Nguyễn Thị Từ Huy - Cầu hiền và sử dụng năng lực trí tuệ (Phần 3)

Bài trước đề cập đến trách nhiệm của hệ thống quản
lý, bộ máy lãnh đạo và cơ chế chính trị trong việc hủy
hoại nguồn năng lực trí tuệ, khiến cho đất nước không
thể nào phát triển được trong một thời đại mà chất xám
là yếu tố chính làm nên sức mạnh của các cá nhân và các
quốc gia.

Bài này nói đến trách nhiệm của cộng đồng chung, tức là
của mỗi cá nhân đối với việc năng lực trí tuệ bị kìm
hãm và mất mát.

Nguồn lực chất xám hiện nay bị lãng phí theo nhiều cách. Tôi
tạm phân loại như sau.
Chảy máu chất xám ra nước ngoài : những người có năng lực
buộc phải ra đi, tìm công việc ở nước ngoài, một số lưu
vong (vì ở lại cũng sẽ hoặc ngồi tù hoặc bị vô hiệu hóa,
trường hợp của các trí thức miền Nam từng làm việc dưới
chính quyền Sài Gòn trước 75, trường hợp của các trí thức
miền Bắc đấu tranh cho tự do tư tưởng, như Dương Thu Hương,
Phạm Thị Hoài, hoặc muốn được sống và làm việc trong môi
trường tự do, như họa sĩ Nguyễn Đai Giang..., chỉ xin kể
một vài trường hợp làm ví dụ), một số chủ động ra đi
để tìm cách bảo vệ và phát triển năng lực của họ (trong
số này phải kể đến rất nhiều lưu học sinh học xong không
về nước, có một số trở về nhưng rồi lại phải tìm cách
ra đi, do không muốn năng lực của mình bị chết mòn vì miếng
cơm manh áo).

Chảy máu chất xám khu vực : những người có năng lực rời
khu vực nhà nước chuyển sang làm việc cho các tổ chức tư
nhân hoặc công ty nước ngoài đóng ở Việt Nam.


Chảy máu chất xám tại chỗ : những người có năng lực làm
việc trong khu vực nhà nước hoặc tư nhân không thể phát
triển được các năng lực của mình, trái lại những năng
lực đó cùn mòn, mất mát dần cùng với thời gian. Theo tôi,
thất thoát năng lực trí tuệ theo hình thức này là vô cùng
lớn và góp phần quan trọng dẫn đến mọi tình trạng trì
trệ hiện nay. Sự xói mòn trí tuệ thường nhật, ngày này qua
ngày khác. Đây là sự lãng phí kinh khủng nhất, đau đớn
nhất, và tủi nhục nhất.

Ngoài ra còn có thể kể đến một số trường hợp bị ngồi
tù, và sau khi ra tù bị vô hiệu hóa, hoặc bị vô hiệu hóa
bằng cách cô lập, theo dõi, không cho làm việc, tài năng bị
hủy diệt một cách đau xót. Những ví dụ mà giờ đây không
ai có thể phủ nhận được : Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh
Tường… gần đây có Phạm Minh Hoàng.

Và sự trù dập, trừng phạt đối với họ đã tạo ra một
làn sóng sợ hãi lan ra cả toàn bộ xã hội, đặt tất cả
mọi người vào tình trạng sợ hãi, cái tình trạng khiến cho
các khả năng của trí tuệ không thể nào phát triển được,
khiến cho người ta chỉ còn nghĩ, nói và viết những gì «
được phép », « an toàn ». Đây là cách thức hủy hoại năng
lực trí tuệ ghê gớm nhất và « hiệu quả » nhất. Trong cái
khung « được phép » và « an toàn » đó, mọi khả năng phát
minh và sáng tạo đều có thể tiêu biến hết.

Phần lớn các bài viết về vấn đề này tập trung các
lý giải vào trách nhiệm quản lý của nhà nước, của cơ
chế, của các chính sách cụ thể (những lý do này được phép
xuất hiện trên báo chính thống), hoặc tập trung vào nguyên
nhân cốt lõi nằm ở tính độc tài của hệ thống chính trị
độc đảng (lý do này chủ yếu xuất hiện trên truyền thông
lề dân). Các lý giải ấy, từ phương diện quản lý và lãnh
đạo, theo tôi, đều rất đúng, và đã đề cập phần nào ở
bài trước, nên không lặp lại ở đây nữa. Nếu có thể nói
thêm điều gì thì đó là : thực tế quản lý hiện nay cho
thấy, cơ chế đảng trị không chỉ gây ra hiện tượng chảy
máu chất xám trên toàn cục, mà ngay cả một số người bộc
lộ ra là có tư tưởng dân chủ thì khi đứng ở cương vị
quản lý một đơn vị họ cũng không thu hút được những
người có năng lực, hơn thế, họ cũng làm chảy máu chất xám
như thường. Một vài người có khả năng trong công việc dù
rất muốn hợp tác, kể cả chấp nhận thiệt thòi, nhưng cũng
không thể hợp tác được với họ. Và lý do vẫn là bởi cách
điều hành mang tính « cộng sản » (tức là thiếu dân chủ,
và thiếu năng lực quản lý) của họ mà họ không tự nhận
thấy.

Trong bài này, tôi bổ sung thêm, hoặc đúng hơn là nói rõ
thêm (vì cũng có một số người đã đề cập đến khía cạnh
này hay khía cạnh kia của vấn đề) về một nguyên nhân khác.
Nguyên nhân đó là : cộng đồng chung đã không ủng hộ và
không bảo vệ (hoặc không bảo vệ nổi) những người có năng
lực.

Đối với môi trường làm khoa học như các trường đại
học hay viện nghiên cứu, phần lớn những người có năng lực
ra đi (và thường là ra nước ngoài, hoặc ra làm việc ở khu
vực tư nhân và thường là trường hợp này phải bỏ chuyên
môn ) là bởi họ không thể làm chuyên môn với chế độ
lương hiện tại. Với mức đãi ngộ như hiện nay họ không
thể sống được, chứ đừng nói làm nghiên cứu hay sáng chế.
Và để làm chuyên môn đòi hỏi họ phải tập trung thời gian
và công sức, họ sẽ không có thời gian để làm thêm những
công việc khác để kiếm thêm thu nhập. Muốn phát triển
chuyên môn, chẳng có cách nào khác là phải ra nước ngoài.

Một nguyên nhân quan trọng khiến những người có năng lực
ra đi : họ ra đi để bảo vệ nhân phẩm của họ. Bởi họ
không muốn thỏa hiệp với môi trường chung, cái môi trường
không ủng hộ họ, nếu họ muốn giữ nhân cách. Nếu họ
thỏa hiệp với môi trường (mà người ta có thể dùng một
thứ ngôn từ mỹ miều để đòi hỏi họ : « nhập gia tùy
tục »), nghĩa là họ sẽ phải bằng lòng để cho nhân cách
của mình tha hóa, để cho nhân phẩm của mình bị xúc phạm
bởi chính mình. Nhẽ ra phải cùng nhau đòi tăng lương cho xứng
đáng với công việc và phẩm giá của mình, thì tất cả đều
chấp nhận mức lương phi lí, mức lương chết đói, đồng
thời lại chấp nhận làm những việc khiến cho đạo đức suy
đồi, năng lực chuyên môn giảm sút, để có thể sống sót
(hay thậm chí làm giàu), và lấy cái « tinh thần » « nhập gia
tùy tục » buộc tất cả mọi người cùng phải tha hóa, và
như thế thì sẽ tạo nên cả một tập thể tha hóa. Nhiều
tập thể tha hóa cộng lại sẽ tạo thành cả một xã hội tha
hóa. Những người có một chút tự trọng, một chút ý thức
về giá trị và nhân phẩm của bản thân, sẽ không chịu
đựng nổi điều đó. Nói cách khác, họ ra đi vì muốn được
làm người.

Tôi chỉ lấy một ví dụ rất nhỏ, một ví dụ giữa hàng
ngàn vạn ví dụ trong công việc hàng ngày của một giảng viên
đại học. Còn những ví dụ trầm trọng hơn, độc giả có
thể tìm thấy dễ dàng trên báo chí và truyền thông các loại.

Bạn tham gia vào một hội đồng chấm luận văn thạc sĩ,
bạn đánh giá rằng luận văn đó rất kém, không đáp ứng
trình độ thạc sĩ, và bạn thấy độ lượng lắm thì có thể
cho 4 điểm, và bạn dự định sẽ cho luận văn đó 4 điểm.
Nhưng bạn sẽ làm thế nào khi người hướng dẫn luận văn
nhất định cho rằng đó là một luận văn khá, và cho 8 điểm,
và đồng thời cả hội đồng cũng nhất trí cho luận văn đó
vào loại khá, tức là trên 6 điểm, và nhất là khi chủ tịch
hội đồng lại là một giáo sư được cho là có uy tín về
chuyên môn cũng đồng ý như vậy ? Đó là chưa kể đến
trường hợp ông giáo sư đó còn là thầy của bạn, và các
thành viên hội đồng cũng là thầy cô của bạn. Chỉ có hai
khả năng : bạn giữ nguyên điểm 4 và làm mất lòng tất cả
hội đồng, hoặc bạn thỏa hiệp với hội đồng, cho luận
văn đó đạt chuẩn. Nhưng dù sao, một mình bạn cho điểm 4
thì luận văn vẫn được thông qua vì hội đồng sẽ lấy
điểm trung bình cộng. Và bạn chẳng có cách nào khác là phải
chấp nhận cái kết quả được đa số tán thành ấy. Kết
quả ấy cũng đồng nghĩa với việc một bằng dởm sẽ được
cấp hợp pháp. Và bạn sẽ chẳng làm được gì hết, trừ phi
bạn đưa việc đó lên báo. Nhưng nếu bạn đưa việc đó ra
công luận thì bạn sẽ không thể nào làm việc tiếp với tập
thể đó được nữa. Người ta sẽ lập tức quy cho bạn cái
tội « nói xấu tập thể ». Bạn sẽ bị cô lập bởi chính
cộng đồng trong đó bạn làm việc. Từ ví dụ này ta thấy rõ
cộng đồng đang ủng hộ cái gì, và tẩy chay cái gì. Làm sao
xã hội có thể có được nhiều bằng dởm đến thế nếu các
hội đồng khoa học tại các trường đại học không đồng ý
thông qua các luận văn kém chất lượng ? Làm sao có bằng tiến
si 200 triệu nếu các hội đồng khoa học không chấp nhận
điều đó ? Có các tiến sĩ dởm, các bằng cấp dởm là do có
sự ủng hộ của tất cả mọi người ở tất cả các cấp
trong hệ thống.

Một người có ý thức về nhân phẩm, trọng sự trung thực
không thể nào tồn tại trong môi trường đó mà có thể tự
cảm thấy yên ổn được. Và thế là người đó sẽ ra đi.
Nhiều người mà tôi đã tiếp xúc ở trong trường hợp tương
tự.

Còn nhiều người thì không thể chấp nhận nổi ngay từ
ngưỡng cửa vào cơ quan, nếu họ phải xin xỏ, chạy chọt,
bị đặt vào một tình thế : trả nhiều trăm triệu đồng
để thu về mỗi tháng từ ba đến bốn triệu đồng. Cái mà
họ không chấp nhận được không chỉ là tình trạng phi lý
đó, mà còn là họ không muốn « bán » mình, không muốn tự
chà đạp lên nhân phẩm của họ.


Đấy là một ví dụ về những trường hợp phổ biến. Còn
có những trường hợp ít phổ biến hơn, nhưng người nào đã
lâm vào sẽ cảm nhận rất rõ.

Nếu bạn là nạn nhân của một vụ « thanh trừng » hoặc «
đàn áp » với đủ mọi bằng chứng rõ ràng, thì cộng đồng
nơi bạn làm việc, hoặc cộng đồng chung, vẫn có thể cho
rằng đấy chỉ đơn giản là một « tai nạn nghề nghiệp »
hoặc là bạn sai (với đường lối hiện hành) thì bạn phải
chịu lấy, một mình. Và cộng đồng vẫn có thể ăn ngon ngủ
yên, không cần thấy rằng mình cũng phải có chút ít trách
nhiệm với đồng nghiệp. Một ví dụ điển hình là Nhã Thuyên
(tôi sẽ còn trở lại với vụ việc này, bởi có thể nhìn
thấy rất nhiều điều từ câu chuyện của Nhã Thuyên). Chẳng
phải toàn bộ cộng đồng trí thức Việt Nam cho đến hiện nay
vẫn không thể nào bảo vệ nổi Nhã Thuyên hay sao ? Đã có
một vài phản ứng như thư ngỏ phản đối hiệu trưởng
ĐHSPHN, nhưng ông hiệu trưởng này cho đến nay không chịu trả
lời, không chịu có bất kỳ hành động sửa sai nào. Bộ Giáo
dục cũng không hề có một can thiệp nào trước sự vi phạm
luật giáo dục trầm trọng đến như thế. Tóm lại Nhã Thuyên
cho đến nay vẫn phải chịu bất công.


Những khả năng mà Nhã Thuyên từng có (thể hiện trên bản
luận văn thạc sĩ) liệu có mất đi hay không ? Điều đó một
phần phụ thuộc vào lựa chọn và vào ý chí của Nhã Thuyên,
và phần quan trọng, phụ thuộc vào việc cộng đồng có làm
gì để bảo vệ những năng lực đó hay không. Mở ngoặc để
nói rằng, Bakhtin, người đã khiến cho châu Âu và thế giới
nể trọng vì những đóng góp cho lý thuyết về thi pháp học,
đã bị đi đày ở Xi-bê-ri vì bị kết tội chống nhà nước
Xô-viết, nhưng sau đó, từ những năm 50 của thế kỷ trước,
ông đã được đứng trên bục giảng đại học của nước
Nga, thậm chí còn giữ chức vụ trưởng khoa. Ít ra người Nga
đã bảo vệ những tài năng của họ, sau những sai lầm mang
tính hệ thống mà không một chế độ cộng sản nào tránh
được.

Hơn một nửa thế kỷ sau, Phạm Minh Hoàng, một trường hợp
tương tự Bakhtin, không còn có cơ hội ở đại học Việt Nam.
Tương tự, đối với Nhã Thuyên giờ đây mọi cánh cửa đại
học ở Việt Nam dường như đã đóng lại. Điều mà cộng
đồng chuyên môn có thể làm là đấu tranh cho Nhã Thuyên có
được một vị trí trong đại học, bằng cách đó mà bảo vệ
các năng lực của Nhã Thuyên. Ít ra thì cũng phải có những
trường sẵn sàng nhận Nhã Thuyên vào làm việc. Tuy nhiên
điều đó đã không xảy ra trong thực tế. Và những người
làm chuyên môn trong giới đại học phải chịu trách nhiệm về
chuyện này. Chính chúng ta, chứ không phải ai khác, đã góp
phần làm hủy hoại năng lực trí tuệ của đồng nghiệp của
chúng ta. Chúng ta đứng nhìn người khác bị hủy hoại, đứng
nhìn người khác chịu bất công mà không nghĩ rằng phải làm
điều gì đó cho họ, cũng tức là cho chính chúng ta.

Cộng đồng chung đã và đang hủy hoại năng lực trí tuệ
theo những cách như vậy. Mỗi người đang hủy hoại năng lực
của chính mình và của người khác theo những cách thức như
vậy.



Hoặc trường hợp khác, giả dụ bạn vì một lý tưởng tiến
bộ mà đi ngược lại với cách vận hành trì trệ của cộng
đồng, đi ngược lại với các « chuẩn » mà cộng đồng đang
tuân theo, có những hành động nhằm bảo vệ công lý và lẽ
phải theo quan niệm của bạn, và nếu chẳng may vì thế mà
bạn bị rơi vào tình trạng khó khăn (bị chính quyền sách
nhiễu hoặc cô lập, chẳng hạn) thì rất có thể bạn sẽ
thấy xung quanh bạn đột nhiên nhiều người, bạn bè hay đồng
nghiệp, rơi vào tình trạng bận bịu, họ sẽ chẳng có thời
gian dành cho bạn nữa. Và dù bạn có một vài khả năng nhất
định, bạn được đào tạo bài bản và thậm chí đã có một
số thành quả khẳng định năng lực của bạn trong công việc,
thì đột nhiên bạn sẽ thấy người ta đối xử với bạn như
một người rất kém cỏi, người ta sẽ đẩy bạn xuống hàng
những người mới ra trường và kém năng lực, và người ta
sẽ đoan chắc với bạn rằng bạn sẽ không thể nào vượt qua
được kỳ kiểm tra tối thiểu nhất mà một người mới ra
trường cũng có thể vượt qua. Trong số những « người ta »
ấy có cả những người đã tỏ ra cùng lý tưởng với bạn.
Vì sao vậy ? Vì người ta cần có lý do để cho rằng bạn bị
đối xử như vậy là hợp lý, người ta cần có lý do để
cùng với chính quyền cô lập bạn, mà lại vẫn không phải là
về phe chính quyền. Không ai nhận bạn làm việc là vì bạn
kém cỏi, hoặc vì bạn có nhiều nhược điểm (hay gây gổ
với đồng nghiệp, chẳng hạn) chứ chẳng phải vì cộng
đồng không ủng hộ bạn, chứ chẳng phải vì mọi người sợ
gì đâu. Thật tuyệt để có thể ăn ngon ngủ yên khi người
khác phải chịu bất công một mình, phải vậy không?

Toàn bộ cộng đồng trí thức (nếu ở Việt Nam có một cộng
đồng như vậy, tôi vẫn phải tự hỏi mình rằng ở Việt Nam
có một cộng đồng trí thức không, hay cũng chỉ có những phe
nhóm giữa những người làm chuyên môn, giống như các phe nhóm
giữa những người làm chính trị, mà thôi ?) phải chịu trách
nhiệm về tình trạng lãng phí nghiêm trọng về nguồn năng
lực chất xám hiện nay, cũng như về mọi vấn đề khác trong
xã hội. Bởi tình trạng hiện nay được tạo ra và được duy
trì là nhờ chính sự thỏa hiệp của tất cả mọi người,
nhờ việc họ chấp nhận tất cả mà không phản ứng, nhờ
việc họ tự nguyện làm một bộ phận giúp cho toàn bộ cỗ
máy vận hành với sức mạnh hủy hoại của nó, tự nguyện
chấp nhận bị hủy hoại bởi chính cái cỗ máy do mình góp
phần tạo ra.

Ý thức được điều đó cũng có nghĩa là mỗi cá nhân phải
nhận lấy trách nhiệm của mình.
Nếu mỗi người không thấy được trách nhiệm của mình,
tức là 90 triệu người này đều không chịu nhận lấy phần
trách nhiệm của mình, thì việc một nhóm nhỏ vài chục
người có thể khuynh loát toàn bộ xã hội là điều chẳng có
gì khó hiểu.


Nói riêng trong lĩnh vực khoa học, và hẹp hơn là trong lĩnh
vực khoa học xã hội và nhân văn, những người viết, nghiên
cứu cũng như sáng tác, ở thời điểm này, phải hiểu rằng
chừng nào còn sự lãnh đạo độc tài của một chính đảng
duy nhất (cho dù tên gọi của nó là gì, đảng lao động hay
đảng cộng sản…), chừng nào còn tồn tại Hội đồng Lý
luận Trung ương, và chừng nào cái Hội đồng này còn là nơi
tập hợp của những đại diện tiêu biểu cho sự hạn hẹp
cả về kiến thức lẫn về nhận thức và đạo đức nghề
nghiệp như Phan Trọng Thưởng, chừng đó còn chưa thể có môi
trường cho tự do học thuật và tự do sáng tạo, chừng đó
vòng kim cô vẫn tiếp tục siết chặt.



Tuy nhiên, có chịu để cho đầu mình chui vào vòng kim cô đó
hay không, có cam chịu đánh mất tự do nghiên cứu và tự do
sáng tác của mình hay không, điều đó chỉ tùy thuộc vào
từng cá nhân, và mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm, phải
tự lựa chọn. Dĩ nhiên, mỗi sự lựa chọn đều có cái giá
phải trả. Nhưng không ai có thể đổ tội cho Hội đồng Lý
luận Trung ương hay ông Phan Trọng Thưởng hay một ông X, Y, Z
nào đó trong việc tự mình tước đoạt tự do của mình.

Trường hợp tác phẩm «Đèn cù » mới đây của Trần Đĩnh
là một ví dụ cho thấy rằng tự do nghĩ và viết của mỗi
người là do chính mỗi người định đoạt. Trần Đĩnh đã
tự quyết định ông ấy viết gì, viết như thế nào, trong
thời gian bao lâu, lúc nào thì công bố, và công bố ở đâu.
Dĩ nhiên, trong việc đó Hội đồng lý luận Trương và chế
độ kiểm duyệt ở Việt Nam không có giá trị một xu đối
với ông ấy. Chừng nào mỗi nhà văn, mỗi viên chức, mỗi
giáo chức hành động được như Trần Đĩnh, chừng đó Hội
đồng Lý luận Trung ương sẽ tự khắc chui vào cái thùng rác
lịch sử của nó, không còn giá trị một xu đối với bất
kỳ ai.

Những ai còn than phiền và đổ lỗi cho đảng, cho bộ máy
đàn áp tư tưởng, cho chế độ kiểm duyệt, những người đó
thực sự đã tự hủy diệt chính mình, tự chối bỏ chính
mình trong tư cách là một giá trị riêng biệt, tự phủ nhận
khả năng tự quyết định của mình, tự từ chối tồn tại
với tư cách là một cá nhân độc lập và tự chủ. Nhờ sự
tự phủ nhận đó mà bộ máy đàn áp và cơ chế độc tài sẽ
tiếp tục tồn tại. Những người đó chỉ còn là một thành
phần cấu tạo của đám đông. Nhìn chung xã hội Việt Nam
hiện nay, nếu dựa vào định nghĩa của Hannah Arendt mà xét,
thì vẫn còn là một xã hội đám đông được cấu thành từ
những phân tử trơ ì mất khả năng phản ứng, chứ không
phải là một cộng đồng được cấu thành từ những cá nhân
có tự do quyết định và tự do hành động, có trách nhiệm
đối với người khác và đối với xã hội.


Trở lại với vụ Nhã Thuyên, nếu cả giới đại học và
nghiên cứu mà chịu để cho ông Thưởng và vài tay bồi bút
không có trình độ chuyên môn khuynh loát đến như vậy, thì
phải thấy rằng chúng ta đang yêu nô lệ đến mức như thế
nào. Nếu không phải là trong tình trạng yêu sự nô lệ thì
cũng là đang trong một tình trạng quá sợ hãi, hoặc quá vô
cảm.



Aung San Suu Kyi nói : « Nhà tù đích thực duy nhất, đó chính
là nỗi sợ. Và tự do đích thực duy nhất, đó là tự giải
phóng khỏi nỗi sợ ». («La seule véritable prison, c'est la peur. Et
la seule vraie liberté, c'est de se libérer de la peur.». Trích trong
cuốn Aung San Suu Kyi – un portrait en mots et en images)



Cần phải nhìn thấy lỗi của đảng. Nhưng đổ lỗi cho đảng
không phải là cách giải quyết vấn đề. Và không thể nào
giải quyết vấn đề nếu chỉ ngồi yên nhìn đảng phạm hết
lỗi này đến lỗi khác, mà không làm gì cả. Nếu như đảng
nhất quyết chỉ nhận phần lãnh đạo toàn diện, triệt để,
vĩnh viễn, nhưng lại nhất quyết không chịu nhận trách nhiệm
trước các vấn nạn của xã hội và sự yếu kém của đất
nước ; nếu đảng không chịu nhận trách nhiệm, thì mỗi một
công dân phải nhận lấy cả cái phần trách nhiệm mà đảng
đã từ chối. Mỗi một cá nhân phải nhận lấy phần trách
nhiệm của mình, trước hết là ở vị trí công việc của
mình, sau nữa là đối với môi trường sống của mình, môi
trường hẹp và môi trường rộng, tức là đối với đất
nước của mình. Nếu không như vậy thì chỉ có mất mát mà
thôi : mất đạo đức, mất văn hóa, mất giáo dục, mất nhân
phẩm… tức là mất con người, và sau cùng là mất nước.

Việc phái đoàn lãnh đạo cao cấp Việt Nam vừa sang « thần
phục » Trung Quốc, việc hơn 10 ngàn lao động nước ngoài trong
đó chủ yếu là người Tàu vừa được « tuyển dụng » ở
Hà Tĩnh, cho thấy, đúng như nhận xét của André Menras, rằng
Trung Quốc đang « đánh dấu lãnh thổ của mình ngay trong lòng
Việt Nam! ». Nó cũng cho thấy sự lựa chọn của lãnh đạo
đương nhiệm ở Việt Nam: đất nước được sử dụng làm
công cụ để phục vụ cho lợi ích cá nhân của những người
lãnh đạo và để duy trì quyền lực của đảng cầm quyền.
Cùng với dàn khoan 981, những sự kiện hậu giàn khoan đã bộc
lộ đầy đủ các triệu chứng của một dân tộc đang bước
vào con đường nô lệ.

Giờ đây đã là lúc cấp bách, Việt Nam cần phải có những
người dám nhận trách nhiệm lớn đối với đất nước, cái
trách nhiệm mà đảng đã và đang từ chối.

Giống như người nông dân Nguyễn Huệ xưa kia đã đứng lên
nhận lấy cái trách nhiệm mà các vua triều Lê mạt đã từ
chối.

Paris, 15/8/2014
Nguyễn Thị Từ Huy

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140901/nguyen-thi-tu-huy-cau-hien-va-su-dung-nang-luc-tri-tue-phan-3),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét