Từ Khanh - Mười hai ngày ở Miến Điện (4)

<h2>8. Trên tàu chợ đi Bagan</h2>

Ngoại trừ cố đô Yangon phiền não, cả bốn cố đô vừa đi
qua đều để lại nhiều lưu luyến. Nhưng rồi cũng đến lúc
từ giã, xuôi dòng sông Voi về cố đô Bagan cách Mandalay gần
150 cây số. Sau này mỗi khi nhớ lại những ngày ở Miến
Điện, tôi đều thấy bầu khí Bagan mới thực sự để lại
nhiều dấu tích trong lòng nhất trong các chuyến giang hồ.

Lúc ở Yangon hỏi cách đi, tiếp viên nhà trọ tư vấn sai bét.
Họ nói mùa mưa chỉ có tàu đi từ Mandalay xuôi dòng xuống
Bagan, chứ từ Bagan lên Mandalay không có tàu thủy vì ngược
nước. Họ lại nói có tàu cao tốc rất thoải mái, an toàn,
ngày nào cũng có chuyến. Tất cả thông tin từ người địa
phương đều ngược lại. Thực ra, mùa mưa từ tháng Năm đến
tháng Chín mỗi tuần chỉ có hai chuyến tàu chợ nối Mandalay
và Bagan (cả hai chiều chứ không có chuyện ngược dòng tàu
chạy không được). Tàu cao tốc hoàn toàn không có. Thông tin
vào thời điểm tôi đi cũng chỉ đúng vào thời điểm tôi đi.
Tốt nhất là không tin ai cả vì lịch vận tải ở Miến Điện
tùy hứng.

Tôi cứ hình dung sẽ đi một chiếc tàu lớn, có ban
công, các băng ghế ngồi đặt ở giữa chiếc tàu thủy to
rộng, sẽ có một quầy bar bán cà phê lai rai, mình sẽ đi lên
đi xuống bong tàu, hay lên sân thượng ngắm hai bờ Tượng
Giang. Một thủy trình nhàn nhã phong lưu xuôi theo dòng nước
đến cố đô cũ một ngàn năm: Bagan.

Nhưng than ôi, 4 giờ rưỡi sáng đến bến phà
Manadalay để đi tàu chợ xuôi dòng về Bagan mới té ngửa. Trong
bóng tối Mandalay, bến tàu chỉ thắp một ngọn đèn neon sáu
tấc, những bóng người tụm năm tụm ba trên bờ, không có
một bảng hướng dẫn nào hay ít ra một bảng chỉ đường gì
đó. Tôi hỏi anh xe ôm 'Bagan Bagan?', anh ta chỉ tay vào một
lối đi tối thui không thấy gì cả, ra dấu xuống dưới bến.
Đúng là bến sông dốc, một tấm ván bắt từ bờ lên một
chiếc tàu sắt, người lên kẻ xuống chen nhau trên 'cầu
tàu' rất nguy hiểm, chỉ bị lấn nhẹ một cái là lọt sông
ngay. Đi ngang qua chiếc tàu lớn, cứ theo người mà đi, rồi
bước qua một chiếc tàu nhỏ hơn, trên tàu này người địa
phương nằm ngồi la liệt không có chỗ đặt chân, cứ sợ
dẫm phải con nít và phụ nữ vắt vẻo nằm ngồi dựa ngã
trên những bao hàng hóa thúng mẹt. Trước tôi đã có ba anh Tây
ba lô đang lúng túng không biết nên tiến hay lùi, cuối cùng
tôi thấy họ đi ngược lên bờ. Tôi hỏi anh mặc áo trắng
kiểu áo thuyền viên, 'có phải tàu này đi Bagan chứ', anh ta
hỏi vé tàu, nhìn rồi chỉ bậc thang dẫn lên bong trên, 'anh
cứ lên trên đó, ngồi ở góc đầu mũi tàu'.

Tôi chen lấn một hồi cũng leo lên tới tầng trên. Miễn tàu
đi Bagan là được, nó có chạy rì rì thì trước sau cũng tới.
Mỗi tuần chỉ có hai chuyến tàu chợ từ Mandalay đi Bagan, giá
vé 10 đô còn kén cá chọn canh cái nỗi gì. Tự an ủi thế cho
đỡ ngán, chứ nhìn người ta la liệt trên sàn tàu không khác
gì cảnh chạy giặc tản cư, ngó quanh chỉ thấy vài cái phao
cấp cứu trong khi tàu ước vài trăm người. Tôi đã dự trù
trường hợp xấu nhất là tàu chìm, nên laptop gói kỹ trong bao
không thấm nước, hộ chiếu cũng cho vô bao chống thấm, còn
máy hình thì để sẵn một túi nhỏ chống thấm bên cạnh sẵn
sàng ứng chiến, tàu mà chìm là ôm mấy bửu bối đó bơi vài
trăm mét chắc không đến nỗi chết trôi.

Chỗ gần mũi tàu mà anh thuyền viên chỉ có để mười mấy
cái ghế nhựa có lưng tựa, khu này dành riêng cho người nước
ngoài, nhìn những người dân địa phương buôn thúng bán bưng
nằm ngồi chỉ cách mình một thước, tôi thấy quả là mình
đang ngồi ở khu hạng Nhất rồi. Họ ngước mắt nhìn vài
người nước ngoài lục tục đến có vẻ hâm mộ một cách
tội nghiệp. Nhưng biết làm sao, thông cảm nghe bà con, lạ
nước lạ cái, mà người ta dành cho tôi chỗ ngồi này chứ có
dành giựt ai đâu.

Trong ánh sáng nhạt nhạt của ngọn đèn nhỏ trên trần,
trong không gian tràn ngập mùi người, mùi ớt bột, mùi cà ri,
tiếng người lên xuống xôn xao, chợt có mùi gội đầu của
phụ nữ thơm thơm phả đến. Một cô gái trông như người
Nhật, áo tím, ba lô lớn trên lưng, ba lô nhỏ trên tay, tay kia
cầm một cái quạt có viền trắng phe phẩy, cổ đeo máy hình,
kéo ghế ngồi xuống bên tôi. Hình như tôi khéo tu nên có số
quen con gái Nhật, mà toàn là các em xinh xắn to con, a ha, một
hành trình dài mà có một em xinh xinh ngồi cạnh thì sông nước
dẫu có vô tình cũng vui nữa là.

Giờ khởi hành là năm giờ rưởi, nhưng cũng như xe dù bên
mình, các bác tài công cứ chờ rước thêm khách, người cứ
lên đều đều, xích vô một chút, lấn qua bên kia một chút,
hành lý chồng lên tí, co chân vào chút xíu, khu hạng Nhất của
tôi cũng đã tràn người, bây giờ thì họ ngồi ngay dưới
sàn, hàng hóa cứ lên, không có một sự an toàn đường sông
nào. Má ơi, may mà hồi nhỏ con dân xứ biển, suốt đời trai
trẻ trốn học rong bơi nên vẫy vùng dưới nước cũng khá,
không đến nổi lo lắng quá.

Sáu giờ rưởi, một hồi còi vang lên. Tạm biệt Mandalay, tạm
biệt ngọn đồi linh hiển, cố đô Amarapura, chùa Thạch Kinh
(Kuthodaw Pagoda), đồi Sagaing, tạm biệt cầu gỗ U Bein, cao
nguyên Pin Oo Lwin mà tôi gọi là Phố Mây, những người Mandalay
hiền lành chậm chạp.

Tôi lưu luyến Mandalay và chợt thấy ngùi ngùi. Không biết do
còn duyên nợ không mà trong chuyến từ giã Bagan mấy ngày sau
để bay về Yangon kết thúc cuộc đi rong, tôi xuống nhấm máy
bay ở Mandalay một lần chót. Số là Air Bagan không bay thẳng
từ Bagan đi Yangon. Do ít khách nên nó ghé qua Mandalay, tức bay
vòng lên hướng bắc, thả và đón khách ở Mandalay rồi mới
trực chỉ Yangon. Khi dừng ở Mandalay, tôi thản nhiên xuống phi
cơ, lên xe, xuống xe, đi một mạch ra đường cái, vì cứ ngỡ
là mình đã tới Yangon rồi dù có hơi ngờ ngợ vì thấy sao phi
trường này quen quen. Khi đang trả giá taxi – anh anh taxi nói 18
đô trong khi tôi nhớ như in từ phi trường Yangon về thành phố
chỉ năm đô – thì chợt có tiếng nói đàng sau:

- Ông cho tôi xem vé lên tàu.

Tôi tính nổi nóng vì đã xuống tới nơi còn cần 'boarding
pass' làm gì. Tôi hỏi 'tại sao, tôi liệng nó rồi' thì
người đàn ông hỏi tiếp:

- Ông đi đâu?

- Yagon.

- Thưa ông, đây mới chỉ là Mandalay.

Tôi ngớ ra, lật đật lục tìm vé lên tàu, may còn giữ trong
túi. Người đàn ông vui vẻ nói 'ông theo tôi ra lại phi cơ,
yên tâm không có gì đâu,' rồi vừa dẫn đường vừa nói gì
đó vào bộ đàm. Khi tôi đứng ở hàng hiên phòng chờ, một
chiếc xe ca lớn chạy lại đón một mình tôi lên chiếc máy bay
đang đậu chờ giữa đường bay. Đúng là hai lúa lên tỉnh,
nhưng trong lòng cũng thấy thích thú vì Mandalay không phụ tình
tôi mấy mươi năm muốn đến, 'nó' níu tôi lại một
khoảng khắc.

Chợt cô em người Nhật khều tay, nói nhỏ: 'Ăn cái này
không?' Ba giờ rưỡi sáng tôi đã dậy, đêm trước xin một
bình thủy nước nóng để sẵn trong phòng, sáng làm hai gói mì
gói, ăn nửa trái thơm mua ngoài đường, vẫn còn no.

Cô Nhật cầm cái bao ny lông trong có hai lát bánh mì
săn uých, hai trái chuối già đã bầm dập chảy nước. Bánh mì
thì tôi ăn không được, chuối cũng không vì có ông lương y
kia dặn bao tử yếu ăn chuối già nặng bụng. Ôi mấy cha
lương y lẩm cẩm, người đẹp mời ai lại từ chối chứ, kỳ
thế. Tôi thản nhiền thò tay vô bao ny lông lấy một trái
chuối, ăn ngon lành trong hương thơm của tóc một sáng tinh mơ
sương khói tràn hai bờ sông lạ.

Mặt trời vừa chơm chớm, nắng phớt vàng phớt
lướt trên dãy núi hai bên bờ, lưng chừng sườn núi điểm
xuyết những ngôi tháp vàng rực rỡ trong ánh bình minh. Sông
thật êm, tàu chợ nhưng không rầm rầm như mấy chiếc tàu
cánh ngầm từ Sài Gòn đi Vũng Tàu. Tôi có cảm tưởng tàu
không chạy bằng máy mà thả trôi theo dòng, lênh đênh như
những chiếc thuyền buồm đang qua lại hai bờ Tượng Giang. Con
sống rộng hơn khúc sông Hậu ở bến phà Cần Thơ rất nhiều,
hai bờ không thấy ai, gió nhẹ, đời êm êm trôi theo dòng
nước.

Cô Nhật làm giáo viên tiểu học, cô dự tính ở
Miến Điện ba tuần, mới ở Bagan ba ngày trước, đi xe đò lên
Mandalay chơi vài ngày bây giờ lại đi tàu thủy về lại Bagan.
Cô nói cứ đến hè học trò nghỉ là cô đi nước ngoài chơi.
Tôi nịnh:

- Vậy mà tôi cứ tưởng cô là sinh viên chứ.

Cô Nhật phá lên cười hô hô. Cô vừa nhai bánh mì vừa nói:

- Tôi đi dạy học đã mười năm rồi, tin không?

Tất nhiên là tôi giả vờ không tin. Cô tự giới thiệu tên,
tôi hỏi tên cô có nghĩa gì. Cô lấy bút viết ngay lên bìa sau
cuốn sách đang cầm nơi tay hai chữ Tàu, ma quỷ phò hộ hay sao
mà hai chữ cô viết tôi đều đọc được. Tôi kêu lên:

- Đông Mỹ!

Dù phát âm tiếng Hán Việt nhưng cô gái cũng hiểu, cô gật
đầu.

- Vậy cô là Beauty of the East rồi, người Đẹp
phương Đông!

Cô lại phá lên cười hô hô. Tôi bỗng thấy ái ngại cho mình.
Áo quần mấy ngày chưa giặt, không cạo râu, cái ba lô mua ở
Sai Gòn Square góc Lê Lợi và Nam Kỳ Khởi Nghĩa rách bươm, ba
cái dây kéo thì hai cái hỏng. Còn 'người ta' kìa, áo tím
quần viền kim tuyến, đồng hồ xịn, máy hình quá xịn, nước
da thì trắng như trứng đà điểu mới luộc bóc vỏ. Thiệt là
không môn đăng hộ đối chút nào.

Tàu chạy được ba tiếng thì cập vào một làng nhỏ
ven sông. Lại người lên kẻ xuống, hàng hóa tấp nập chất
lên tàu, dân làng chở hàng ra chợ. Chạy đến hai giờ trưa
thì tàu cặp bến năm lần. Lần thứ năm cảnh tượng thật vô
cùng hào hứng. Khi tiếng còi tàu hụ lên báo hiệu sắp cặp
bờ, thì từ trong xa, bụi bỗng bốc lên mờ mịt dưới trời
nắng nóng. Sáu chiếc xe song ngưu (hai con bò kéo) chạy ra
hướng tàu, phu khuân vác đã chờ sẵn trên bờ. Khi trên tàu
hạ hai tấm ván gác lên bờ, lập tức các thanh niên cửu vạn
xông lên, dưới bến thì đàn bà con nít đội thúng bán cơm,
chuối, bánh chiên réo mời. Thế rồi phu khuân vác đội các
thúng trái cây và nhiều bao bố trên tàu xuống, họ nhanh nhẹn
chất lên xe bò, rồi chạy lên tàu làm chuyến khác. Gần đó
một chiếc ghe nhỏ cũng áp sát bờ, cứ hai thanh niên một
người kéo một người đẩy một con trâu hay con bò lên
thuyền. Tấm ván trơn trợt nên con trâu cứ trì lại, nhưng như
đã quen thuộc, anh đứng trên bờ cứ đẩy đít trâu, anh trên
thuyền thì ra sức ghì mũi. Trâu và người trì lên rị xuống.
Nhưng rồi trâu thua, miễn cưỡng leo lên tấm ván nhưng mới
bước được vài bước thì té chỏng vó xuống nước. Người
ta lại xúm vào dựng con trâu lại, trì kéo một hồi cũng dắt
được trâu lên thuyền.

Đến một bến khác thì hàng hóa đã xuống gần
hết, dân địa phương cũng xuống nhiều nên bong tàu đã có
lối đi. Trên bờ, mấy chiếc xe bò đã chất đầy hàng hóa,
phu xe 'hì hồ' quất roi, mấy chú bò trắng gồng mình chạy
vô hướng làng. Bụi tung mù mịt, chỉ thấy đầu người và
bóng người lố nhố trong làn bụi mờ giữa trời trưa nóng
bức. Cảnh tượng vô cùng sồng động hệt như phim giang hồ
miền Viễn Tây, chỉ khác các 'cowboy' ở đây quấn xà rông,
đầu không đội nón rộng vành. Còn phu thì đội hàng trên
đầu, chân bước vững chãi trên tấm ván trơn trượt, mỗ hôi
nhễ nhại, khuôn mặt sạm đen khắc khổ. Không biết còn nơi
nào ở Á châu còn cảnh này không. Ven bờ sông Voi đến đầu
thế kỷ 21 vẫn còn cảnh xe bò ra sông chở hàng, phu phen quấn
xà rông hoặc ở trần, hàng hóa chỉ là những thực phẩm cơ
bản của nông dân như gạo, chuối, muối. Vài mươi năm nữa,
khi đất nước hiền hòa này may ra khá hơn, có lẽ sẽ không
còn cảnh này. Nhưng bây giờ, như sống trong thời quá vãng xa
xăm đầy màu sắc hoang dã và hoang liêu.

Tôi đến quầy bán hàng tính ăn đại cái gì cho xong. Bà
đứng trong quầy không chờ hỏi, tự động bê từng nồi thức
ăn để dưới bàn đặt trước mặt và giở nắp. Thịt gà,
thịt heo, tất cả đều kho và trên mặt có một lớp mỡ vàng
dầy. Như các quán ăn trên đất liền, phải lấy muỗng bươi
bươi mới biết thịt gì vì không hiểu họ kho kiểu gì mà cả
hai loại thịt đều màu đen đen sền sệt. Ăn một đĩa cơm gà
kho, uống một chai bia Myanmar. Giá buổi trưa ba đô-la. Theo tiêu
chuẩn người địa phương là quá sang trọng. Nhưng ngán nhất
là uống cà phê. Nước múc từ dưới sông lên, đun sôi xong
vẫn trắng đùng đục, nhưng nghiền quá uống đại, nghe ngóng
bụng dạ một hồi lâu vẫn thấy 'không có gì'.

Tàu lại cập bến, người lại lên, rồi tàu hụ còi xa bến.
Chiều sắp vàng. Nắng loang loáng khắp sông, khói bếp nhà ai
trên bờ vươn chầm chậm. Xa xa, từng đàn ngựa trắng thong
thả gặm cỏ, nhìn như những chấm trắng lắt lay trên nền
cỏ xanh và núi biếc. Đôi khi lẩn trong màu khói xám chiều vài
ngọn chùa tháp cũ kỹ chơ vơ trên triền núi. Lâu lâu mới
thấy một cụm nhà sàn nhỏ nhắn mái rơm vách nứa. Chiếc tàu
cứ nhẹ êm trôi, êm trôi, ở bến đổ cuối cùng trước khi
đến Bagan, tôi thấy dòng chữ sơn trắng 'Welcome to Pakokku'
trên nền màu xanh lơ của một tấm bảng nhỏ hình chữ nhật
dựng trên nóc nhà tôn ven bờ sông. Xa xa là những căn nhà tre
lợp tôn khuất sau các hàng cây xanh. Đây là một thị trấn
nhỏ, buồn buồn, nhưng lừng danh vì thị trấn này là nơi nổ
ra cuộc 'Cách Mạng Áo Nâu Sòng' hồi tháng Tám và Chín năm
2007, theo cách nói của các nhà báo phương Tây, vì cuộc xuống
đường đã do các nhà sư Miến Điện khởi xướng và dẫn
đầu.

Nguyên nhân trực tiếp là do chính quyền tăng giá xăng dầu và
thực phẩm. Việc tăng giá chỉ là cái cớ, nó như giọt nước
làm nổ tung mầm mống bất mãn chính quyền. Cuộc xuống
đường khởi sự ở Pakokku, nhanh chóng lan ra khắp Miến Điện.
Các nhà sư xuống đường đầu tiên thuộc tự viện
Bawdimandine, nơi tu học lớn nhất của thị trấn Pakokku. Chính
quyền thẳng tay đàn áp, một nhà sư bị bắn chết, nhiều vị
khác bị thương do bị đánh bằng roi điện và dùi cui chống
biểu tình.

Các thầy ở Pakokku đòi chính quyền xin lỗi và hạ giá xăng
dầu và thực phẩm, nhưng sau đó các thầy đòi thêm hai yêu
sách nữa: trả tự do cho bà Aung San Suu Kyi và đòi chính quyền
phải thương thuyết. Cuộc xuống đường vì giá xăng dầu và
thực phẩm rẻ sang một hướng khác. Khi các yêu sách trên
không được thỏa mãn, cuộc chống đối lan khắp nước, hàng
ngàn sư sãi xuống đường. Ban đầu chính quyền nhượng bộ
nhưng sau đó quân đội vào cuộc, đóng cửa nhiều tự viện
và bắt bớ sư sãi. Trên một ngàn thầy ở tự viện
Bawdimandine phải trốn lánh đi nơi khác, các thầy khác thì
'cố thủ' trong chùa. Một nhà sư cho báo <em>The Irrawaddy</em>
biết chính quyền lôi các tù nhân trong nhà tù Mandalay ra khỏi
trại, cạo trọc đầu và cho trà trộn trong số sư sãi đang
biểu tình để gây xáo trộn. Các nhà sư bèn đưa ra chiến
thuật lột mặt nạ sư sãi nằm vùng bằng cách kiểm tra các
'ông sư' mới nhập bọn kiến thức về kinh sách, ông nào
không biết kinh kệ là bị trục xuất ra khỏi hàng ngũ biểu
tình. Trong thời gian này nhiều tự viện vắng bóng tăng chúng,
chỉ có chó mèo lang thang trong chính điện.

Tàu cặp bến Pakokku khá lâu để người buôn bán đưa hàng
hóa xuống. Chỉ có vài người lên tàu đi Bagan, trong đó có
một phụ nữ Miến Điện khoảng trên năm mươi dắt theo hai
đứa con trai còn nhỏ. Người đàn bà mặc chiếc áo trắng đã
xỉn màu, vai áo, vạt áo trước bụng và sau lưng đã rách
nhiều lổ lớn. Bà bới tóc, mảnh áo rách quấn trong chiếc xà
rông màu hồng đậm. Tôi nhìn bà ta đứng dựa vào một cây
cột trên bong, nước da đen sậm của bà không biểu lộ một
cảm xúc gì trừ hai đôi mắt buồn không tả, nó như một sự
chịu đựng hoang dã, khao khát, sợ sệt, ước ao, van xin và
lặng lẽ. Hai đứa con trai mặc áo thun ba lỗ rách bươm, chúng
dựa vào bà và đôi mắt lấm lét nhìn những người còn lại
trên bong, trong đó có một cậu nhỏ người Pháp trạc tuổi
chúng đang hồn nhiên chạy nhảy trên bong tàu đã thưa người.
Đôi mắt người đàn bà dừng lại nơi tôi, khóe mắt ươn
ướt như sắp trào. Bà ta sụp xuống khi hai đứa nhỏ ăn ngấu
nghiến mớ lương khô tôi dự định để dành 'vượt biên qua
Thái' nếu xảy ra chuyện gì, rồi bà hướng ra ngoài sông
quỳ lạy thinh không.

Khoảng nửa tiếng sau thì tàu cập bến Bagan. Sáu giờ chiều.
Tôi thức từ ba giờ rưỡi sáng, đi trên một đoạn sông không
dài nhưng có nhiều kiếp sống khắc khoải.

Cô gái là người Hàn Quốc, không phải Nhật. Khi lên bờ, một
chàng 'củ sâm' chờ sẵn đến đón cô đi.

<h2>9. Một phụ nữ khác của Miến Điện</h2>

Cô gái Hàn Quốc biết nhiều về văn học Miến Điện. Lúc
ngồi uống bia ở trên tàu thủy, thấy cô cầm một cuốn sách
bằng tiếng Anh viết về Mandalay, tôi hỏi tác giả là ai. Cô
mỉm cười:

- Một nhà báo kỳ cựu rất nổi tiếng của Miến Điện, sinh
và chết ở Mandalay, bà làm báo, viết văn, hoạt động chính
trị và xã hội, vào tù ra khám, nổi tiếng không thua gì Aung
San Suu Kyi. Giỗ đầu của bà mới cách đây ba tháng.

Đó là Ludu Daw Amar, nhà báo lừng danh Miến Điện
mất hồi tháng Tư năm 2008, thọ 92 tuổi. Tên của bà,
'Amar', trong tiếng Miến Điện nghĩa là 'ngoan cường'.
Ludu, nghĩa là 'Nhân Dân', không phải tên riêng của bà mà
là tên tờ báo do bà và chồng, cũng là nhà báo, sáng lập. Daw
là tiếng tôn xưng người phụ nữ được kính trọng. Bà nổi
tiếng không chỉ vì sự nghiệp viết báo mà còn do các hoạt
động chính trị của cả gia đình. Bà suýt bị hành quyết, và
ở tù vì khuynh hướng thiên tả. Hai con trai tham gia Đảng Cộng
Sản Miến Điện, một chết một lưu vong. Câu nói nổi tiếng
của bà được nhiều báo trích dẫn, và nhiều người Miến
Điện biết, kể cả cô gái Hàn Quốc, là: ''Khi không đồng
điệu với chính quyền, giới cầm bút hãy sáng tạo sao cho
thông điệp của chúng ta tràn đi khắp chốn.'

Trong suốt thời gian Anh đô hộ, Ludu Daw Amar hăng hái tham gia
các hoạt động chống thực dân. Sau Thế Chiến 2, bà cùng
chồng ra tờ bán nguyệt san Ludu, rồi nhật báo Ludu, viết các
bài bình luận sâu sắc chống thực dân, cổ súy dân trí, kêu
gọi nhân dân giữ cuộc sống lành mạnh, làm theo giáo lý nhà
Phật. Mục tiêu này được theo đuổi triệt để cả trong cách
trình bày và quảng cáo: Hai vợ chồng không đăng các quảng
cáo thuốc lá, rượu, cờ bạc, không có các bài viết giựt
gân như những chuyện tình tay ba của giới văn nghệ sĩ, không
bày mẹo đánh bạc hay đua ngựa. Điều này rất có ý nghĩa
nếu biết rằng bà xuất thân từ một gia đình khá giả nhờ
cha mẹ buôn bán thuốc lá, hơn nữa, một trong các bản tính
riêng của người Miến Điện là thích cá ngựa, đua thuyền hay
đánh bài. Mãi sau này vì tình hình tài chính khó khăn, hai vợ
chồng buộc phải đăng quảng cáo phim ảnh. Năm 1948, ngay sau khi
Miến Điện dành độc lập, nhà in do chồng bà sáng lập bị
đặt bom do chính quyền căm ghét thái độ thân cộng sản của
hai vợ chồng. Cả nhà bị lính dồn ra đường, vây họ vào
giữa và sắp sửa bắn hết thì thời may, đúng lúc đó, các
nhà sư và dân chúng ùn đến can thiệp cứu kịp gia đình bà
trước họng súng. Năm 1967, tờ Ludu bị đóng cửa, một người
con trai của bà vào tù, một người con khác bị giết trong khi
hoạt động trong chiến khu của Đảng Cộng Sản Miến Điện.
Không thể tiếp tục làm báo, Ludu Daw Amar quay qua viết sách về
văn hóa Miến Điện, phê phán lối sống vô mục đích và trụy
lạc của thanh niên, đồng thời tích cực tham gia các hoạt
động xã hội chống mại dâm, giúp người nghèo, tranh đấu cho
nữ quyền và chống bóc lột lao động vị thành niên.

Trong bài trả lời phỏng vấn tờ báo mạng The Irrawaddy năm
bà 87 tuổi (2004) có tít "Đừng Thỏa Hiệp Với Chính
Quyền', khi được hỏi bà muốn được hậu thế nhớ mình
trong vai trò nào nhất, bà trả lời:

'<em>Tôi đã phải ngưng làm báo trong gần 20 năm qua, nhưng dù
không được viết báo nữa giác quan làm báo của tôi còn thính
lắm, ngửi thấy có vấn đề gì trong xã hội thì tôi lại
cầm bút, viết. Tôi thích được coi là một nhà báo vì trong
suốt thời làm báo, tôi tự do, không bị kềm chế gì
cả.</em>'

Cũng trong bài phỏng vấn này, bà đánh giá nền báo chí dưới
chính quyền quân sự Miến Điện như sau:

'<em>Tình trạng báo chí bây giờ như thế này: chúng tôi
không thể viết như trước đây, không hề có tự do báo chí,
Nha Kiểm Duyệt (Press Scrutity Board) rất khắt khe. Nghĩa là chúng
tôi không thể viết những điều mình muốn viết. Vì vậy tôi
mới chuyển qua viết về văn hóa và lịch sử – đừng chỉ
trích tôi vì phải viết như thế. Về lâu dài, tôi tin chỉ khi
nào chúng ta có thể ra báo ngày thoải mái thì khi đó mới có
một đội ngũ nhà báo giỏi. Hiện tại, tôi không thấy một
nhà báo nào đáng gọi là nhà báo đúng nghĩa.</em>'

Nói về nơi sinh trưởng Mandalay, Ludu Daw Amar cay đắng:

'<em>Mandalay đang trở thành thuộc địa bất thành văn của
người Vân Nam. Chúng ta mở cửa biên giới thì người Vân Nam
(ở Trung Quốc) tràn vào và biến Mandalay thành quê hương của
họ.</em>'

Cô gái Hàn mô tả Ludu Daw Amar say sưa khiến tôi có cảm
tưởng bà Ludu Daw Amar chính là một Aung San Suu Kyi thứ hai của
Miến Điện. Chỉ khác một bên đấu tranh chính trị trực
diện, còn Amar trường kỳ đấu tranh bằng ngòi bút và thái
độ chống đối công khai trên các lĩnh vực báo chí, văn học,
hoạt động xã hội, và cùng chồng và các con trai dấn thân cho
một Miến Điện tự do. Con trai bị giết, người bị lưu đày,
người ở tù, nhưng bà không hề biểu lộ sự ân hận vì, theo
bà, đó là nhiệm vụ công dân, con bà cũng là một công dân
nên có quyền chọn lựa thái độ trước thời cuộc.

Năm 1982, chồng mất, bà một mình coi sóc nhà in và tiếp
tục viết cho các tờ báo tư nhân chứ không cộng tác với báo
nhà nước. Vào thập niên 1990, chính quyền muốn 'làm đẹp'
thành phố Mandalay để thu hút du khách nên dời các nghĩa trang
ra các vùng thật xa. Bà Amar đã lập một hiệp hội tương
trợ, chuyên giúp các gia đình nghèo không có tiền chôn cất
người thân vì phải đưa quan tài đi quá xa. Ban đầu chính
quyền cản trở, nhưng rồi bỏ lơ vì chính hiệp hội đã gánh
một trách nhiệm xã hội lên vai mà đúng ra là nhiệm vụ của
chính quyền. Mô hình giúp người nghèo chôn cất sau đó được
nhân rộng ra nhiều tỉnh.

Một nhà báo trẻ tuổi Miến Điện kể rằng vào sinh nhật
thứ 90 của bà, ông đã bị chính quyền ngăn cản không cho tham
dự. Trong nhiều năm trước, sinh nhật của bà được các nhà
văn và nhà báo Miến Điện tổ chức trong một tự viện ở
cố đô Amarapura, chính bà Aung San Suu Kyi dù bị quản thúc tại
gia cũng gửi thiệp chúc mừng. Do sợ ảnh hưởng của một bà
già đã đến tuổi xa trời, mấy năm gần đây chính quyền
cấm tổ chức sinh nhật tại tự viện. Năm 2005, nhà báo này
kể: "Tôi được gặp bà lần cuối cách đây ba năm [2002]. Bà
nói với tôi 'chúng tôi ao ước, một ước ao đơn giản thôi,
là được đối xử như những con người.'"

Cô người Hàn nói đó là một ước muốn mà vài chục năm
trước, khi Hàn Quốc còn chính quyền quân sự, cũng đã có
những mơ ước nghẹn ngào như vậy. Cô lấy trong ba lô hai tờ
nhật báo bằng tiếng Anh, The New Light of Myanmar (Tia Sáng Mới
Miến Điện), nói cách trình bày của tờ báo 'hiện đại'
này không khá hơn tờ Mandalay Gazette do chính vua Mindon xuất bản
gần 140 năm trước. Trang mặt của hai tờ này đều có ba ô
vuông. Ô thứ nhất có tựa 'Bốn mục đích chính trị', ô
thứ nhì 'Bốn mục đích kinh tế', ô thứ ba 'Bốn mục
đích xã hội'. Ba ô này nằm sát măng-sét ở tờ thứ nhất,
qua tờ thứ hai thì nằm ở đáy trang, có lẽ do phải đổi
thiết kế (layout) cho hợp với phần tin khác. Tôi đã thấy ba
cái 'bốn mục đích' này ở một tấm bảng dựng gần đồi
Mandalay. Toàn bộ trang mặt của cả hai tờ là hình ảnh tiếp
khách của chức sắc chính quyền. Tôi đùa bộ cô tính học
thuộc lòng ba cái bốn mục đích hay sao mà cất kỹ thế. Cô
bảo 'làm kỷ niệm', và thêm: 'Người ta thường hô to cái
gì người ta không có.'

Tuy nói vậy nhưng cô người Hàn có vẻ khâm phục lịch sử
báo chí Miến Điện. Cô nói đạo luật tự do báo chí đầu
tiên của châu Á chính là từ vua Mindon. Tháng Tám năm 1873, vua
Mindon đã ban hành một đạo luật gồm 17 Điều bảo đảm
quyền tự do báo chí (lúc đó quân Anh đã chiếm vùng Hạ Miến
Điện). Chính nhà vua cũng ra một tờ báo tiếng Miến Điện
vào năm 1874, măng-sét gồm chữ Miến Điện phía trên, ngay bên
dưới là chữ Anh 'Mandalay Gazette' (Công báo Mandalay). Thật
là một tư tưởng khai phóng, một nhà vua làm báo. Tờ Mandalay
Gazette bị đình bản khi quân Anh thôn tính Thượng Miến Điện,
tức gồm cả khu Mandalay ngày nay. Có lẽ cách vua Mindon đối
xử với báo chí phản ảnh phần nào tính khí của người
Miến Điện chăng? Tôi không biết, chỉ nghĩ thoáng qua như
vậy, nhưng qua các sinh hoạt tôi thấy thì người Miến Điện
cũng thích đọc. Trên lề đường ở khu phố cổ Yangon, có
nhiều người bày sách cũ ra bán. Những người bán sách cũ
trên lề đường lam lũ như nhiều người chung quanh, người
đến xem cũng lam lũ, trông khổ cực. Có một vài cuốn sách
bằng Anh ngữ mà ở Việt Nam không thấy nữa, như cuốn English
For Today mà thế hệ tôi ở miền Nam phải học trong thời gian
ở trung học. Nhìn bìa màu xanh dương của cuốn sách dạy
tiếng Anh này, tôi tần ngần không muốn đi vì nó gợi cả
một thời trung học, những năm bắt đầu ê a vỡ lòng tiếng
Anh ở lớp 6 (hồi đó lớp 6 mới bắt đầu học tiếng Anh),
nào là 'Đây là một cuốn sách, Tôi là một học sinh, Ông
ấy là một kỹ sư…' Nhớ cả ông thầy bắt cả lớp học
thuộc lòng một bài tập đọc bằng tiếng Anh, nhớ cách ông
ấy kêu lên bảng dò 'số ít số nhiều'. Thời đó chúng
tôi học tiếng Anh không có máy móc như bây giờ, chỉ dựa vào
mỗi người thầy. Những cuốn sách bày bán trên lề đường
Yangon đều in bằng thứ giấy đen và nhám, y như sách vở thời
bao cấp ở Việt Nam, bức tranh chữ nghĩa thật ảm đạm, nó
khiến mình mũi lòng khi so sánh chuyện này chuyện kia.

Cô gái Hàn hỏi tôi:

- Thế tờ báo đầu tiên ở nước anh ra năm nào?

Tôi vờ khiêm tốn: 'Trước tờ Mandalay Gazette chừng chục năm
thôi à'!

- Thật sao?

Tôi bảo thật, tờ Gia Định Báo ra năm 1865. Cô gái Hàn thốt
lên: 'Bảnh.' Tôi nói bảnh thì có bảnh, nhưng không phải do
nhà vua ra báo mà do nhân dân làm. Thứ hai là vua tớ không có
đạo luật tự do báo chí như Mindon. Thứ ba là vua tớ (Tự
Đức) không thích báo mà chỉ thích mần thơ lai rai trong cảnh
dầu sôi lửa bỏng bị Pháp đô hộ cùng thời Miến Điện bị
Anh cai trị. Nói chung thì nhân dân tớ không hãnh diện với vua
mình như nhân dân Miến Điện hãnh diện có vua Mindon.

Câu chuyện trên tàu thủy đến đây thì tàu cập bến Bagan.
Người con gái Hàn Quốc thú vị ấy biền biệt đi theo một anh
chàng củ sâm, còn tôi leo lên một chiếc xe ngựa già, lóc lóc
đi tìm phòng trọ.

<h2>10. Chùa cổ Bagan</h2>

Sáng sớm hôm sau tôi thuê xe ngựa để vào khu cố đô
Bagan. Tỉnh Bagan (tên cũ là Pagan) có ba khu vực chính nằm trên
trục lộ Bagan-Nyaungu, bắt đầu từ bến phà ở khu Nyaung U, con
đường này chạy men theo sông Voi xuyên qua khu Bagan cổ (Old
Bagan), đây là khu vực chùa tháp chính có trên 2.000 cái, và
chấm dứt ở khu Bagan Mới (New Bagan). Trục lộ này nhỏ, dài
khoảng 15 cây số, hơi dốc, tráng nhựa nhưng nhiều ổ gà.
Suốt đường cây xanh rợp bóng mát mẻ, nhiều nhất là cây
tếch (teak), mùa này hoa tếch nở những chùm bông vàng phơn
phớt như bông nhãn, lẫn trong màu đỏ của hoa phượng đỏ.

Phương tiện đi lại thông dụng nhất ở Bagan là xe ngựa, xe
đạp (thuê ở khách sạn mỗi ngày một đô), xe đạp lôi cũng
có nhưng ít vì đường dốc. Taxi cực kỳ hiếm, không thấy
chạy long nhong ngoài đường kiếm khách như ở Yangon hay
Mandalay. Đi xa và rẻ thì có xe ôm nhưng phải nhờ nhà trọ kêu
họ mới tới, chứ không tụm năm tụm ba ở các góc đường
như ở chỗ khác. Tôi để ý cứ có khách mới vào khách sạn
là sẽ thấy hai ba anh xà ích gò cương chờ ngoài cửa. Họ
giới thiệu tua đi khu chùa cổ, khách cứ tùy nghi trả giá
nhưng thường không quá 15 đô một ngày, đi bao nhiêu người
cũng vậy. Đa số xà ích đều nói được chút đỉnh tiếng
Anh.

Tôi nhờ chở đi ăn sáng trước vì dù nhà khách bao ăn sáng
nhưng chỉ có bánh mì và trứng chiên. Anh xà ích chạy đến
một cái quán nhỏ bên đường, vô kêu giùm một tô mì không
biết gọi là mì gì vì lỏng bỏng nước và hành ta rất
nhiều, thêm một ly cà phê dở thậm tệ giá 600 kyat, chỉ mất
mười phút là xong buổi sáng nhưng có cái gì nóng trong bụng
vẫn hơn.

Ở Bagan rất khó đi lạc vì chỉ có trục lộ chính này và
một con đường nhựa khác dẫn ra phi trường. Bến phà đến
và đi Mandalay nằm ngay khu Nyaung U nên đa phần khách du lịch ở
khu này. Nếu đi máy bay đến Bagan thì khu này nằm gần phi
trường nhất. Nhờ du lịch nên khu Nyaung U có khá nhiều nhà
trọ và khách sạn (nhưng cộng lại vẫn thua xa khu Phạm Ngũ
Lão-Đề Thám ở Sài Gòn), quán ăn, tiệm Internet (đếm vừa
đủ một bàn tay). Nói chung dân phượt ít tiền hay không muốn
hoang phí thì nên ở khu này, kiếm nhà trọ từ năm đến 10 đô
rất dễ. Nếu đi tàu thủy từ Mandalay thì khi cập bến Bagan,
cứ thẳng một đường (vì chỉ có một con đường) từ bến
phà mà tiến sẽ thấy nhà trọ xoàng xoàng nhưng sạch sẽ ở
hai bên đường, đi bộ hay đi xe ngựa đều được, nếu đi xe
ngựa từ bến phà để thong dong kiếm nhà trọ thì giá không
quá hai đô Mỹ (2.000 kyat). Dân kha khá cũng có thể ở các
khách sạn oai phong hơn, vườn tược rộng rãi, từ 20 đô trở
lên.

Anh xà ích tính 12 đô đi suốt ngày, thăm hết chùa chiền
chính kể cả coi mặt trời lặn. (Những chỗ tôi đã đi qua,
người Miến Điện hay nói 'mặt trời lặn' với vẻ tự
hào, cứ như khi hoàng hôn buông thì mới sướng.) Khi ngồi bên
cạnh xà ích rồi mới để ý con ngựa ốm quá, tôi ốm nhom mà
khi bước lên nó phải dậm dậm cái chân sau như lấy thế
gồng lên vậy, thiệt là ái ngại. Mà quả thật, ngựa mình
cất vó rồi mới biết nó sắp về hưu, (hay đã qua tuổi hưu
mà còn nấn ná chưa được cho về), mấy con chạy sau cứ qua
mặt, anh xà ích luôn miệng giục với âm thanh như 'miên mà
miên mà', mỗi lần như thế nó rán lên vài bước nhưng rồi
lại chậm hơn trước nữa. Xà ích liền đổi thế roi, thay vì
quất nhẹ lên mông anh ta lại quày roi trở ngược xuống đánh
vô chân sau con ngựa khốn nạn, mỗi lần thế nó lại giật vó
lên chạy nhanh tung lên, nhưng rồi lại lóc cóc lóc cóc tà tà.

Dọc con đường vào khu Bagan Cổ, hàng quán lưa thưa, người
đi thưa thớt. Hai bên đường có nhiều con đường làng nhỏ
đầy đất bụi. Bagan đất cát, gần tới khu vực chùa chiền
đất màu đỏ nhưng không đậm màu như Buôn Mê Thuột. Khí
hậu nóng nên bụi nhiều, mỗi lần xe ngựa tách trục lộ
chính hay một chiếc xe máy từ đường làng xông ra đường cái
thì bụi bay mờ mịt, đuổi các chú sóc nhỏ bằng nắm tay
chạy băng đường. Bầu không khí như ở một thời xa xưa nào
đó, yên ả, vắng vẻ, người đi đường chậm rãi nhưng không
lè phè, vó ngựa lóc cóc đều đều như tiếng mỏ ban mai.

Anh xà ích rẽ phải (tính từ bến phà) vào một cụm chùa, ngay
chỗ rẻ có bảng gỗ ghi tên ba chùa tháp lớn: Lawka-Chanthar,
Tha-Gyar-Hit Phaya, Tha-Gyar-Pone Phaya.

Tôi vừa leo lên lưng chừng cái chùa tháp cổ đầu tiên, phóng
tầm mắt vào không gian mênh mông bên dưới thì choáng ngợp
đến chết lặng trước cảnh tượng vô cùng ngoạn mục. Ánh
mai chưa thành nắng, những tia vàng còn ửng hồng phủ lên một
rừng cây xanh ngắt đều đều kéo dài tới bờ sông Voi phẳng
lặng, bên kia sông đỉnh núi ươm màu sáng nhẹ. Vươn trên các
ngọn cây xanh là vô số đền đài vuông vức có tháp nhọn
lấp lánh đâm lên trời xanh. Không biết cơ man nào là đền
tháp rải dọc và trải ngang nhô trên rừng cây xanh ngăn ngắt,
có chỗ tháp nằm từng chụm, có chỗ trải thưa. Tháp thấp,
tháp cao vừa, tháp cao hơn, rồi nổi bật trên những tháp nhỏ
và vừa ầy là vài ngôi tháp uy nghi bệ vệ, hệt như những
tháp thấp màu đỏ gạch là nền để làm tôn thêm vẻ oai nghi
sừng sững của các đền lớn, có cái màu gạch suy tư, có cái
màu xám bồn bã, có cái màu vàng tươi kiêu hãnh, các đền
tháp lớn vuông vức, có nhiều từng, ở mỗi góc đều có bốn
tháp nhỏ bao vây cái tháp chính ở chính giữa. Các ngôi đền
lớn như những đại hộ pháp lẫm liệt nhìn xuống các tháp
con bên dưới long lanh trong bình minh tươi sáng.

Nhưng các tháp 'đại hộ pháp' oai nghi mà không hề xa cách
các tháp nhỏ hơn. Tất cả hòa vào nhau, cao thấp khác nhau mà
hòa đồng và ngẫu nhiên như thiên nhiên, như núi nhìn sông
sông ngó núi.

Một khung cảnh như ở cõi nào không thực.

Một không gian thơm thơm mùi giấy cũ của các trang kinh lần
giở ngược thời gian.

Tôi thấy mình đã từng đến đây ở một kiếp nào xa xôi.

Tôi tưởng tượng có một người thân bên cạnh, và khẽ
đưa mắt để nhắn gửi: '<em>Đừng nói gì cả, đừng lên
tiếng, hãy yên lặng, cũng đừng nghĩ gì cả, cứ để cho
không gian thấm vào mình, trời đất thấm vào mình, hay mình
thấm vào trời đất. Như thế…</em>'

Sau rừng xanh và rừng tháp, dòng sông sáng lên một màu sáng
kỳ ảo tựa như cố hắt ánh sáng cho tới tận triền núi
thẫm xa xa. Tôi tưởng như mình chết lặng đi trong giây phút,
tưởng như có thể ngồi mãi nơi hành lang ở lưng chừng cái
tháp tôi đang đứng (so với các ngôi tháp lớn kia còn thấp
hơn nhiều). Nhưng cảnh tượng còn liêu trai hơn nữa khi tôi leo
lên cái tháp lớn thứ hai gần đó. Ngọn tháp này to và cao hơn
cái vừa rồi, có ba tầng, tầng ba chỉ gọn một người (ốm)
ngồi, nhìn qua ngọn tháp mình vừa đứng hồi nãy thì cảnh
sắc thật là ngoạn mục như cõi người này được nâng lên
một cõi nào diễm lệ hơn. Ở đây, nhìn ra hướng sông, lúc
này mặt trời đã lên cao hơn nhưng còn dịu, mặt nước lấp
lánh tràn đầy sinh khí, ngược lại, rừng xanh và rừng tháp
như lại ẩn một vẻ u uẩn trầm mặc. Đứng ở đây thấy
rất rõ một ngọn tháp màu xám tro buồn bã (chùa Thatbyinnyu
Phaya). Vẻ buồn xám của nó vừa nhuốn màu cô độc vừa ẩn
niềm kiêu hãnh, cúi nhìn những tháp con màu gạch sẫm. Nhìn ở
mọi góc độ, cả rừng tháp trồi lên rừng cây xanh đều siêu
thoát, tưởng như mình đến gần hơn với cõi thiêng nào đó,
tưởng như thế gian này không còn hiệu hữu nữa, tưởng như
các phiền não băn khoăn mất dấu tích, và nếu bạn chợt nhớ
nghĩ về ai đó, thì người đó bỗng to lớn hiên ngang hơn,
người đó như nằm hay ngồi thật vĩ đại ở khoảng không
gian nằm giữa trời xanh trên cao và rừng cây ngọn tháp bên
dưới. Trong khoảng không gian nằm ngang tầm mắt, giữa phía
trên là trời cao và bên dưới là rừng cây, dường như không
có chỗ cho phận người nhỏ mọn. Nếu bạn là tín đồ Ki-tô
giáo, bạn sẽ thấy Chúa hiện ra thật vĩ đại trong khoảng
không gian này, bạn có thể thấy đại thập tự gánh nặng
khổ đau của con người tỏa sáng trên không. Nếu bạn là
Phật tử, vô số Bồ Tát sẽ hiện hữu trong ánh hào quang
giữa khoảng trời vừa ngang tầm mắt, vừa hùng tráng vừa
thinh lặng mênh mông. Các hiền thánh như lướt đi trên đầu
rừng xanh, chư tổ như đang ngồi suy tư trên rừng tháp. Trên
đỉnh đồi Mandalay Phật đã đến, nhưng nhìn xuống bạn thấy
thành phồ nghĩa là trần ai lổm chổm người. Trên đầu những
ngọn tháp Bagan, tháp là ta và ta hóa thành tháp. Không còn cái
ta nữa. Tôi choáng váng khi nhớ đến các hình vẽ trên tường
(mural) ở một ngôi chùa thế kỷ 11 trên đường đến đây.
Trên đường đi tôi dặn anh xà ích chỉ ghé những chỗ nào ít
người để ý. Anh đưa tôi vào một cái chùa không tên và quả
thật không có ai cả, anh nói khách du lịch rất hiếm khi tới
đây lắm. Ngôi chùa này nhỏ, đứng ở ngay cổng nhìn vào chỉ
thấy một tường thành mái ngang màu gạch đỏ cũ kỹ, có lẽ
ngày xưa trên mái tường bằng phẳng ấy là một cái tháp
nhưng đã mất dấu tích, chính diện bức tường gạch này có
năm cái cửa nhỏ vừa thân người, hai bên tường gạch này là
hai bờ tường khác, thấp và long lỡ. Từ cổng tiến vào
tường gạch đối diện, tức 'chùa chính', có một khoảng
sân vuông rộng chừng 20 mét. Không thể nghĩ rằng bên trong
bức tường ấy có thờ Phật vì nhìn bên ngoài giống như một
tường thành thấp có đục năm cái lỗ. Anh xà ích ra dấu cứ
chui vào cái cửa bên trái. Mà quả phải cúi đầu vì cửa
thấp, bề ngang chỉ lớn hơn người bình thường chút xíu. Cái
cửa, hay lỗ chui, hình chữ nhật, nhưng khi vào trong thì trần
xây kiểu hình vòm, bên trong mùi ẩm mốc nồng nặc. Khi ánh
đèn pin (tôi luôn bỏ trong túi) lóe lên, tôi thấy trên tường
rêu còn mờ mờ các hình Phật giống như mình vẽ than đen lên
tường rồi lấy phấn trắng chà lên trên bụi than một lớp
mỏng. Tất cả hình (dáng) Phật không còn nguyên vẹn, có cái
có đầu, có cái chỉ nhận ra hai bàn tay đang bắt ấn, có cái
nét vẽ mờ và mong manh như sợi tóc, và không có hình nào có
thân vì nét vẽ chắc đã mờ theo thời gian. Hình Phật khắp
các bức tường đều có những nét mờ nhòe như vậy. Từ
phòng này qua phòng khác đều phải cúi đầu vì khung cửa
thấp, hình vòm theo kiền trúc cổ Bagan. Tôi chua qua chui lại
các căn phòng nhỏ này nhiều lần, nếu không vì mùi ẩm thấp
nồng nặc quá, và hơi khó thở, thì còn ở trong lâu hơn nữa.

Trong mùi rêu mốc và tối tăm, Phật không còn thân,
chỉ còn vài ba nét hư ảo, giống như giữ những nét phác
thảo ấy để đôi mắt trần nhận ra. Đừng trước (hay đứng
trong) không gian u uất trầm mặc này, thân thể máu thịt bỗng
vô nghĩa. Cho nên khi đứng trên tháp cao nhìn rửng xanh và rừng
tháp, tôi liên tưởng sự không còn của hình Phật trong ngôi
chùa lạ lùng kia. Tôi hình dung những người bạn thân thiết,
tôi hình dung những người thân, tôi hình dung những người
không quen biết nhưng bao năm miệt mài khổ nạn, tôi hình dung
người em nhỏ thương yêu, tất cả đứng dưới trời xanh và
trên đầu ngọn tháp, mỉm cười, an nhiên, độ lượng. Em độ
lượng bởi vì em cao cả. Cảm giác này đến vì khi đứng trên
tháp và nhìn rừng tháp, không gian trước mắt hóa thật gần,
trời không quá cao để mình thấy tuyệt vọng không với tới,
mình như đứng lưng chừng giữa hư không, không quá xa trời
không quá xa đất.

Tôi thấy rằng mình không cần nói anh xà ích chạy
tới mấy ngôi chùa to lớn kia nữa vì biết sẽ mất cái cảm
xúc này khi vào sự thật. Sẽ có các hàng quán xúm xít quanh
đó, những người bán vặt lẻo đẻo theo sau, những thùng
đựng tiền để nham nhở ở những vị trí đang lẽ nên
trống. Và quả thật đã diễn ra như thế, trước ngôi chùa
Anan to lớn, trong ngôi chùa xám buồn bã hiên ngang kia, khi cúi
xuống lễ Phật, thì thùng tiền nằm ngay trước mắt và Phật
ở đằng sau.

Đến gần trưa, tôi nói anh xà ích về khách sạn,
không cần đi nữa. Anh tròn mắt, nói nhưng phải đi đến
chiều mới đủ chứ. Tôi nói tôi cần ngủ, nhưng thật ra, ái
ngại cho chú ngựa già mắt chảy ghèn lem nhem và chân cẳng đã
hết thời tung vó.

Tôi còn tới khu tháp cổ hai lần nữa. Chiều cuối
cùng đang đi bộ thì gặp ông xà ích chở hai đứa con nhỏ gò
cương lại mời đi. Nhìn chú ngựa cao lớn khỏe mạnh, tôi
nhờ chở tới khu tháp cổ. Đi ngang qua ngôi chùa Shwezigon nổi
tiếng có tháp cao bằng vàng, tôi nhờ ghé vào một chút vì
trời còn nắng gắt dù đã hơn 5 giờ. Ngôi chùa này do vua
Anawratha (1044-1077) khởi công nhưng đến năm 1102 mới xong, tuy
đã ngàn năm nhưng được trùng tu nên khang trang như mới. Lối
vào là một hành lang dài trên trăm thước phía trên có tháp
trắng theo hình vương miện chồng lên nhau. Bên ngoài có tường
gạch bao quanh, bên trong tường thành là các khu nhà nối mái
vây quanh tháp chính ở giữa.

Ngôi tháp chính bằng vàng ở giữa sân chùa hình chuông cao 31
mét, đáy hình vuông. Bốn hướng chính xung quanh tháp có bốn
ngồi đến thờ ngay nga, riêng bên trong tháp vàng thờ nhiều xá
lợi Phật gồm xương cổ, trán và răng của Phật.

Thật ra ngôi chùa này không có gì lạ, không nguy nga như đại
tự <em>Golden Palace</em> ở Bangkok. Trước khi Phật giáo vào
Miến Điện, dân chúng thờ các vị thần nat, tương tự như
thần làng, thổ địa hay nói chung là thần linh ở Việt Nam. Khi
vua đem Phật giáo Nguyên Thủy vào Miến Điện, ông cấm dân
chúng thờ các vị thần nat. Nhưng dân vẫn lén lút thờ thần
linh dưới lòng đất, và ngấm ngầm chống đối lịnh vua. Vì
vậy vua cho xây chùa Shwezigon thật nguy nga, và cho cất một ngôi
điện bên trong khuôn viên chùa để thờ thần nat. Nhờ vậy
Phật giáo không bị chống đối và dần dà trở thành tôn giáo
chính. Ngay nay phần lớn người Miến Điện theo đạo Phật
nhưng họ vẫn thờ thần nat trong nhiều chùa (cũng tương tự
như mình thờ thổ địa trong chùa vậy).

Khi ba cha con ông xà ích chở tôi đến khu Bagan Cổ thì nắng
đã dịu. Mặt trời đã chạm đỉnh núi bên kia dòng sông Voi.
Những ngọn tháp cổ trong chiều vàng đượm một màu buồn bã
kham nhẫn, không gian lặng phắt, các chim chiều về tổ bay
lượn loanh quanh. Bóng tháp cổ trầm ngâm in trên nền trời tím
sẫm. Chúng như những kẻ vô tình không màng những xô xát nơi
đâu, không biết những náo nức hay ánh đèn màu rực rỡ thị
thành. Tất cả các tiến bộ vật chất của thời nguyên tử
hay công nghệ thông tin đều trở thành vô nghĩa khi đứng
trước lớp lớp tháp cổ im lìm, chịu đựng, suy tư, trí huệ.
Một ngàn năm đã trôi qua, nhưng những tầng tháp cổ vẫn
nguyên vẹn thời gian của nguyên sơ.

Trời chưa tắt nắng, trăng rằm vừa lên khỏi ngọn cây. Màu
xanh tái của bầu trời trùm xuống cả một không gian đìu hiu
và suy tưởng. Rồi những ngọn tháp từ tốn chìm vào bóng
tối. Xung quanh là màn đêm. Người xà ích và con ngựa trầm
ngâm đứng chờ bên một đống gạch vỡ. Không nghe gì, chỉ
lăng lẳng tiếng côn trùng.

(còn tiếp)

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130111/tu-khanh-muoi-hai-ngay-o-mien-dien-4),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét