, nhưng Pháp phải nhượng cho
Thái lãnh thổ Khmer ở hữu ngạn sông Cửu Long, tức ½ lãnh
thổ Kampuchia hiện nay, gồm các tỉnh Battambang, Sisophon và
Siemreap hiện nay.

Điều này trái ngược trên thực tế, vì trước khi Pháp vào
Cambodge, vương quốc này phải chịu thần phục cả hai bên VN
và Thái Lan. Lập trường ở Paris, là khi ký hiệp ước 1862
với triều đình nhà Nguyễn, nước Pháp có thẩm quyền thay
thế nhà Nguyễn về quyền thượng quốc ở vương quốc Khmer.
Kết ước giữa Pháp với vua Norodom chỉ có ý nghĩa tượng
trưng chứ không mang tính bó buộc của pháp lý. Tức là có hay
không có hiệp ước này thì lãnh thổ Khmer vẫn chịu quyền
thuợng quốc, tức quyền bảo hộ, của Pháp. Điều này hoàn
toàn phù hợp với « luật lệ quốc tế » trong thời kỳ.

Sự sai lầm về biên giới Thái-Miên được sửa chữa lại vào
năm 1893. Các tỉnh của Cambodge nhượng cho Thái trước kia
được khôi phục lại.

Biên giới Việt-Miên được phân định qua hai thời kỳ: năm
1870 và năm 1873. Cuộc phân định năm 1870 có sự hiện diện
của quan chức Khmer, cắm được 60 mốc, nhưng sau khi phân
định xong thì họ lại phản đối. Họ đòi lại vùng gọi là
« mỏ vịt », và người Pháp đồng ý vạch lại biên giới,
trả lại vùng này cho Cambodge. Cuộc phân định năm 1873 gồm 64
mốc.

Các tài liệu của Pháp về phân định biên giới cho thấy,
vừa sau khi cắm mốc xong, phía Cambodge phản đối, các cột
mốc vừa cắm liền bị nhổ đi và dời về phía VN.

Năm 1887 khối Đông dương được thành lập, Cambodge trở thành
một thành phần của khối này, cùng với Cochinchine (Nam Kỳ), An
Nam (Trung Kỳ) và Tonkin (Bắc Kỳ). Lào chỉ được thành lập
sau này, do yêu cầu của ông August Pavie, vào năm 1893.

Đường biên giới giữa Cochichine (miền nam) và Cambodge trở
thành đường biên giới hành chánh, nội bộ của Đông dương,
thuộc thẩm quyền của quan Toàn Quyền người Pháp.

Vùng Darlac thì được sáp nhập và VN năm 1895. Điều này xảy
ra do việc trao đổi đất đai: VN nhượng đất Trấn Ninh cho
Lào, đồng thời Lào nhường vùng đất phía nam nước này cho
Cambodge. Nhưng sau đó, năm 1899 vùng này lại trả về Lào, đến
năm 1904 mới chính thức trở lại VN. Năm 1923 vùng Kontum cũng
được nhập vào Darlac, đồng thời với vùng đất đỏ phía
nam là Buôn Mê Thuộc.

Về lãnh thổ trên biển thì được xác định năm 1939, do nghị
quyết của Toàn quyền Brévié. Đó là một đường thẳng 140°,
thẳng góc so với bờ biển, theo đó các đảo phía bắc
đường này thuộc Cambodge và các đảo phía nam thuộc VN, trong
đó bao gồm đảo Phú Quốc.

Đến năm 1939, biên giới trên đất liền hai bên Việt-Khmer
được phân định hoàn tất. Biên giới này là biên giới
thuộc địa, thuộc nội bộ của nước Pháp, chứ không phải
là đường biên giới quốc tế giữa quốc gia với quốc gia.

Các học giả Kampuchia hiện nay, một số theo chủ nghĩa «
irrédentisme », tức chủ nghĩa đòi lại đất, cho rằng Pháp
đã thiên vị VN lúc phân định biên giới, do đó có khuynh
hướng không nhìn nhận đường biên giới này. Chủ quyền
đảo Phú Quốc và các đảo chung quanh cũng bị đặt lại.
Điều này không phù hợp với các luật lệ cũng như tập quán
quốc tế.

Theo nguyên tắc « Uti possidetis » của công pháp quốc tế, áp
dụng cho lãnh thổ các nước thuộc địa sau khi lấy lại
được nền độc lập. Trong thời kỳ thuộc địa, lãnh thổ
đó do bên này quản lý, thì sau khi dành được độc lập, vùng
đất đó sẽ tiếp tục do bên này quản lý.

Vì vậy, hầu hết lập luận của các học giả Kampuchia hiện
nay, khi lên tiếng đòi lại đất của VN, như đảo Phú Quốc,
vùng lãnh thổ gọi là Khmer Krom (tức là vùng đất hiện nay
thuộc tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu…), đều không
thuyết phục, nếu không nói là trái ngược với luật lệ và
tập quán quốc tế.

Thử tưởng tượng, ai cũng có thể đòi lại đất như vậy,
thì nước Mỹ, nước Úc, Canada v.v… sẽ biến mất, vì đất
đó là của người dân bản địa, chứ không phải của dân da
trắng hiện nay. Cũng như nhiều nước Nam Mỹ, các nước Châu
Phi… sẽ không còn tồn tại. Nên biết là đường biên giới
các nước Phi Châu là do hai đế quốc thực dân Anh và Pháp
phân định. Để ý thì thấy là đường biên giới ở đây
thường đi theo đường thẳng, đường kinh tuyến, vĩ tuyến…
nguyên nhân vì hai bên phân định trong văn phòng, trên bản
đồ. Hậu quả của việc phân định như thế làm cho nhiều
dân tộc không có quốc gia, hay một dân tộc bị chia cắt ra,
mỗi phần ở trên một quốc gia khác nhau. Và ta thấy rằng các
đường biên giới đó vẫn còn giá trị pháp lý cho đến hôm
nay.

Vì thế đòi hỏi của các học giả Khmer, đi ngược lại tinh
thần của quốc tế công pháp. Điều cần nhấn mạnh là các
cuộc phân giới, mặc dầu do quan người Pháp điều khiển,
nhưng các quan chức người Miên và người Việt đều có hiện
diện. Vấn đề là họ không phản đối lúc phân định mà
chỉ phản đối khi phân định đã hoàn tất. Sau này ta sẽ
thấy, lập luận của Sihanouk về biên giới thay đổi như chong
chóng, hết dựa phía này đến dựa phía bên kia.

Năm 1945 khi Nhật đến thì lập tức nhảy sang Nhật. Khi thấy
thế lực Trung Cộng nổi lên, Mao Trạch Đông thắng Tưởng
Giới Thạch tháng 10 năm 1949, Sihanouk lại có khuynh hướng dựa
vào Trung Cộng. Trong thời gian hội nghị Genève 1954, ông này
nghĩ rằng sẽ được TQ giúp đỡ lấy lại đất, do đó đưa
ra những yêu sách rất phi lý. Trong thời chiến tranh VN, Sihanouk
lại thiên về phía CSVN, giúp phe này, hy vọng khi họ chiến
thắng sẽ trả lại đất đai. Rồi sau 1975, các phe Kampuchia,
kể cả Sihanouk, cũng lại chống VN vì họ cho rằng lãnh đạo
CSVN không giữ lời hứa trả lại đất, vì thế cuộc chiến
1978 bùng nổ. Từ đó cho đến nay, vấn đề biên giới, lãnh
thổ, hải phận… giữa VN và Kampuchia, lúc nóng, lúc lạnh tùy
thuộc vào sự tốt lành quan hệ ngoại giao giữa VN và TQ.
Những lúc sau này, tranh chấp giữa VN và TQ căng thẳng vì việc
TQ đặt giàn khoan 981 trong thềm lục địa của VN, ta thấy các
sư sãi, các chính trị gia Kampuchia lại dấy lên các cuộc biểu
tình, đòi lại đất. Những điều này ta sẽ trở lại nói rõ
hơn ở phần sau.

<h2>3/ Thời kỳ thứ ba, từ 1945 cho đến năm 1954:</h2>

Trước khi nói về các diễn tiến liên quan đến biên giới
giữa hai bên Việt-Miên trong thời kỳ này, cũng nên nói lại
một số chi tiết liên quan đến đất đai, lãnh thổ sau khi
Nhật đảo chánh Pháp ngày 9 tháng ba năm 1945.

Sihanouk đơn phương tuyên bố Cambodge độc lập. Tháng 6 năm 1945
Sihanouk đưa kiến nghị lên lãnh đạo Nhật, xin Nhật trả lại
Nam Kỳ cho Cambodge, thay vì trả cho triều đinh Huế. Nên biết,
lúc đó Nam Kỳ có qui chế là thuộc địa của Pháp, tương tự
các lãnh thổ hải ngoại của Pháp hiện nay như Calédonie, Gyuane
hay Réunion. Quan chức Nhật chưa quyết định gì thì thua trận
Đại chiến trước Đồng minh.

Pháp vào lại VN, gặp nhiều sự kháng cự của kháng chiến VN,
trong khi chính phủ của ông Hồ tuyên bố thành lập nước
VNDCCH ngày 2-9-1945 ở miền Bắc. Do những khó khăn này, cùng
với thế lực kiệt quệ do đất nước bị tàn phá do Thế
chiến II, Chính phủ Pháp quyết định tổ chức các nước
Đông dương để trở thành Khối liên hiệp Pháp. Ông Bảo
Đại được Pháp đề nghị trả lại lãnh thổ mà nhà Nguyễn
đã ký giao cho Pháp trước kia. Điều kiện Bảo Đại là phải
trả Nam Kỳ và nước VN là một nước thống nhất ba miền
bắc, trung, nam. Pháp đồng ý nguyên tắc này và điều này
được lập lại trong Hiệp định Genève 1954. Quốc gia VN
được thành lập vào năm 1949, đúng với thể thức quốc tế
công pháp. VN cùng với Lào và Combodge, trở thành những « quốc
gia liên kết » trong khối Liên hiệp Pháp.

Phái đoàn của Cambodge được gởi qua Paris điều trần ngày 2
tháng 4 năm 1949, mục đích thuyết phục quốc hội Pháp trả
lại Nam Kỳ cho Cambodge. Lý lẽ của phái đoàn Cambodge là lúc
ký hiệp định bảo hộ với Pháp năm 1863, nội dung kết ước
không nói đến số phận của Nam Kỳ, là vì vương quốc này
nhường đất này cho Pháp sử dụng. Bây giờ Pháp không cần
đến lãnh thổ này nữa, hợp lý là phải trả lại cho Cambodge
chớ không thể trả cho triều đình Huế.

Lý lẽ này không thuyết phục được chính giới Pháp vì lẽ,
các tỉnh Nam Kỳ là do triều đình Huế nhượng cho Pháp theo
các hiệp ước 1862 và 1874. Trong khi hiệp định 1863 giữa Pháp
và Miên thì không hề có một điều bảo lưu nào về lãnh
thổ.

Quốc hội bác yêu sách này với đa số. Nhưng yêu sách về
lãnh thổ của Cambodge thì được một số dân biểu cách tả
của quốc hội Pháp ủng hộ.

Thấy đòi nguyên cả Nam Kỳ không xong, ngày 2-5-1949 Quốc hội
Cambodge cho ra một kiến nghị yêu cầu nhà nước Pháp phân
định lại biên giới. Những người này cho rằng biên giới
giữa Nam Kỳ và Miên chưa bao giờ được phân định. Các cuộc
phân định trước hoàn toàn mang tính cách thiên vị, gây thiệt
hại cho Cambodge. Kiến nghị này cũng bị quốc hội Pháp bác
bỏ.

Do căm hận Pháp đã không thỏa mãn các yêu sách của mình,
Sihanouk có khuynh hướng nghiêng về Trung Cộng, là một thế
lực đang lên, đứng sau chính phủ Hồ Chí Minh, đối đầu
với Pháp trong vấn đề VN. Ông này nghĩ rằng TQ sẽ dùng chính
phủ của ông chống lại Pháp ở mặt trận phía tây. Vì thế
trong hội nghị Genève 1954, Sihanouk công bố trước các đại
cường yêu sách về lãnh thổ của Cambodge. Sihanouk đề nghị 6
giải pháp, hết sức là cường điệu, có nội dung dẫn lại
sơ lược như sau:

Sihanouk đòi, hoặc trả lại cho Cambodge toàn vùng đất phía
hữu ngạn sông Hậu Giang, bao gồm thêm các tỉnh Trà Vinh, đảo
Phú Quốc và vùng đất giới hạn giữa kinh Tân Châu và sông
Tiến Giang đồng thời tàu bè Cambodge có quyền quá cảnh ở
Sài Gòn.

Hoặc là trả lại các vùng lãnh thổ trải dài cho tới hữu
ngạn sông Tiền Giang, gồm các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Long
Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc và đảo
Phú Quốc, quyền được quá cảnh ở Sài Gòn đồng thời dân
Khmer phai được bảo vệ.

Hoặc phải « quốc tế hóa Nam Kỳ », kinh Vĩnh Tế và hải
cảng Sài Gòn có qui chế tự do, bãi miễn thuế quan. Còn không
là phải đặt Nam Kỳ và đảo Phú Quốc dưới sự quản trị
của LHQ.

Các đòi hỏi phi lý này không được nước nào ủng hộ. Sự
bẽ bàng của Sihanouk càng lên cao trong hội nghị Genève tháng 8
năm 1954 giữa Pháp và các nước Đông dương. Yêu sách của
Sihanouk dĩ nhiên không được ngó ngàng đến. Tuy vậy, kết
cuộc hội nghị nhìn nhận Cambodge được quyền thông lưu trên
sông Cửu Long để ra biển cũng như được quyền sử dụng
thuơng cảng Sài Gòn. Nhưng các điều này bị VN bảo lưu, lý do
cần xem xét lại luật lệ quốc tế để xem rằng Cambodge có
chính đáng được hưởng các quyền này hay không? Cuối cùng
thì các quyền này của Cambodge bị VN bác bỏ dưới thời ông
Diệm.

<h2>4/ Thời kỳ thứ tư, từ 1954 đến 1975.</h2>

Sau thất bại ở hội nghị Genève 1954, Sihanouk nuôi dưỡng ý
định trả thù. Ông này dung dưỡng mọi thế lực chống lại
chính phủ Bảo Đại, sau này là Ngô Đình Diệm.

Một số thí dụ, các lực lượng tôn giáo chống ông Diệm
được Sihanouk cho phép lập sào huyệt trên đất Miên. Vì vậy
để tảo thanh, quân VNCH buộc phải đi vào đất của Cambodge.
Các xung đột này bắt đầu từ năm 1955. Dĩ nhiên, Sihanouk lợi
dụng các việc này vừa tố cáo VN, trong khi trên thực địa
thì cho người dời cột mốc phân giới sang phía VN. Để trả
đũa, ông Diệm tuyên bố hủy bỏ mọi « quyền lịch sử »
của Cambodge trên lãnh thổ VN.

Đến năm 1960 thì lực lượng MTGPMN được thành lập. Tổ
chức này cũng xây dựng sào huyệt trên lãnh thổ Cambodge, dĩ
nhiên dưới sự đồng ý ám thị của Sihanouk. Theo một số tài
liệu, phía VNDCCH « nhìn nhận đường biên giới hiện trạng
của Cambodge », trong khi MTGPMN, cũng như nhiều cán bộ cấp cao
của CSVN, thì hứa hẹn, nếu thắng được VNCH thì sẽ trả
lại đảo Phú Quốc cho Cambodge.

Vì các hứa hẹn này các đường mòn gọi là đường mòn HCM
được Sihanouk đồng ý cho thiết lập. Con đường huyết mạch
tiếp tế lương thực và vũ khí cho quân MTGPMN cũng như quân
chính qui miền Bắc sau này.

Quan hệ giữa Sihanouk và VNDCCH thân thiết đến mức độ vào
tháng 8 năm 1963, Cambodge tuyên bố chấm dứt ngoại giao với
VNCH.

Sau khi ông Diệm bị đảo chánh 1-11-1963, quan hệ hai bên VNCH và
Cambodge vẫn không ấm áp trở lại, mà còn tệ hai hơn. Nguyên
nhân, người Mỹ chính thức đổ quân vào VN, các cuộc hành
quân, càn quét, dội bom trên đất Kampuchia nhằm phá hoại
đường mòn HCM… các việc này gây ra những thiệt hại đáng
tiếc cho phía thường dân Kampuchia. Tháng 7 năm 1965, Sihanouk
kiện VNCH lên LHQ về việc xâm phạm lãnh thổ. LHQ có điều tra
nhưng chỉ kết luận rằng VNCH có vào lãnh thổ Cambodge sau đó
rút về, vì lý do bên Cambodge có dung chứa các lực lượng
đối kháng, chứ VNCH không có xâm chiếm lãnh thổ của Cambodge.

Không hài lòng kết quả điều tra của LHQ, Sihanouk lên tiếng
kêu gọi quốc tế ủng hộ Cambodge, nhìn nhận « đường biên
giới hiện trạng » của nước này. Một số nước ủng hộ,
trong đó có Pháp. Điều này có thể hiểu vì Pháp vẫn còn cay
đắng Mỹ trong việc dành chỗ của Pháp tại Đông Dương,
không giúp Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Năm 1966 Pháp ủng
hộ Cambodge « trung lập ». Nhưng việc này không thuyết phục
được ai vì tên đất Kampuchia vẫn còn nguyên các sào huyệt
của MTGPMN cũng như các con đường tiếp tế gọi là đường
mòn HCM.

Cuối cùng thì Sihanouk bị tướng Lon Nol lật đổ năm 1970.

Sau khi lên nắm quyền, Lon Nol yêu cầu tất cả các lực lượng
của CSVN rút khỏi Kampuchia. Cũng như bất kỳ một người
Cambodge nào khác, Lon Nol cũng rất bài Việt. Trong lúc cuộc
đảo chánh, các cuộc thảm sát thường dân VN đã diễn ra,
thây người thả đầy trên sông Cửu Long. Một số lớn người
Việt phải hồi hương. Việc này càng tạo thêm gánh nặng và
sự bất ổn trong xã hội miền Nam.

Lực lượng Khmer đỏ được thành lập dưới sự yễm trợ và
huấn luyện của CSVN. Trên thực tế, vùng phía bắc lãnh thổ
Kampuchia hoàn toàn do quân đội CSVN kiểm soát. Nhưng trong nội
bộ của Khmer đỏ lại có nhánh có tinh thần bài Việt cực
kỳ. Vì thế họ ly khai. Những nhóm này cũng giết chóc và
khủng bố đồng thời trục xuất người Việt, như những lãnh
đạo khác của Kampuchia.

Tóm lại, thời kỳ này đường biên giới, cũng như kiều dân
VN sống trên đất Kampuchia, trở thành con tin bị các phía
Kampuchia trao đổi quyền lợi chính trị. Trong thời chiến, vấn
đề biên giới không kiểm soát được, nhưng dân chúng VN là
nạn nhân trực tiếp của các tranh chấp này. Con số nạn nhân
VN bị giết phải nói là rất lớn.

<h2>5/ Thời kỳ thứ năm từ 1975 đến hôm nay.</h2>

Từ năm 1975 cho đến 1990, ta có thể nói rằng khu vực Đông
dương vừa là một chiến trường, vừa là một bàn cờ địa
chiến lược của các thế lực quốc tế, gồm có các nước
liên hệ trong khu vực và các đại cường Trung Cộng, Liên Xô
và dĩ nhiên là Mỹ. Vấn đề biên giới, Cambodge không chỉ có
tranh chấp với VN mà còn có tranh chấp với Thái Lan về chủ
quyền ngôi đền Préah Viheart cũng như ranh giới ngoài biển,
từ sau khi lấy lại độc lập năm 1953. Trong thời gian này vấn
đề biên giới giữa các bên không chính thức đặt ra, mặc
dầu nó luôn là cái cớ để chiến tranh bùng nổ. Nhất là
đối với hai nước Việt-Miên.

Sau khi quân Pol Pot tiến vào Nam Vang, cũng như quân miền Bắc
chiếm Sài Gòn. Tháng 6 năm 1975, một phái đoàn của Khmer đỏ
gởi đến Hà Nội để nhắc lại những cam kết của CSVN: «
nhìn nhận đường biên giới hiện trạng của Cambodge » trong
thập niên 60 về vấn đề lãnh thổ của Kampuchia. Những
người này, theo dự kiến là sẽ ký kết ước với Hà Nội
để bảo đảm sự « toàn vẹn lãnh thổ » của hai nước.
Nhưng nhóm Khmer đỏ thân TQ trong phái đoàn bất đồng ý kiến
với nhóm thân Hà Nội. Phe thân Bắc Kinh lên tiếng đòi VN trả
lại cho họ vùng lãnh thổ gọi là « Khmer Krom ». Điều nên
biết, chiến thắng ngày 30-4-1975 của CS miền Bắc đã làm cho
lãnh đạo Bắc Kinh tức tối. Chủ trương của TQ từ xưa nay
là chống lại VN thống nhất, cũng như chống lại việc VN quá
thân thiện hay lệ thuộc vào Liên Xô. Phía bắc, áp lực của
Liên Xô đã trầm trọng, quân Liên Xô đóng dài dài trên biên
giới gây áp lực. Biển Hoa Đông thì bị Nhật, Đài Loan án
ngữ. Biển Đông thì hạm đội Liên Xô đã có mặt tại Cam
Ranh. Nếu Kampuchia hòa hoãn hay thân thiện với VN thì TQ sẽ
không có cách gì để phá vỡ thế cô lập. Mặt khác, quyền
lợi của Mỹ cũng bị đe dọa, các nước chung quanh như Thái
Lan, Mã Lai v.v... sẽ sụp đổ, theo như thuyết Domino của Mỹ.
Vì vậy Bắc Kinh, cũng như Mỹ, chắc chắn phải tìm cách đẩy
hai bên VN và Kampuchia vào thế đối đầu.

Vì thế, cả hai đại cường, Mỹ và TQ, một tư bản, một
cộng sản, do cùng mục tiêu ngăn chặn Liên Xô bành trướng,
lại hợp tác với nhau, ra mặt ủng hộ Pol Pot chống lại VN.
Dĩ nhiên, nguyên nhân bên ngoài là tranh chấp đất đai, nhưng
bên trong là sự tranh giành ảnh hưởng địa chiến lược trong
khu vực của các đại cường. Vì vậy, như đã nói, lãnh thổ
trong quảng thời gian này là cái cớ để chiến tranh bùng nổ.

Để kích thích VN vào vòng chiến, trong lúc phái đoàn Khmer đỏ
còn ở Hà Nội thì quân Khmer đỏ đã đánh chiếm cù lao Poulo
Wai trong vịnh Thái Lan. Dọc biên giới thì quân Khmer đỏ đã
sẵn sàng dàn quân ứng chiến. Như thường lệ, những người
dân VN sinh sống ở Kampuchia lại trở thành nạn nhân. Trên
150.000 người bị ngược đãi, trục xuất về VN. Con số bị
giết không biết là bao nhiêu, nhưng chắc chắn không nhỏ.
Tháng 6 năm 1976, VN gởi sứ giả sang Nam Vang hy vọng làm dịu
tình hình, nhưng phía Khmer đỏ đòi phải phân định lại biên
giới, thay đổi đường biên giới theo các bản đồ của Sở
địa dư Đông dương ấn hành năm 1954, trong khi phía VN thì nhìn
nhận đường biên giới hiện trạng là đường biên giới thể
hiện trên bộ bản đồ này. Mặt khác, hai bên cũng không
đồng thuận về biên giới trên biển.

Phía Khmer đỏ gia tăng khiêu khích, từ năm 1975 đến 1978, bọn
này đã tiến sang VN đánh phá và tàn sát dân chúng ở 25 huyện
và 96 xã, gây ra trên 257.000 nạn nhân màn trời chiếu đất.
Trong năm 1977, Pol Pot cho quân lính tiến sang Tây Ninh tàn sát dân
chúng sinh sống ở đây, nhưng sự phản ứng của quân VN, do
thiện chiến hơn, đã làm cho quân Khmer thiệt hại nặng. Và
cũng để trả đũa những vụ tàn sát dân lành vô tội sinh
sống các tỉnh dọc biên giới, tháng 12 năm 1977, VN mở một
cuộc hành quân thần tốc vào tỉnh Svay Rieng khiến quân Khmer
đỏ thiệt hại nặng nề. Cuối năm, Pol Pot tuyên bố chấm
dứt quan hệ ngoại giao với VN.

Chiến tranh Việt-Miên bùng nổ. Dưới sự quan sát của các
học giả quốc tế, cuộc chiến này là một cuộc chiến « ủy
nhiệm ». Pol Pot đánh VN là đánh cho Trung quốc. Còn VN đánh là
đánh cho Liên Xô.

Tháng 12 năm 1978, quân VN tiến vào Nam Vang, đánh đuổi Pol Pot
và thành lập chính phủ thân VN ở đây. Cùng với chính phủ
này, VN đã ký kết các hiệp định « các nguyên tắc giải
quyết các vấn đề biên giới ». Trên đất liền ký năm 1982,
trên biển ký năm 1983.

Trả lời phỏng vấn báo chí, Nguyễn Cơ Thạch cho rằng VN tôn
trọng đường biên giới hiện trạng theo bộ bản đồ Đông
dương 1/100.000. Nhưng Sihanouk, năm 1984, tố cáo trước dư luận,
qua thủ tướng Thái Lan, rằng VN đã chiếm vùng « mỏ vịt »,
tức là tỉnh Svay Rieng.

Về biên giới trên biển, theo nội dung các văn bản tham khảo
được thì hai bên cùng đồng ý "lấy đường Brévié được
vạch ra năm 1939 làm đường phân chia các đảo trong khu vực
này", hai bên đồng thuận về « vùng nước lịch sử » trong
khu vực đảo Phú Quốc và "sẽ thương lượng vào thời gian
thích hợp… để hoạch định đường biên giới biển giữa
hai nước".

Đảo Wai được VN trả lại cho Kampuchia.

Tháng 12 năm 1985 hai bên ký lại « Hiệp ước hoạch định biên
giới ». Ngày 10-10-2005 ký thêm « Hiệp ước bổ sung » về
biên giới. Hai bên bắt đầu cắm mốc từ năm 2006. Ta thấy
tỉnh Svay Riêng, tức vùng Mỏ vịt, vẫn thuộc lãnh thổ của
Kampuchia. Tức là lời tố cáo của Sihanouk là không đúng.

Điều nên biết, sau khi quân Pol Pot vào Nam Vang thành lập chính
quyền thì Sihanouk được mời về làm quốc trưởng. Nhưng
liền sau đó thì bị bạc đãi, tính mạng bị đe dọa. Bắc
Kinh tìm cách can thiệp và đưa ông này đi Trung Quốc. Ở Bắc
Kinh Sihanouk được đối đãi như là một thuợng khách. Bởi vì
lãnh đạo Trung Nam Hải biết được giá trị ở con cờ
Sihanouk. Ông vua này có thể làm bất cứ điều gì để chống
lại VN. Cũng vì lý do này mà đất nước Kampuchia điêu linh,
thần dân của ông bị nhà nước Khmer đỏ tiêu diệt gần 1/3,
trong đó có họ hàng thân thích của ông. Điều trớ trêu là
nhà nước này do TQ dựng lên, lúc đó ông là một thành phần
của nhà nước này.

Tuy vậy, hiện nay TQ vẫn là một đồng minh được ưa chuộng
tại Kampuchia. Người Việt ở đây bị kỳ thị bao nhiêu thì
người Hoa được ưu đãi bấy nhiêu. Toàn thể huyết mạch kinh
tế TQ hiện nay là do 10 giòng họ người Hoa nắm giữ. Liên minh
Trung Hoa – Khmer hứa hẹn sẽ bền chặt lâu dài mà chất keo
hàn gắn hai bên là tinh thần bài Việt. Vấn đề lãnh thổ
luôn được các bên sử dụng như là một cái cớ để khích
động dân chúng để chống đối VN.

<h2>6/ Yếu tố Trung Quốc.</h2>

Như đã nói ở trên, sau 1975, lãnh thổ chỉ là cái cớ để TQ
kích động khiến Khmer đỏ gây hấn VN. Thì bây giờ cũng
vậy, vấn đề lãnh thổ cũng là cái cớ để TQ khích động
tinh thần bài Việt trong dân chúng Kampuchia trong thời gian gần
đây.

Vấn đề là biên giới trên đất liền đã được hai bên ký
hiệp định và các mốc giới vừa được cắm xong. Hai bên
đều thỏa mãn với yêu sách của mình, vì việc phân giới
được thực hiện trên tinh thần bình đẳng, không ai ép ai. Do
đó sử dụng lãnh thổ vùng biên giới để kích động đã
không còn hữu hiệu. Những người Kampuchia hiện nay lên tiếng
chống VN thuộc phe Sam Rainsy, một người theo dân tộc chủ
nghĩa, rất thân TQ. Lá cờ đầu để những người này trương
lên chống VN trước kia là các cột mốc biên giới, nay đổi
lại là vùng Khmer Krom và những người dân bản địa sống ở
đó.

Nhưng việc khích động người dân như thế không dễ dàng,
nếu không có một cái cớ chính đáng nào đó. Điều này lại
do nhà cầm quyền CSVN tạo ra. Đó là chính sách hà khắc của
nhà cầm quyền này lên những người dân của họ. Điều này
không làm ai ngạc nhiên, vì chính đồng bào ruột thịt của
họ là dân miền Nam cũng bị phân biệt đối xử. Những
người dân bản địa (mà nhiều người hiện nay gọi là
người Việt gốc Miên) bị truất hữu ruộng đất, và đây là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân khiến người dân ở đây
chống nhà cầm quyền VN.

Nếu ta xét lại những đòi hỏi của những người tổ chức
biểu tình chống VN ở Nam Vang thì ta thấy nó không rõ ràng,
đôi khi mâu thuẩn. Những yêu sách của họ như buộc VN phải
« nhìn nhận sự thật lịch sử », hay nhìn nhận « VN chiếm
đất của Kampuchia » đều có vẻ không thực tế.

Vấn đề là họ đã lầm lẫn giữa quyền sở hữu đất đai
của những người dân bản địa bị nhà nước CSVN truất bỏ,
với chủ quyền về lãnh thổ.

VN có chủ quyền về lãnh thổ ở các khu vực mà dân Khmer gọi
là Khmer Krom, điều này đã được củng cố bởi thời gian
hàng nhiều thế kỷ qua, cũng như được bảo đảm bởi luật
lệ quốc tế. Ý nghĩa của từ chủ quyền ở đây là « quyền
lực chủ tể » trên vùng lãnh thổ đó chứ không phải là «
quyền làm chủ », hay quyền sở hữu vùng lãnh thổ đó như
nhiều người đã hiểu lầm. Quyền lực chủ tể có thể ban
phát quyền sở hữu về đất đai, nhưng cũng có thể truất
hữu, hay bãi bỏ quyền đó. Vấn đề là nhà nước CSVN lạm
dụng « quyền chủ tể » này, truất hữu hàng loạt ruộng
đồng, nhà cửa, không chỉ của dân bản địa, mà của nhân
dân trên khắp ba miền đất nước, gây sự bất mãn cùng cực
nơi mọi tầng lớp người dân. Cán bộ CS lạm dụng quyền
chức, lấy đất của người thấp cổ bé miệng giao cho những
thế lực tài phiệt nhằm trục lợi. Các điều này tạo ra
những bất công, làm cho sự thù hận của người dân ngun ngút
đến trời cao.

Vì vậy, do nhập nhằng về khái niệm, những người dân bản
địa phẫn uất đã bỏ VN sang sinh sống ở Kampuchia. Tại đây
họ được các thế lực bài Việt kích động, trở lại chống
VN. Điều cần nhấn mạnh: họ là người VN, sinh đẻ tại VN,
tổ tiên của họ đã ở trên vùng đất đó từ lâu đời.
Điều ngạc nhiên là đến bây giờ những người này vẫn bị
xem là « người Việt gốc Miên ». Tức là chính sách phân
biệt giai cấp của CSVN đã đổi màu để biến thành chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc.

Trên đất Kampuchia, mặc dầu họ có chung nguồn gốc xa xôi,
nhưng họ vẫn là người VN. Để tạo sự tin tưởng nơi
người Kampuchia chính gốc, những người dân Việt ly hương này
chống VN còn cực đoan hơn những người dân Kampuchia chính
gốc. Đây là một hiện tượng tâm lý, dễ bị người khác
lợi dụng.

Điều đáng lo ngại là TQ có thể sử dụng lớp người bất
mãn này, nuôi dưỡng họ, huấn luyện họ. Trong khi kinh tế
Kampuchia lại có khuynh hướng phát triển hơn VN. Việc này càng
tạo cho Kampuchia một sức hút khiến người Việt đổ xô về
đây tìm cách sinh sống. Tất cả các yếu tố này đều nguy
hiểm cho VN. Ta không thể bỏ qua viễn tượng, một ngày nào
đó, chính những người Việt này được TQ vũ trang để trở
về chống lại VN.

Lúc đó, một VN yếu, kinh tế kém phát triển, kéo theo sự yếu
kém về quân sự, có thể dễ dàng bị lệ thuộc vào nước
ngoài.

<h2>7/ Giải pháp nào?</h2>

Như đã nói, vấn đề bài Việt ở những người dân bản
địa VN, vấn đề đòi lại đất, là do từ chính sách hà
khắc của nhà nước CSVN. Chủ trương « sở hữu tập thể về
đất đai » thực ra là để tạo một nguồn kinh tài cho đảng
CSVN. Ở VN hiện hữu cái gọi là « quĩ đất ». Lãnh đạo có
thể sử dụng đất từ các « quĩ » này như là một nguồn
tài chánh, tương tự như các mỏ dầu khí, đưa vào ngân sách
quốc gia để chi phí điều hành. Việc lạm dụng đã tạo ra
tại VN một tầng lớp dân oan, những người trắng tay vì đất
đai bị truất hữu. Việc truất hữu phần nhiều không minh
bạch, vì mục đích của nó không nhằm phục vụ cho quyền
lợi của số đông mà chỉ cho một vài cá nhân, tài phiệt.
Những người dân oan này phần nhiều là những người dân tộc
thiểu số vùng tây bắc, trên tây nguyên, hay ở miền Nam.

Trong khi việc tạo « quĩ đất » không hề thúc đẩy kinh tế
phát triển. Ngược lại, tệ nạn đầu cơ về nhà đất đã
tạo ra những bong bóng tài chính đe dọa sự hiện hữu cũng
như các hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Nền kinh tế VN
có nguy cơ sụp đổ.

Khi đã biết được nguyên nhân thì biện pháp chế ngự hệ
quả không phải là việc khó khăn. Đối với những người dân
bản địa ở miền Nam, để họ không bỏ nước sang Kampuchia
lập tổ chức chống đối, điều nhà nước cần phải làm là
cho những người đó thấy là sống ở VN sung sướng, thoải
mái hơn là sống ở Kampuchia. Việc này không chỉ áp dụng cho
những người dân bản địa, mà cho chung mọi người dân VN.
Tức là kinh tế VN phải phát triển hơn Kampuchia. Chế độ VN
nhân bản, tình người hơn chế độ Kampuchia. Tức là, chỉ còn
cách duy nhất là thay đổi thế chế chính trị: dân chủ hóa
chế độ. Chỉ dưới một chế độ dân chủ VN mới có thể
phát triền lành mạnh.

Tiếp theo là trả lại cho người dân những gì đã là của
họ. Những gì của tổ tiên họ đã tạo ra, đã là của họ,
thì phải trả lại cho họ. Trả ở đây là trả quyền sở
hữu đất đai chứ không phải từ bỏ « chủ quyền lãnh thổ
». Kế đến là xây dựng một chính sách « hòa giải dân tộc
». Làm thế nào cho mọi người dân thấy rằng họ được tôn
trọng. Tôn trọng về nhân vị là tôn trọng văn hóa, tôn giáo,
lịch sử, lề lối sinh hoạt… của người dân đó.

Sẽ không có biện pháp nào khác. Mọi đàn áp, trừng trị tù
tội hôm nay sẽ không dẹp được ngọn lửa căm hờn, mà chỉ
làm cho áp lực ngày càng tăng thêm. Một khi nhà nước yếu đi,
vì lý do kinh tế thí dụ vậy, thì ngọn lửa này sẽ bùng cháy
mãnh liệt. Nếu được sự tiếp tay của ngoại bang, thì VN sẽ
không có cách nào trấn áp được. Lãnh thổ bị phân liệt là
điều sẽ đến.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/node/30093), một số đường liên kết và
hình ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận
để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn
tường lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt
tường lửa tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc
ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét