Sự áp đảo của đồng Đô-la và tình trạng áp chế tài chính

<center><img
src="http://nghiencuuquocte.net/wp-content/uploads/2014/11/Dollar-Map-650x360.jpg"
width="600" /></center>
Một thế hệ các nhà kinh tế phát triển nợ Ronald McKinnon,
người vừa qua đời hồi đầu tháng này, một khoản nợ tri
thức khổng lồ vì quan điểm thấu đáo của ông – được
giới thiệu trong cuốn sách xuất bản năm 1973 <em>Tiền và Vốn
trong Phát triển Kinh tế</em> (Money and Capital in Economic
Development). Quan điểm này nói về việc các chính phủ tham gia
vào việc áp chế tài chính (financial repression) [1] làm cản trở
phát triển tài chính. Thật vậy, McKinnon cung cấp chìa khóa
để hiểu lý do tại sao các khu vực tài chính của các nền
kinh tế mới nổi ở tình trạng kém phát triển.

Vào cuối đời, McKinnon tiếp tục nghiên cứu về một khái
niệm liên quan – cũng có khả năng đột phá: một bản vị
kép USD – Nhân dân tệ. Theo ông, một hệ thống như vậy sẽ
làm giảm bớt sự áp chế tài chính và sự phân mảnh đang làm
xói mòn sự ổn định và tăng trưởng tài chính toàn cầu. Câu
hỏi đặt ra là liệu các chính quyền – đặc biệt là ở Hoa
Kỳ, vốn từ lâu đã được hưởng lợi từ sự thống trị
toàn cầu của đồng USD – liệu có bao giờ chấp nhận một
hệ thống hợp tác như thế hay không.

Quan điểm cho rằng sự thống trị toàn cầu của đồng USD
đang góp phần dẫn tới tình trạng áp chế tài chính đại
diện cho một sự chuyển đổi lịch sử quan trọng. Như McKinnon
đã chỉ ra, đồng đô la đã trở thành một loại tiền tệ
quốc tế chiếm ưu thế sau Thế Chiến II bởi nó giúp làm
giảm áp chế tài chính và sự phân mảnh ở châu Âu và châu
Á, nơi mà việc lạm phát cao, tỷ lệ lãi suất thực âm, và
quá nhiều quy định điều tiết chiếm ưu thế. Bằng cách sử
dụng đồng đô la để neo giá và dùng tỷ lệ lãi suất của
Cục Dự trữ Liên bang làm tiêu chuẩn tham khảo xác định chi
phí vốn, lập hóa đơn, thanh toán, thanh toán bù trừ, thanh
khoản, và dự trữ ngân hàng trung ương, tất cả trở nên ổn
định và đáng tin cậy hơn.

Chừng nào Mỹ vẫn duy trì được sức cạnh tranh và hiệu
quả, các đồng tiền đã được neo vào đồng USD được
hưởng lợi đáng kể. Đối với các nền kinh tế trong quá
trình chuyển đổi – như Tây Âu trong những năm 1950-1960, châu
Á trong thời kỳ tăng trưởng thần kỳ những năm 1970 – 1990,
và Trung Quốc vào những năm 1996 – 2005 – đồng đô la cung
cấp một điểm neo cho những nỗ lực ổn định kinh tế vĩ mô
và kỷ luật tài khóa và tiền tệ mà việc chuyển đổi cấu
trúc đòi hỏi.

Nhưng hai sự gián đoạn đã làm suy yếu những lợi ích này.
Đầu tiên, vào năm 1971, Mỹ đã chấm dứt chuyển đổi USD sang
vàng, mở đường cho sự nổi lên của một chế độ tỷ giá
hối đoái mới, dựa trên sự thả nổi tự do tỉ giá tiền
giấy.

Sau đó, đến giai đoạn "bong bóng Nhật Bản" trong những
năm 1980 và 1990, mà cực điểm là việc Mỹ đe dọa áp đặt
các biện pháp trừng phạt thương mại nếu áp lực cạnh tranh
của Nhật Bản đối với các ngành công nghiệp Mỹ không
được giảm bớt. Với việc tỷ giá đồng Yên/USD tăng mạnh,
từ ¥360: $1 thành ¥80:1, nền kinh tế lớn thứ hai của thế
giới đã trải qua hai thập kỷ giảm phát và đình trệ.

Trong suốt thời gian này, McKinnon lập luận rằng, bằng cách
buộc các đối tác thương mại của Mỹ phải chịu gánh nặng
của việc điều chỉnh, ưu thế của đồng USD dẫn đến
"tác dụng đối lập": các nước có thặng dư (thương mại)
như Nhật Bản, Đức, và Trung Quốc đã phải đối mặt với
áp lực phải tăng giá đồng tiền của họ, điều có nguy cơ
gây ra tình trạng giảm phát. Nếu họ không làm như vậy, chính
sách tỷ giá hối đoái "định giá thấp đồng nội tệ"
của họ bị chỉ trích là không công bằng.

Nhưng McKinnon không đồng ý với suy nghĩ thông thường rằng
cách tốt nhất để giải quyết cuộc xung đột này sẽ là
chuyển đổi sang chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt. Thay
vào đó, ông đề nghị rằng các nước châu Á cần phát triển
một loại tiền tệ khu vực để tạo ra sự ổn định kinh tế
vĩ mô trong bối cảnh biến động của đồng đô la. Rất lâu
trước khi các thể chế Bretton Wood thừa nhận rằng kiểm soát
vốn có thể là hữu ích, McKinnon đã khẳng định rằng, trong
những hoàn cảnh nhất định, những sự kiểm soát như vậy có
thể là cần thiết để bổ sung cho việc điều tiết thận
trọng hệ thống ngân hàng.

McKinnon đặc biệt được một nhóm các nhà kinh tế Trung Quốc
ủng hộ mạnh mẽ. Trung Quốc đã đạt mức tăng trưởng mạnh
nhất khi đồng Nhân dân tệ được cố định tỉ giá theo
đồng đô la – một hệ thống yêu cầu các cải cách kiên
định và kỷ luật tài khóa nghiêm ngặt.

Sự tăng giá đều đặn của đồng Nhân dân tệ so với đồng
USD – với tốc độ trung bình hàng năm khoảng 3% từ năm 2005
– đã giảm thặng dư tài khoản vãng lai của Trung Quốc. Trong
một môi trường kinh tế toàn cầu yếu kém, sự tiến bộ của
Trung Quốc trong việc giải quyết sự mất cân bằng kinh tế vĩ
mô, trong khi vẫn duy trì một tốc độ tăng trưởng hàng năm
khoảng 7%, là một thành tích không nhỏ.

Nhưng sự tăng giá của đồng Nhân dân tệ cũng thu hút các
nhà đầu cơ carry-trade (kinh doanh dựa vào chênh lệch lãi suất
– NBT), những người mua tài sản nhân dân tệ để được
hưởng lợi từ tỉ lệ lãi suất cao (đặc biệt là sau năm
2008) và lợi nhuận từ việc đồng Nhân dân tệ tăng giá. Đây
là một phần lý do tại sao dự trữ ngoại hối của Trung Quốc
đã tăng lên rất nhanh, từ 250 tỷ USD năm 2000 lên đến 4 nghìn
tỷ USD vào năm nay.

Vấn đề, như McKinnon nhận ra, đó là các dòng tiền nóng
đầu cơ này đã và đang làm suy yếu các công cụ kinh tế vĩ
mô của Trung Quốc và thúc đẩy tình trạng áp chế tài chính
nhiều hơn bao giờ hết. Trước tiên, các nhà lãnh đạo của
Trung Quốc, khi nhận thấy tỷ lệ lãi suất cao sẽ thu hút dòng
vốn lớn hơn, đang ngày càng cảnh giác với việc tự do hóa
lãi suất – và thậm chí cả tự do hóa tài khoản vốn.

Vấn đề càng tồi tệ hơn khi các nhà chức trách Trung Quốc
đang thắt chặt tín dụng và điều tiết lượng cung tiền
thông qua việc vô hiệu hóa/ dung hòa hóa (sterilization) [2] và
đặt ra yêu cầu tỷ lệ dự trữ cao đối với các khoản
tiền gửi ngân hàng. Cách tiếp cận này làm suy yếu mức tăng
trưởng kinh tế thực một cách đáng kể. Để ngăn chặn sự
suy giảm này mà không làm tăng lãi suất quá nhiều, họ đã
phải dùng đến việc nới lỏng mục tiêu tín dụng bằng biện
pháp hành chính.

Việc "chèn ép Trung Quốc", với yêu cầu từ phía Mỹ rằng
đồng nhân dân tệ phải được định giá cao hơn nữa, rõ
ràng không phải là câu trả lời. Thay vào đó, Mỹ nên tập
trung vào việc giảm thâm hụt ngân sách của mình, qua đó tạo
điều kiện cho những nỗ lực của Trung Quốc trong việc thúc
đẩy tiêu dùng trong nước. Nếu tỷ lệ lãi suất chuẩn của
Fed có thể được phục hồi theo các mức xu hướng lịch sử,
Trung Quốc sẽ có dư địa chính sách nhiều hơn để điều
chỉnh lãi suất cho phù hợp với mô hình tăng trưởng của
mình và theo đuổi một cách có trình tự việc tự do hóa tài
khoản vốn của mình.

Nói một cách đơn giản, thế giới cần hai nền kinh tế lớn
nhất này làm việc cùng nhau để thúc đẩy sự ổn định
tiền tệ toàn cầu. Cùng với nhau, Trung Quốc và Mỹ có thể
làm giảm bớt áp chế tài chính, ngăn chặn các xu hướng bảo
hộ, và giúp duy trì một nền tảng vững chắc cho sự ổn
định toàn cầu. Thật không may, tư vấn chính sách của McKinnon
đã không được phổ biến giữa các nhà kinh tế dòng chính
của Mỹ và các nhà hoạch định chính sách, những người ưa
thích các lợi thế chính trị ngắn hạn mà họ thu được
thông qua việc nêu cao luận điệu về thị trường tự do.

Đã đến lúc các nhà lãnh đạo Mỹ nhận ra rằng những gì
cựu Bộ trưởng Tài chính Pháp Valéry Giscard d'Estaing gọi là
"đặc quyền quá mức" mà sự thống trị toàn cầu của
đồng đô la mang lại cho Mỹ cũng đi kèm trách nhiệm đáng
kể. Rốt cuộc, ổn định tiền tệ toàn cầu là một hàng hóa
công (mang lại lợi ích chung).

<em>Andrew Sheng hiện là giáo sư thỉnh giảng tại Đại học
Thanh Hoa. Cuốn sách mới nhất của ông là From Asian to Global
Financial Crisis. Xiao Geng là Giám đốc Nghiên cứu tại Fung Global
Institute.</em>

<strong>Biên tập: </strong>Lê Hồng Hiệp<strong> | Bản gốc
tiếng Anh: <a
href="http://www.project-syndicate.org/print/us-dollar-dominance-burdens-china-by-andrew-sheng-and-geng-xiao-2014-10">Project
Syndicate</a></strong>
——————-

[1] Áp chế tài chính là những biện pháp được các chính phủ
sử dụng để nâng cao ngân quỹ hoặc giảm nợ. Các biện pháp
này tập trung vào việc giữ tỉ lệ lãi suất thấp hơn tỉ
lệ lạm phát (tức lãi suất thực âm), một hình thức "đánh
thuế" lên người tiết kiệm và chuyển lợi ích từ người
cho vay sang người đi vay. Việc giữ lãi suất thực âm giúp các
chính phủ dễ dàng phát hành trái phiếu, qua đó tạo được
nguồn vốn cho ngân sách với chi phí rẻ hơn (do lãi suất thực
âm) so với khi không có biện pháp áp chế tài chính (NBT).

[2] Vô hiệu hóa (sterilization) trong tài chính là việc mua hoặc
bán ngoại tệ bởi một ngân hàng trung ương nhằm tác động
lên tỉ giá hối đoái của đồng nội tệ mà không làm ảnh
hưởng đến lượng cung tiền cơ sở.

Ví dụ, khi Fed lo ngại về sự xuống giá của đồng đô la so
với đồng Euro thì nó sẽ bán một lượng trái phiếu định
giá bằng đồng Euro trị giá 10 tỉ Euro và thu về 14 tỉ đô la
từ giao dịch này. Việc 14 tỉ đô la được rút ra khỏi hệ
thống ngân hàng vào kho của Fed sẽ ảnh hưởng tới lượng
cung đồng đô la trên thị trường và lãi suất qua đêm liên
ngân hàng tại Fed. Vì vậy Fed sẽ thực hiện tiếp giao dịch
thứ hai qua thị trường mở bằng cách mua vào lượng trái
phiếu kho bạc Mỹ giá trị 14 tỉ đô la, qua đó bơm lại 14
tỉ đô la vào hệ thống ngân hàng thương mại. Giao dịch này
giúp "vô hiệu hóa" tác động của việc bán số trái phiếu
định giá bằng đồng Euro lên lượng cung tiền cơ sở.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141127/su-ap-dao-cua-dong-do-la-va-tinh-trang-ap-che-tai-chinh),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét