Nguyễn Hưng Quốc - Đánh giá một nhà phê bình

<center><img
src="http://truyenthongnhantam.com/upload/7917/fck/danh-gia-ke-hoach-truyen-thong.jpg"
width="560" /></center>

Đánh giá một nhà phê bình, người ta hay tập trung vào chỗ
người ấy thích ai và không thích ai. Tuy nhiên, người ta quên:
nhà phê bình, trước hết, là một người đọc, và là người
đọc, hắn cũng có quyền yêu thích hay không yêu thích một tác
giả hay một tác phẩm nào đó. Trước đây, khi viết cuốn Thi
Nhân Việt Nam, Hoài Thanh tỏ vẻ yêu thích đặc biệt đối
với một số nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên,
v.v... Đó là cái quyền của ông. Sau này, trong cuốn Thơ Miền
Nam 1954-75, Võ Phiến cũng tỏ vẻ yêu thích đặc biệt đối
với một số người như Tô Thuỳ Yên, Phạm Thiên Thư, Nguyễn
Đức Sơn, Nguyễn Bắc Sơn, thậm chí, Giản Chi, Đỗ Tấn,
Trần Bích Tiên, v.v... Đó cũng là cái quyền của ông. Những
cái quyền ấy cần phải được tôn trọng.

Những cái quyền ấy đầy tính chủ quan. Mà phê bình thì không
thể không chủ quan. Donald A. Stauffer có lần khẳng định: "Nhà
phê bình không thể là một nhà phê bình lý tưởng nếu hắn
tự cho mình là tiếng nói vô ngã của chân lý; hắn cũng không
thể là nhà phê bình lý tưởng nếu mối quan tâm hàng đầu
của hắn không phải là tác phẩm nghệ thuật." Không phải ai
cũng đồng ý với quan điểm ấy. Một số người, như Northrop
Frye, muốn loại trừ tính chất chủ quan bằng cách loại trừ
các loại phán đoán giá trị ra khỏi phê bình. Nhưng người ta
không có cách nào loại hết các phán đoán giá trị được: nó
hiện diện ngay ở việc chọn lựa đề tài và chọn lựa tư
liệu. Đó là số mệnh của phê bình.

Tính chất chủ quan làm phê bình vĩnh viễn không thể là một
lời phán quyết chung thẩm cho bất cứ một hiện tượng văn
học nào cả. Mọi hành động phê bình đều là những hành
động cô đơn và bất định, ở đó, người ta biết là không
có gì bảo hiểm chắc chắn cho việc phát ngôn của mình, trừ
kiến thức, kinh nghiệm và quan trọng hơn, trực giác thẩm mỹ
của mình.

Có lẽ đây là điểm khác biệt chủ yếu giữa một phán đoán
thẩm mỹ và các loại phán đoán khác. Đánh giá ai đó có tội
hay không có tội, chúng ta căn cứ vào điều khoản này hay
điều khoản nọ trong luật pháp, hoặc, đơn giản hơn, căn cứ
vào những nguyên tắc đạo lý phổ quát trong xã hội. Đánh
giá một nhận định nào đó có chính xác hay không, chúng ta có
thể căn cứ vào luận lý học hoặc các dữ kiện thu thập
được từ thực nghiệm hay thực tế.

Còn đánh giá cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn học?

Chúng ta không có một căn cứ nào vững chắc cả. Không thể
căn cứ vào các nguyên lý, các quy luật hay các khuôn mẫu trong
lịch sử văn học bởi vì chúng chỉ hiện hữu trong một không
gian và một thời gian giới hạn nào đó mà thôi. Cũng không
thể căn cứ vào các thành tựu và các giá trị được xem là
vĩ đại trong quá khứ và được xem là những điển phạm trong
lịch sử vì lý do đơn giản là, những thành tựu, những giá
trị và những điển phạm ấy là những gì mọi người cầm
bút chân chính đều muốn phủ nhận hoặc muốn vượt qua trong
cuộc hành trình sáng tạo của chính họ.

Thành ra, trong thế giới văn học, chúng ta không thể nhân danh
ai khác ngoài chính mình. Nhân danh mình, chúng ta yêu tác phẩm
này và ghét bỏ tác phẩm nọ. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, khi
cho bài "Ông đồ" là kiệt tác của Vũ Đình Liên, "Gửi Trương
Tửu" là kiệt tác của Nguyễn Vỹ, "Màu thời gian" là kiệt
tác của Đoàn Phú Tứ, hay khi cho lời văn của Xuân Diệu có
cái gì như chơi vơi, đằng sau câu thơ của Nguyễn Nhược Pháp
dường như có một tiếng cười khúc khích, đằng sau câu thơ
của Huy Cận có một nỗi buồn rười rượi và đằng sau câu
thơ của Thâm Tâm thấp thoáng những nỗi bâng khuâng khó hiểu
của thời đại, v.v... Hoài Thanh cũng không nhân danh cái gì
khác ngoài trực quan của bản thân ông.

Và chúng ta, khi đồng ý với những nhận định vừa nêu của
Hoài Thanh, chúng ta cũng chỉ nhân danh chúng ta mà đồng ý. Bất
cứ khi nào chúng ta không nhân danh chính mình mà lại nhân danh
một thứ quyền lực nào đó, bất cứ là quyền lực gì,
chẳng hạn như danh tiếng hay uy tín của một trào lưu hay một
bậc tiền bối, chúng ta đều đi ra ngoài cơ chế sáng tạo và
bị rớt vào cơ chế hành chánh của văn học, ở đó, văn học
đã bị xơ cứng thành những kiến thức phổ thông, và ở đó,
chúng ta không còn là những chủ thể cảm xúc và tư duy nữa
mà chỉ là một đơn vị trong một tập thể đã bị điều
kiện hoá. Nói cách khác, ở đó, chúng ta hoàn toàn bị tha hoá.
Một cách đọc như thế thực chất là một sự phản bội lại
bản chất của văn học, một hình thức sinh hoạt văn hoá tồn
tại trước hết là để con người trở về với cái tôi của
họ, với thế giới riêng tư và thầm kín của họ.

Phê bình là chủ quan. Tuy nhiên, tính chất chủ quan ấy phải
có giới hạn thì mới có thể có đối thoại, và do đó, mới
có thể có phê bình được. Cái giới hạn ấy chủ yếu xuất
phát từ hai yếu tố.

Thứ nhất, đối tượng của phê bình: văn học. Một sự yêu
thích chỉ có tính văn học khi tác phẩm được đọc như một
công trình văn học chứ không phải như bất cứ một thứ gì
khác, từ một phương tiện để tuyên truyền đến một phương
tiện để giải trí. Những sự lẫn lộn phạm trù như vậy
thực chất là một biểu hiện của tính chất thiếu chuyên
nghiệp, nơi mọi ranh giới đều nhoà lẫn vào nhau: nhoà lẫn
giữa văn học và phi văn học, giữa phê bình và đàm tiếu.

Thứ hai, mặc dù trong các phán đoán thẩm mỹ, người ta chỉ
có thể nhân danh chính mình, nhưng cái "mình" mà người ta nhân
danh ấy thực chất bao giờ cũng là một cái "mình" tập thể:
nó là kết quả của vô số sự tương tác trong quá trình giáo
dục và xã hội hoá của từng cá nhân. Không ai có thể thực
sự đọc một mình. Đọc bao giờ cũng là cùng đọc với
những người khác, trong đó có vô số những người đã chết.
Khi chúng ta đọc Truyện Kiều, chẳng hạn, chúng ta luôn luôn
"đọc chung" với Phạm Quý Thích, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà, Phạm
Quỳnh, Trương Tửu; hơn nữa, chúng ta còn "đọc chung" với cả
những tác giả ngoại quốc, từ những lý thuyết gia Nho học
ở Trung Hoa đến các lý thuyết gia thuộc các trường phái
hiện thực, lãng mạn, phân tâm học, hiện sinh, hiện tượng
luận, Mác-xít ở Tây phương, v.v... Chính những mối quan hệ
chằng chịt này làm cho bất cứ cái đọc nào cũng có tính
lịch sử, và tính lịch sử này, đến lượt nó, trở thành
một giới hạn của tính chủ quan trong phán đoán thẩm mỹ:
phán đoán ấy có thể được/bị đánh giá trên cơ sở một
sự đối chiếu với những ý kiến đã có.

Tính chất chủ quan làm mọi lời phát biểu của nhà phê bình
chỉ nên được xem như những lời đề nghị, một hình thức
tiến cử với công chúng và với lịch sử những tác phẩm
hắn xem là có giá trị và xứng đáng được bảo tồn. Tính
chất tương đối trong những sự chủ quan ấy làm nhà phê bình
bị buộc phải đối diện với nhu cầu tăng cường sức
thuyết phục cho những phán đoán của mình: trong lúc không thể
đoan chắc về tính chính xác của những nhận định ấy, hắn
phải tự chứng minh những nhận định ấy là đúng đắn, ít
nhất so với một phương pháp luận và một quan điểm thẩm
mỹ nào đó mà hắn đã lựa chọn. Điều này có nghĩa là nhà
phê bình phải bạch hoá quá trình cảm thụ và đánh giá của
mình. Hắn không thể là kẻ nói theo kiểu "thánh phán". Hắn
phải có bổn phận, dưới hình thức này hoặc hình thức khác,
tự chứng minh cho các luận điểm của mình.

Hành động tự chứng minh ấy là một biểu hiện của tinh
thần trách nhiệm. Có thể nói nhà phê bình chỉ vượt lên
khỏi tư cách độc giả để thực sự trở thành nhà phê bình
khi ít nhiều chứng minh được những gì mình cho là hay, là
đẹp. Một độc giả bình thường, trong một lúc ngà ngà men
rượu hay men tình, có thể cho một bài thơ nào đó của Nguyên
Sa là hay nhất Việt Nam, chẳng hạn. Không sao cả. Nhưng một
nhà phê bình thì khác. Bằng sự phân tích, nhà phê bình phải
mô tả những cái hay trong bài thơ ấy, và bằng sự so sánh,
làm cho người đọc thấy được cái hay ấy quả là một cái
hay lớn, hơn nữa, lớn hơn hẳn những cái lớn khác.

Gắn liền với những sự yêu thích có tính chất cá nhân, tất
cả các công trình phê bình đều, trước hết, là một sự
phản ánh khẩu vị văn học (taste) của nhà phê bình, sau đó,
may ra, với một mức độ nào đó, mới là một sự phản ánh
của tình hình sinh hoạt văn học một thời đại. Gắn liền
với tinh thần trách nhiệm, mọi công trình phê bình nghiêm túc
đều có tham vọng từ vương quốc chủ quan vươn tới vương
quốc khách quan, từ những cảm nhận xuất phát từ trực giác
và kinh nghiệm đến những phân tích mang tính khái niệm.

Đánh giá một nhà phê bình, chúng ta không đánh giá ở chỗ
hắn giống với những người đọc bình thường, tức ở chỗ
hắn thích hay không thích một tác giả, tác phẩm nào đó. Đó
là cái quyền của hắn, thuộc phạm vi cá nhân của hắn. Việc
đánh giá một nhà phê bình chỉ nên bắt đầu từ chỗ nhà
phê bình ấy biến tác phẩm được mình yêu thích thành một
mô hình nghệ thuật, hơn nữa, còn có tham vọng thuyết phục
người đọc chấp nhận mô hình nghệ thuật ấy là một sự
sáng tạo có giá trị; nói cách khác, từ chỗ nhà phê bình
biến cái yêu cái ghét của mình thành một thứ quan điểm
thẩm mỹ và có tham vọng biến quan điểm thẩm mỹ ấy thành
một giá trị thẩm mỹ có tính phổ quát. Lúc ấy, hắn đã
vượt ra ngoài phạm vi cá nhân. Hắn đã xuất hiện như một
nhân vật công cộng (public figure).

Việc đánh giá ở đây chủ yếu xoay quanh ba nội dung chính:

Thứ nhất, việc phân tích và chứng minh cái hay, cái đẹp của
nhà phê bình có đủ sức thuyết phục hay không? Hắn khen một
tác phẩm nào đó là hay? Được thôi. Nhưng cái cách hắn
chứng minh cái hay ấy ra sao, đó mới là điều quan trọng. Hắn
thành công nếu sau khi đọc xong, người đọc thấy tác phẩm
ấy tự nhiên hay hơn hẳn, mới hơn hẳn và sâu sắc hẳn; nếu
người đọc thấy rằng việc đọc quả là một cuộc khám phá
thú vị và bổ ích, ở đó, họ bắt gặp những điều hoàn
toàn bất ngờ trong lãnh thổ của nghệ thuật và cái đẹp.
Ngược lại, hắn sẽ thất bại thảm hại nếu đọc xong,
người đọc thấy tác phẩm ấy vẫn cũ mèm và thế giới thơ
văn vẫn không rộng thêm một chút xíu nào cả. Tuy nhiên, ở
đây, chúng ta cần cẩn thận: phần lớn những gì có vẻ như
giàu sức thuyết phục thường là những cái đã cũ, do đó,
chưa chắc đã có giá trị thực sự. Để kiểm tra tính thuyết
phục của một luận điểm đôi khi cần khá nhiều thời gian
và cần một tầm nhìn rộng, bao quát cả một hay nhiều trào
lưu văn học trong một hay nhiều thời đại khác nhau, không
những trong quá khứ hay trong hiện tại mà cả trong hướng vận
động của văn học từ hiện tại chuyển đến tương lai. Nói
cách khác, ở đây, khi đánh giá một sự đánh giá, người ta
không những cần kiến thức mà còn cần cả viễn kiến và sự
nhạy bén nữa.

Thứ hai, quan điểm thẩm mỹ nào làm nền tảng để dựa theo
đó nhà phê bình đánh giá cái hay và cái lớn của văn học?
Không có một nhà phê bình nghiêm túc nào lại không xuất phát
từ một quan điểm thẩm mỹ nhất định. Chính quan điểm ấy
làm cho ý kiến của nhà phê bình tránh được nguy cơ trở
thành bất nhất và rỗng tuếch. Quan điểm ấy, một cách tự
giác hay tự phát, thể hiện qua hai hình thức khác nhau.

Một, những lời phát biểu trực tiếp dưới dạng khái niệm
về văn học. Hình như hiếm có nhà phê bình nào lại không có
những lời phát biểu trực tiếp như thế, hoặc thành bài
riêng hoặc xen kẽ trong các bài phê bình. Ngay cả ở những nhà
phê bình có khuynh hướng hoài nghi lý thuyết hay chống lại lý
thuyết như hầu hết các nhà phê bình Việt Nam, chúng ta cũng
dễ dàng bắt gặp những đoạn ít nhiều mang tính lý thuyết
như thế.

Hai, quan điểm mỹ học thể hiện rõ hơn và đáng tin cậy hơn
qua những tác giả hoặc tác phẩm mà nhà phê bình yêu thích.
Chắc chắn không phải ngẫu nhiên mà Hoài Thanh lại nhiệt
liệt khen ngợi thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Thế Lữ,
Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương... hơn hẳn những người khác.
Cũng chắc chắn không phải ngẫu nhiên mà Võ Phiến lại cảm
thơ của một số người này mà lại không thể cảm nổi thơ
của một số người khác. Loại bỏ tất cả những lý do phi
văn học, đằng sau những sự lựa chọn ấy là những quan
niệm khá nhất quán về thơ, về cái đẹp trong thơ và về
chức năng của thơ, cơ sở để tạo nên sự đồng điệu, và
từ đó, của sự ưu ái của họ. Đi sâu vào những quan niệm
ấy, có khi chúng ta sẽ bắt gặp, chẳng hạn, giữa Hoài Thanh
và Võ Phiến, tuy có khá nhiều dị biệt trong văn phong cũng như
tư tưởng, lại có những tương đồng khá sâu sắc và bất
ngờ khi họ đối diện với thơ: cả hai đều là những nhà
lãng mạn chủ nghĩa hồn nhiên và chân thành. Đi sâu vào những
quan niệm như thế, công việc phê bình phê bình có nhiều hứa
hẹn mở ra những khám phá thú vị hơn và nhất là, có cơ sở
hơn: trong khi chúng ta rất khó đánh giá một sự yêu thích thì
chúng ta lại dễ dàng đánh giá một quan điểm bởi vì, thứ
nhất, nó thuộc phạm trù nhận thức, thứ hai, nó có tính
lịch sử, nhờ đó, chúng ta có thể tiến hành việc so sánh
để nhận ra tính chất đúng/sai và mới/cũ trong quan điểm
ấy.

Cuối cùng, điều chúng ta có thể làm và nên làm là đánh giá
xem quan điểm thẩm mỹ của nhà phê bình có gì mới lạ và có
làm phong phú thêm cách hiểu của chúng ta về văn học hay
không? Chính câu hỏi thứ ba này không chừng mới là câu hỏi
quan trọng nhất. Nó phân biệt những công trình phê bình mang
tính sáng tạo và những sự nhai lại. Một công trình phê bình
chỉ có thể được xem là có đôi chút giá trị khi nó phát
hiện một cái gì mới hoặc trong cách đọc hoặc trong tác
phẩm được đọc; những phát hiện mà trước đó chưa ai
biết hoặc một số người đã biết nhưng lại chưa tự giác
hẳn về cái biết của mình. Ví dụ, không có công trình phê
bình nào về Truyện Kiều có thể được xem là có giá trị
nếu nó chỉ lẩn quẩn với việc chứng minh lại những kiến
thức phổ thông; nếu nó không làm cho Truyện Kiều có một
diện mạo mới, khác với những gì chúng ta đã quen nghĩ; nếu
nó không giúp mở rộng vốn hiểu biết của chúng ta về
Truyện Kiều, từ đó, giúp mở rộng, dù chỉ một chút, địa
dư của cái gọi là văn học.

Có thể nói tầm vóc của công trình phê bình chủ yếu tuỳ
thuộc vào tầm vóc của những phát hiện ấy: phát hiện cái
hay ở đơn vị câu, chữ khác với việc phát hiện cái hay ở
tổng thể của tác phẩm, và việc phát hiện cái hay của tác
phẩm khác với việc phát hiện một cách nhìn hoặc một góc
độ nhìn để từ đó không những tác phẩm được đề cập
mà còn nhiều tác phẩm khác nữa tự nhiên trở thành khởi
sắc và giàu có hẳn.

Nói tóm lại, đánh giá một nhà phê bình, chúng ta không thể
không đọc những gì hắn viết. Trong những gì hắn viết,
chúng ta cần tôn trọng cái quyền yêu ghét chủ quan, tức cái
quyền thích tác giả này và không thích tác giả nọ, yêu tác
phẩm này và không yêu tác phẩm kia của hắn. Xâm phạm vào
quyền cá nhân ấy bao giờ cũng là một hành động thô bạo.
Điều chúng ta cần làm và có thể làm là: thứ nhất, phê bình
các luận điểm của hắn; thứ hai, phê bình việc chứng minh
các luận điểm ấy của hắn; cuối cùng, thứ ba, phê bình cái
hệ mỹ học mà hắn bênh vực hay khen ngợi. Theo tôi, nếu
biết dừng lại ở những giới hạn như thế, chúng ta có thể
bảo vệ được văn hoá phê bình, giúp phê bình giữ được
tính chất trí thức và trách nhiệm của nó, đồng thời, trong
đời sống, giảm thiểu được vô số những cuộc cãi cọ
lằng nhằng vừa vô duyên vừa vô ích.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141123/nguyen-hung-quoc-danh-gia-mot-nha-phe-binh),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét