Trần Mạnh Hảo - Phạm Duy còn đó nỗi buồn

<center><h2>Phạm Duy "còn đó…muôn đời"</h2></center>

<em><center> "Thơ hay có thể bị vua bắt
Trăng nhé nghìn đêm bạc tiếng gà"</center></em>

(Trích bài thơ "LÝ BẠCH" của Trần Mạnh Hảo)

Chúng tôi (TMH) xin mượn tên cuốn sách: <em>"Phạm Duy" còn
đó nỗi buồn"</em> của họa sĩ, nhà văn Tạ Tỵ làm tiêu
đề cho bài viết về nhạc sĩ Phạm Duy của mình.

<div class="boxleft200"><img
src="https://danluan.org/files/u23/ns_pham_duy_2.jpg" /><div
class="textholder">Phạm Duy</div></div>
Phạm Duy - (từng là ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng nhất của nền
tân nhạc Việt Nam, từng là giáo sư dạy trường Quốc gia âm
nhạc Sài Gòn, một nhà nghiên cứu âm nhạc xuất sắc, một
nhà văn, nhà báo có phong cách riêng khi viết báo, viết hồi
ký) - kể từ bài hát đầu tiên phổ thơ Nguyễn Bính, bài
<em>"Cô hái mơ"</em> viết năm 1942 đến nay, đã có hàng mấy
trăm bài hát (có người còn cho ông đã viết đến con số trên
dưới 1000 bài?) làm xúc động lòng người Việt Nam suốt hơn
70 năm nay. Phạm Duy không chỉ là một hiện tượng âm nhạc
vắt qua hai thế kỷ; hơn nữa, ông còn là một hiện tượng xã
hội, một hiện tượng văn hóa, một hiện tượng lịch sử,
cần phải có nhiều nhà Phạm Duy học mai sau nghiên cứu về
ông.

Thuở nhỏ, thời kháng chiến chống Pháp, kẻ viết bài này
từng nghe bà mẹ mình - một người hát thánh ca trong ban Ca
vịnh nhà thờ - từng dùng nhạc Phạm Duy ru con. Những lời ca,
giai điệu Phạm Duy đã thấm vào hồn tôi từ thơ bé qua tiếng
hát ru của mẹ như bài <em>"Nương chiều"</em>:

<em>"Chiều ơi, lúc chiều về rợp bóng nương khoai, trâu bò
về giục mõ xa xôi, ơi chiều…Chiều ơi, áo chàm về quảy
lúa trên vai, in hình vào sườn núi chơi với, ới
chiều…"</em>

Bài <em>"Nhạc tuổi xanh"</em>:

…<em>"Rừng ta ta cứ đi, nhà ta ta cứ xây, ruộng ta ta cứ
cày…Diệt xong quân Pháp kia cười vang ta hát câu tự
do…"</em>

Thỉnh thoảng, khi buồn vui, mẹ tôi lại khe khẽ hát mấy bài
Phạm Duy viết trong kháng chiến chống Pháp, ví như : <em>"Cây
đàn bỏ quên", "Khối tình Trương Chi", "Bên cầu biên
giới", "Tiếng đàn tôi", " Mười hai lời ru"…</em>

Những bài hát của Phạm Duy, của Văn Cao (trước 1945) của mẹ
tôi được chép trên giấy học trò; có khi là những bản chép
nguyên cả khuôn nhạc in bột trên giấy bản nhầu nát; có khi,
bố tôi (một người hát nhạc nhà thờ trong ban Ca vịnh biết
chơi đàn và biết xướng âm bản nhạc) phải dùng hộp bao
diêm làm dụng cụ kẻ nhạc, đặng chép lại bản nhạc cho rõ
ràng giúp mẹ tôi…

Cải cách ruộng đất, gia đình tôi bị quy lên địa chủ, các
bản nhạc chép tay kia của Phạm Duy, Văn Cao… đều bị mất.
Nhưng mẹ tôi thi thoảng buồn, lại ngồi một mình khe khẽ hát
nhạc Phạm Duy, Văn Cao, Đỗ Nhuận... Những bản nhạc tuyệt
vời của Phạm Duy, Văn Cao, Đặng Thế Phong, Dương Thiệu
Tước, Thẩm Oánh, Lê Yên, Văn Chung, Doãn Mẫn, Canh Thân, Đoàn
Chuẩn, Việt Lang, Hoàng Qúy, Tô Vũ, Hoàng Giác…bị quy là
nhạc vàng, nhạc phản động, đồi trụy, bị cấm.

Tôi thường sang nhà người bà con hàng xóm, cùng với ông em
họ (lớn tuổi hơn tôi) tên là chú Bá, ghé tai vào cái radio
hiệu Siêng Mao nghe đài Sài Gòn phát nhạc vàng thời tiền
chiến, mặt lấm la lấm lét như hai tên ăn trộm…Một hôm chú
Bá vừa đi đường vừa nghêu ngao bài <em>"Nhớ Chiến
khu"</em> của Đỗ Nhuận (thực ra bài này chính là bài nhạc
cách mạng, nhưng âm giai buồn buồn da diết giọng nhạc vàng
của <em>"Suối mơ", "Bến Xuân"</em>…) nên Bá bị công an
xã bắt, quy lên hát nhạc vàng của bọn Mỹ Diệm phát ra từ
cái radio phản động…Chiếc radio Siêng Mao của Bá bị công an
xã tịch thu…

Từ đó, suốt tuổi thơ, tôi không còn được nghe những giai
điệu tiền chiến bất hủ kia nữa. Cho mãi tới sau này, khi ở
trong rừng miền Nam, trở thành một nhà báo và mua được cái
radio bé tí, tôi lại tiếp tục được nghe (lén) nhạc Phạm
Duy, Trịnh Công Sơn, Phạm Đình Chương, Cung Tiến…dưới hầm
hào bom đạn…

Ngày 30/4/1975, từ rừng Lộc Ninh về Sài Gòn, chưa kịp hoàn
hồn, tôi đã bị Sài Gòn đánh chiếm bằng văn hóa, bằng văn
học, bằng sách vở, âm nhạc. Phạm Duy và Trịnh Công Sơn đã
tái chiếm tâm hồn tôi; và hình như tôi, đã tự nguyện quy
hàng thứ âm nhạc, thứ văn học, văn hóa mà chế độ mới
đang kết án, cho là văn hóa phản động, đồi trụy. Các loại
sách dịch gần như vô tận của Sài Gòn còn sót lại sau đại
họa đốt sách của chế độ mới đã xâm lược đầu óc tôi,
giải phóng tôi thoát khỏi ngục tù của dốt nát, của u mê,
của cuồng tín ngớ ngẩn một thời, "bắt" tôi vào trường
tự nguyện <em>"học tập cải tạo"</em> đến giờ chưa
chịu thả ra…

May mắn thay, đầu tháng 5/1975, anh Trịnh Công Sơn đã cho tôi
và Trần Nhật Thu mượn cái máy nghe nhạc cũ kỹ mà anh không
còn dùng tới. Suốt mấy tháng trời, các kiệt tác âm nhạc
của bên thua trận như Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, các bài hát
tuyệt vời của Phạm Đình Chương, Cung Tiến, Văn Phụng, Hoàng
Trọng, Phạm Thế Mỹ, Tuấn Khanh, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương,
Trần Thiện Thanh, Y Vân, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Vũ
Thành An, Lê Uyên Phương, Trần Trịnh, Phạm Mạnh Cương,
Trường Sa, Anh Bằng, Khánh Băng, Nguyễn Ánh 9, Nguyễn Trung Cang,
Lê Trọng Nguyễn, Hoàng Nguyên, Văn Giảng, Đan Thọ, Vũ Đức
Sao Biển, Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Đức Quang…qua tiếng hát
của các danh ca : Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly, Hà Thanh, Thanh Lan,
Duy Trác, Sĩ Phú, Anh Khoa, Elvis Phương… đã bắt sống tâm
hồn tôi làm tù binh, cùng với thơ Nguyên Sa, thơ Nhã Ca, văn Võ
Phiến, Mai Thảo, Phan Nhật Nam, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam…nhốt
thế giới tinh thần tôi vào trang sách, vào khuôn nhạc khóa sol
năm dòng kẻ của họ và <em>"lưu đày"</em> tâm hồn tôi
lại mãi với những bài ca đích thực con người…

Tôi yêu các nhạc sĩ có một bài hát bất hủ để đời, ví
như: <em>"Xuân và tuổi trẻ"</em> (La Hối phổ thơ Thế Lữ),
<em>"Cô láng giềng"</em> của Hoàng Qúy, <em>"Em đến thăm
anh một chiều mưa"</em> của Tô Vũ, <em>"Biệt ly"</em> của
Doãn Mẫn, <em>"Giáo đường im bóng"</em> của Nguyễn Thiện
Tơ, <em>"Hướng về Hà Nội"</em> của Hoàng Dương,
<em>"Nắng chiều"</em> của Lê Trọng Nguyễn, <em>"Ai lên xứ
hoa đào"</em> của Hoàng Nguyên, <em>"Trăng mờ bên
suối"</em> của Lê Mộng Hoàng, <em>"Chiều tím"</em> của
Đan Thọ, <em>"Ai về sông Tương"</em> của Văn Giảng,
<em>"Thu ca"</em> của Phạm Mạnh Cương, <em>"Sang ngang"</em>
của Đỗ Lễ, <em>"Thương nhau ngày mưa"</em> của Nguyễn
Trung Cang, <em>"Thu hát cho người"</em> của Vũ Đức Sao Biển,
<em>"Tôi đưa em sang sông"</em> của Nhật Ngân và Y Vũ…

Huống hồ, với thiên tài Phạm Duy đã có hàng mấy chục bài
hát bất hủ để đời, trong đó có đến vài chục bài thuộc
hàng kiệt tác, thì tôi càng kính phục ông hơn, yêu mến ông
biết là chừng nào. Chính vì vậy, ngay từ khi chưa biết chữ,
nghe mẹ tôi hát nhạc Phạm Duy, đôi tai tôi đã bị ông này
lấy mất, để rồi ông thả tâm hồn tôi suốt hơn sáu mươi
năm nay lang thang cùng nỗi <em>"khóc cười theo vận nước nổi
trôi"</em> của Phạm tiên sinh.

Chúng tôi xin phép kể ra các ca khúc tuyệt vời và rất hay của
nhạc sĩ Phạm Duy mà cá nhân tôi yêu thích, đã góp phần làm
thay đổi cuộc đời tôi:

"Nương chiều", "Tình ca", "Nhạc tuổi xanh", "Bên cầu
biên giới", "Ngậm ngùi", "Áo anh sứt chỉ đường tà",
Ngày trở về, Mùa thu chết, Thuyền viễn xứ, Bà mẹ Gio Linh,
Về miền Trung, Bà mẹ quê, Cây đàn bỏ quên, Nghìn trùng xa
cách, Việt nam Việt nam, Bên ni bên nớ, Còn chút gì để nhớ,
Nha trang ngày về, Đưa em tìm động hoa vàng, Kỷ niệm, Ngày
xưa Hoàng thị, Giọt mưa trên lá, Tình hoài hương, Tiếng đàn
tôi, Đố ai, Tiếng sáo thiên thai, Nụ tầm xuân, Rồi đây anh
sẽ đưa em về nhà, Cành hoa trắng, Cô gái Bắc kỳ nho nhỏ,
Thương tình ca, Thà như giọt mưa, Cỏ hồng, Người về,
Đường em đi, Chuyện tình buồn, Nhớ người thương binh, Con
đường tình ta đi, Ông trăng xuống chơi, Chiến sĩ vô danh,
Tuổi ngọc, Phượng yêu, Còn gì nữa đâu, Thương ai nhớ ai,
Gọi em là đóa hoa sầu, Em đi lễ chùa này, Ngày đó chúng
mình, Tìm nhau, Kiếp nào có yêu nhau, Yêu là chết ở trong lòng,
Khối tình Trương Chi, Tóc mai sợi vắn sợi dài, Nước mắt
mùa thu, Chiều về trên sông, Tôi đang mơ giấc mộng dài, Hẹn
hò, Nước mắt rơi, Kỷ vật cho em, Tiễn em, Trả lại em yêu,
Chủ nhật buồn, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Ta yêu em lầm
lỡ, Giết người trong mộng, Bao giờ biết tương tư, Em hiền
như Masoeur, Đừng nhìn nhau nữa em ơi, Nước non ngàn dặm ra
đi, Ai đi trên dặm đường trường, Gió đưa cành trúc la đà,
Con đường cái quan ….

Những kiệt tác ca, tuyệt tình ca trên gồm đủ thể loại ca
nhạc như cách mạng ca, sơn hà ca, quê hương ca, tình ái ca, tâm
tư ca, trường ca, rong ca, đạo ca, thiền ca, tâm ca, tâm phẫn
ca, tục ca, vỉa hè ca, thiên địa ca, vô thường ca, hư vô ca,
nhật nguyệt ca, vũ trụ ca, sầu mộng ca, hoan lạc ca, Phật ca,
Chúa ca, quỷ ca, Càn khôn ca, Ta bà ca, Lão Trang ca, Thần tiên ca,
sinh diệt ca, liêu trai ca, mộ địa ca, hú hồn ca, yêu tinh ca, du
mục ca, tang bồng ca, ma xó ca, ngật ngưỡng ca, túy lúy ca, siêu
hình ca, vô ngôn ca…

Phạm Duy còn có đóng góp lớn là món NGOẠI CA, tức công việc
chuyển ngữ cho các kiệt tác âm nhạc nước ngoài vào thị
hiếu âm nhạc Việt Nam mà khi hát lên, nhiều người vẫn cho
là ca khúc Phạm Duy…

Những tuyệt tác ngoại quốc được Phạm Duy chuyển ngữ và
chỉnh sửa, phỏng lời, hoặc nắn lại nốt nhạc cho hợp tai
người Việt Nam gồm : Ave Maria, Mối tình xa xưa, Dòng sông xanh,
Khúc hát thanh xuân, Chiều tà, Dạ khúc, Trở về mái nhà xưa,
Mơ màng, Ánh đèn màu, Vũ nữ thân gầy, Tình vui, Chuyện tình,
Em đẹp nhất đêm nay, Cánh buồm xa xưa, Giàn thiên lý đã xa,
Vai áo màu xanh, Hận tình trong mưa, Nắng thu, Bài ca ngợi tình
yêu, Emmanuelle, Himalaya, Hờn ghen, Khi xưa ta bé, Không cần nói
anh yêu, Khúc hát thanh xuân, Lại gần hôn em, Nắng xuân, Ngày
tân hôn, Người yêu nếu ra đi, Biết ra sao ngày sau, Tình yêu
ôi tình yêu, Vĩnh biệt người tình, Vĩnh biệt tình ta….

Thật không thể nào tin được, một ông Phạm Duy bằng xương
bằng thịt lại có thể viết được ngần ấy bài tuyệt tình
ca hay đến thế, mê hoặc hồn người Việt Nam đến thế. Có
cảm giác chỉ một mình Phạm Duy đã là cả một thời đại
tân nhạc Việt Nam. Có cảm giác trong người ông Phạm Duy còn
giấu ẩn cả trăm nghìn người khác; hoặc trong thân xác ông
còn giấu cả trăm nghìn bộ óc khác, trăm nghìn trái tim khác;
trong hồn ông còn giấu trăm nghìn hồn khác; trong đôi tai ông
còn giấu trăm nghìn đôi tai khác. Cho nên ông mới đủ sức
làm ra một gia tài âm nhạc vô cùng đồ sộ, với một chất
lượng không thể nào tưởng tượng ra được, rằng đây là
sản phẩm của chỉ một con người?

Khi nghe tin nhạc sĩ Phạm Duy bước vào tuổi 93 đang lâm trọng
bệnh, tôi ngồi trong nhà, một mình tha thẩn ngoài sân nghe lại
một cách hệ thống mấy chục album nhạc Phạm Duy trên Internet
suốt cả nửa tháng trời mà lấy làm vô cùng thán phục ông.
Hình như ông Phạm Duy chính là lò sản xuất ma xó vào loại
lớn nhất thế giới? Trong mỗi bài hát, chừng như Phạm Duy
đều gài vào năm dòng kẻ nhạc khóa sol của ông một con ma
xó, hầu hớp hồn người nghe?

Tôi đồ rằng tâm hồn ông Phạm Duy có chứa một cái dạ dày
(tất nhiên là dạ dày tinh thần) to bằng cả bầu trời? Quái
kiệt giời sai xuống trần gian có tên là Phạm Duy có cái dạ
dày tâm hồn biết tiêu hóa muôn muôn sự vật, từ sự vật
thể chất đến sự vật tinh thần, rồi biến chúng thành giai
điệu, thành lời ca. Không có cái gì chúng ta nhìn thấy, cảm
thấy, mơ thấy, sờ thấy, ngửi thấy, nghe thấy, mơ thấy mà
không có trong âm nhạc Phạm Duy. Từ góc sân nhà nơi ta lẫm
chẫm tập đi, tập nhìn, tập nghe, tập khóc, tập cười, tập
bú mớm, tập ăn, tập uống, tập làm người, thảy thảy đều
có trong âm nhạc Phạm Duy.

Con sâu cái kiến, con giun, con dế, con chuồn chuồn, con chim, con
cá, con kênh, con sông, con bê, con nghé, con mèo, con chó, con lợn
, con gà, con voi, con vịt, con đom đóm, con người…đều hốt
nhiên tìm đến năm dòng kẻ nhạc, năm đại lộ Phạm Duy mà
leo, mà bò, đi lại, chạy, chảy, bay, bơi trong âm nhạc Phạm
Duy…Cái cây, cái cối, cái chày, cái thằng con nít, cái nồi,
cái niêu, cái chum, cái vại, cái nhà, cái xe, cái mâm, cái
chết, cái sống, cái hư vô, cái thực tại, cái vô thường,
cái hữu hạn, cái vô vi, cái sinh diệt, cái ác, cái thiện, cái
tốt, cái xấu, cái sai, cái đúng, cái đẹp, cái thoáng chốc,
cái muôn đời, cái đểu, cái chân, cái mê, cái tỉnh, cái
giả, cái buồn, cái vui, cái bất tử, cái siêu hình, cái yoni
(cái l…) cái Linga (cái c…), cái vợ, cái con, cái váy, cái
khăn, cái nón, cái mồm, cái tay, cái chân, cái tóc, cái lông,
cái dại, cái khôn, cái mùi, cái mát, cái tai, cái âm dương,
cái phồn thực, cái mất, cái còn…đều được cái dạ dày
âm nhạc khủng long của Phạm Duy tiêu hóa mà biến thành muôn
vàn âm giai, muôn vàn làn điệu, muôn vàn lời ca ma ám, ám lấy
hồn người?

Phạm Duy, ông có phải là thượng đế của âm giai, phù thủy
của khóa sol, ma xó của bảy thanh âm: đồ rê mi pha sol la xi,
thần linh của tiết tấu, quỷ sứ của nhịp điệu, con ma của
ngôn từ…hay không mà hàng trăm bản nhạc của ông không hề
bị hội chứng đều đều, lặp lại (monotone) trêu chọc, phá
đám?

Phạm Duy, có phải ngay từ trong bụng mẹ, máu Sông Hồng đã
ngấm vào máu ông, hồn cốt Thăng Long trong ca dao, dân ca,
Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân
Hương, thơ Nguyễn Trãi, thơ thiền Lý Trần cùng với heo may
Hồ Gươm, mưa phùn Hồ Tây, gió bấc Kinh Bắc, hương cốm mùa
thu chim ngói Mễ Trì, thoang thoảng hương hoa các làng hoa Ngọc
hà, Nghi tàm, Nhật tân, Quảng bá ngát hơi xuân…đã làm nên
máu thịt hồn ông? Nên đất ấy, hồ ấy, thu ấy, khí thiêng
ấy, chim ấy, thơ văn ấy, gió bấc ấy, hương hoa ấy, làn
điệu chèo ấy, quan họ ấy… đã mượn hồn ông mà hát lên
cõi u u đất trời, hát lên nỗi lòng con người buồn vui khóc
cười xứ Bắc?

Từ tấm bé, qua gia đình, cha mẹ, qua khí trời bàng bạc thu Hà
thành, qua sách vở nhà trường, qua nỗi mơ hồ thiên địa,
Phạm Duy đã tắm mình trong tâm hồn dân tộc. Từ năm 1947, ông
đã có một định hướng nghệ thuật hết sức đúng đắn :
để cả cuộc đời nghiên cứu dân ca, ca dao, tiếp thu tinh hoa
âm nhạc dân tộc, phát triển và nâng cao chúng để kết hợp
với nhạc Tây phương vừa du nhập vào nước ta qua nhạc nhà
thờ, qua các bản giao hưởng cổ điển trong đĩa nhạc, các ca
khúc Pháp, Ý… tân thời hát trong tiệm nhảy, quán café được
thanh niên trí thức Hà thành học đòi bắt chước…

Có thể nói, Phạm Duy là nhạc sĩ đầu tiên đã nghiên cứu
âm nhạc dân tộc một cách hệ thống, rốt ráo, đã học tập,
tiếp thu tinh hoa cha ông trong nhạc ngũ cung, nâng cao lên để
kết hợp với trào lưu "âm nhạc cải cách" (musicque renovée)
thời 1938-1945 mà thành phong cách phi phong cách (một phong cách
đa phong cách không dừng lại ở một air nhạc nào) có tên là
phong cách Phạm Duy, khiến người nghe nhạc ông không hề cảm
thấy sự nhàm chán …

Phạm Duy, ông không phải là tháp Bayon bốn mặt của đền đài
Angkor Thom, Angkor Wat xứ Chùa Tháp. Nhưng ông chính là tháp Bayon
muôn mặt của dòng tân nhạc Việt Nam suốt 70 năm qua. Gương
mặt tâm hồn ông, gương mặt âm nhạc ông quả là muôn mặt:
mặt dịu hiền, mặt thiết tha êm đềm êm ái, mặt tinh khiết,
mặt tươi như mặt thiếu phụ đêm xuân yêu chồng, mặt cau có
đau khổ như mặt gã trai thất tình, mặt quằn quại, mặt vò
xé tang thương, mặt mê ly khoái lạc, mặt dúm dó nhàu nát,
mặt thất thần, mặt điêu linh, mặt lênh đênh phiêu bạt,
mặt thất sắc vô hồn, mặt hoen rỉ tối tăm, mặt hư vô hư
ảnh, mặt nết đa đoan trang, mặt đĩ thõa, mặt giập nát,
mặt sáng bừng như trăng, mặt hoa da phấn, mặt ngây ngô, mặt
tiếu lâm, mặt hồng diện đa dâm thủy, mặt nạ người, mặt
yêu tinh, mặt nạ dòng vớ được giai tơ, mặt hoài nghi khôn
xiết, mặt thăm thẳm vực sâu, mặt buồn đêm ngơ ngác…Tất
cả muôn mặt đó họp chợ lại thành gương mặt Phạm Duy -
một mình làm cả một nền âm nhạc…He he he he…

Đi tận cùng tâm hồn dân tộc, Phạm Duy đã gặp tinh hoa thế
giới và trở thành hiện đại bằng sự sáng tạo mang chất
thiên tài của mình.

Xin quý bạn đọc nghe vài người khác nói về nhạc sĩ Phạm
Duy:

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý: <em>"Trong 'gia tài' của Phạm Duy,
có những tác phẩm mà qua lăng kính của mình ông đã nói lên
những triết lý sâu sắc. Chẳng hạn như 'Nghìn trùng xa cách,
người đã đi rồi. Còn gì đâu nữa mà khóc với cười'…
Công tâm mà nói, trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy là
một nhạc sĩ có nhiều tác phẩm để đời và mãi mãi còn
trong lòng người Việt Nam qua nhiều thế hệ"</em>. (Trong bài
viết Phạm Duy, người bạn, người anh, người thầy của tôi).

Nhạc sĩ Lê Uyên Phương: <em>"Như tiếng chuông vọng đến từ
hư vô. Như những tia chớp sáng ngời trong đêm tối. Như những
tia nắng ấm đầu tiên của một ngày trong mùa Đông giá lạnh.
Như những tia nắng chiều rực rỡ của một ngày đầy vui
buồn của kiếp sống. Âm nhạc Phạm Duy đã đến trong mỗi
cuộc đời Việt Nam như không khí trong bầu khí quyển của ca
dao, tục ngữ, của truyện Kiều, của Cung Oán Ngâm Khúc, của
Chinh Phụ Ngâm, của ngôn ngữ, của âm thanh, của cảm xúc
Việt Nam. Trong đáy lòng của mỗi người Việt Nam, từ đã
từng là một thiếu niên trong thời kháng chiến hay đến hôm
nay là một thanh niên ở cuối thế kỷ 20, đều mang một dấu
vết nào đó còn sót lại của bầu dưỡng khí đã nuôi lớn
tâm hồn họ trong gần nửa thế kỷ này"</em> (Trích bài viết
Phạm Duy, nắng chiều rực rỡ)

Thi sĩ Nguyên Sa: <em>'Hôm nay, có những người thích Rong Ca, có
những người mê Bầy Chim Bỏ Xứ, có những người ngất ngây
với Hoàng Cầm Ca, có những tín đồ của Thiền Ca. Có những
người yêu Phạm Duy của new age, của nhạc giao hưởng, của
mini opera và của thánh ca hơn Phạm Duy của Tình ca, Phạm Duy
của dân ca, Phạm Duy của Kháng chiến ca, Phạm Duy của thơ
phổ nhạc. Và ngược lại, có những người, với họ, chỉ có
Phạm Duy của Tình ca mới là Phạm Duy. Chỉ có Phạm Duy Kháng
Chiến Ca. Chỉ có Phạm Duy thơ phổ nhạc. Chỉ có Phạm Duy,
chỉ có Phạm Duỵ... Nhưng đó, bạn thích Phạm Duy nào, tùy
bạn. Cũng vậy thôi, viên kim cương có một ngàn mặt. Khác
biệt với tấm gương chỉ có một mặt. Cho nên phải chọn
lựa, phải bàn cãi, phải bất đồng, phải suối ngàn đầu,
sông trăm nhánh chảy về vĩnh viễn một đại dương"</em>.

<center>***</center>

<h2><center>Nhạc sĩ Phạm Duy
với Hộ khẩu & Chứng minh nhân dân</center></h2>

Nhạc sĩ Phạm Duy, tên thật là Phạm Duy Cẩn, sinh ngày 5/10/1921
tại Hà Nội trong một gia đình văn nghiệp. Cha là Phạm Duy
Tốn thường được xem như nhà văn xã hội đầu tiên của
nền Văn học Mới hồi đầu thế kỷ 20. Anh là Phạm Duy Khiêm,
giáo sư thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp,
văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines,
Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine...

Cuộc đời của ông ngoài việc ca hát, sáng tác nhạc còn có
giai đoạn thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương,
học thầy Tô Ngọc Vân, và cùng chung lớp với Bùi Xuân Phái,
Võ Lăng... Năm 1942 ông có sáng tác đầu tay Cô hái mơ. Năm
1944, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương
Đức Huy – Charlot Miều.

Bạn muốn biết thêm về tiểu sử nhạc sĩ Phạm Duy, chỉ cần
vào trang tìm kiếm www.google.com đánh hai từ Phạm Duy là từ
điển mạng (Wikipedia) sẽ cung cấp đủ cho bạn. Cũng như vậy,
bạn vào trang tìm kiếm trên, đánh từ khóa: Album nhạc Phạm
Duy là có thể nghe được ngót trăm Album nhạc của ông người
trời họ Phạm…

Ngày 14/8/1999 tại nhà riêng, thị trấn Midway City, miền Nam
California, danh ca Thái Hằng, hiền thê của nhạc sĩ Phạm Duy
đã từ trần, hưởng thọ 72 tuổi (1927-1999), bỏ lại trên
trần gian một người chồng tưởng nghiêng trời lệch đất,
tưởng như một con khủng long âm nhạc lừng lững trần ai,
bỗng giờ đây bị nỗi cô đơn khủng khiếp đến rợn người
úp chụp lên đầu như trời sập. Chính từ nỗi cô đơn đến
tuyệt vọng vì sự ra đi của người bạn đời mà ý định
<em>"cóc chết ba năm quay đầu về núi"</em>, tức về hẳn
Việt Nam sống nơi Phạm Duy hình thành. Sau một lần về nước
thử xem một ông già từng chống cộng, nay chỉ thích chống
gậy (!) coi cộng sản có còn thích bắt nhốt mình hay nữa
không như hồi năm 1975? Nói dại, nếu hồi ấy ông không lẹ
chân di tản, lỡ kẹt lại, Phạm Duy có thể phải ở tù cho
tới chết. Năm 2005 Phạm Duy về nước sống thật, quyết
định ở luôn quê hương cho đến khi ông xanh gọi về với tổ
tiên.

Lập tức Phạm Duy bị một số báo chí hải ngoại cực đoan
(chống cộng bằng chính phương pháp chụp mũ chính trị kiểu
cộng sản) ném đá tơi bời hoa lá. Họ dùng tất cả sự tục
tằn, thô bỉ, thậm chí dùng cả cứt đái của toàn nhân loại
đổ chụp lên đầu một ông già thân cô thế cô, một mình
hồi hương về cố quốc để sống nốt những ngày tàn và
để chết. Họ gọi ông bằng thằng, bằng mày, bằng chó ghẻ,
bằng quân nọ, quân kia. Họ cho ông ăn tất cả món dơ bẩn
nhất trần đời. Rằng, làm như tất cả tội lỗi của cộng
sản đều do Phạm Duy gây ra. Rằng, làm như Phạm Duy chính là
thằng già đã mang tà thuyết về làm hại dân tộc, đất
nước vậy …

Phạm Duy vốn là một tay chơi, một bố già đanh đá có hạng,
một người nếu cần cũng mồm loa mép giải như ai, cũng anh
chị Cầu Muối như ai, cũng có thể chơi cả đòn đầu đường
xó chợ dao búa (dao búa kiểu chữ nghĩa, dao búa tượng trưng)
xem có chết ai nào, có mà còn khuya mới bắt nạt được bố
nhá! Phạm Duy một mình lủi thủi, túc tắc <em>"bút
chiến"</em> với cái đám vong thân chính trị ô hợp, một
trăm ông chống cộng đều chống nhau kia bằng chiến trường
Internet. Trong cuộc chiến muôn chống lại một này, chữ nghĩa
trên màn hình vi tính của hai bên đều a-la-sô xung phong ồ ạt,
để lại từng đống xác chữ chết như ngả rạ trên chiến
trường ảo điện báo.

Phạm Duy dùng chiếc que bông phèng cà rỡn chọc vào tổ ong vò
vẽ hải ngoại: này các con giời kia, các con đã mấy chục năm
nghe nhạc chùa của bố không phải trả tiền, nay còn tính ăn
thịt bố chỉ còn xương bọc da nữa hay sao? Rằng, bố làm
nhạc khi toàn ngồi trên bệ xí nhà vệ sinh đấy, nhạc của
bố đôi khi cũng bốc mùi tí ti, sao các con chỉ cảm thấy thơm
điếc mũi thế hả? (Chuyện này thì thiên tài Alb. Einstein đã
từng tuyên bố: tôi nghĩ ra thuyết tương đối khi ngồi trong
toilet đấy!). Thế là đám kẻ thù của <em>"thằng già lơ láo
về hàng cộng sản"</em> liền nhảy dựng lên kêu gọi, rằng
ai có tro dùng tro, ai có trấu dùng trấu, ai có phân dùng phân,
phen này quyết ném vào mặt thằng <em>"dê già"</em>, thằng
<em>"loạn luân" "ăn chè Nhà Bè"</em> năm xưa toàn bộ tinh
thần căm thù không đội trời chung của người quốc gia chân
chính ha ha ha …

Họ thi nhau bịa chuyện bôi nhọ Phạm Duy, bới móc đời tư
của ông rồi chửi rủa bằng những từ ngữ bẩn thỉu nhất,
hè nhau quy chụp chính trị một ông già cô đơn muốn về quê
cha đất tổ để chết. Riết rồi Phạm Duy cũng mệt, hơi
đếch đâu mà cãi nhau với đám bùng nhùng ba bứa ấy? Nè, bố
mượn phép thắng lợi tinh thần của chú AQ Lỗ Tấn mà tạm
phán rằng: các <em>"moa"</em> chửi <em>"toa"</em> cũng như
đang chửi bố các <em>"moa"</em> mà thôi…

Những người đồng hương tị nạn ném đá vào Phạm Duy qua
biển Thái Bình Dương chung quy cũng chả làm cóc gì được ông,
lại còn có khi bị khí chất đanh đá cá cày đáo để chua ngoa
của <em>"vũ khí mất gà"</em> nơi ông chơi lại tóe khói
chứ chẳng chơi. Nhưng khi những người anh em bên kia giới
tuyến nơi cố quốc cũng nhạc sĩ như ai, cũng trí thức trí
ngủ như ai thi nhau ném đá vào ông thì ông đành thở dài, im
lặng chịu đau, giả mù, giả câm giả điếc để ngồi nghe
nỗi đời nhiễu nhương ra đòn thù ghen ghét tài năng.

Ấy là vào năm 2005, sau khi về nước, Phạm Duy được công ty
văn hóa tư nhân Phương Nam mua đứt bản quyền trọn đời âm
nhạc, trả cho ông một số tiền thù lao kha khá là một căn
nhà khang trang để ở và những đêm ca nhạc rầm rộ. Công ty
Phương Nam độc quyền bán vé kinh doanh những đêm nhạc Phạm
Duy, lời ăn lỗ chịu, tuyệt nhiên không có sự bù lỗ của
nhà nước như khi các ông nhạc sĩ quốc doanh làm đêm nhạc
dối già.

Công chúng náo nức đi nghe nhạc Phạm Duy đông chật các nhà
hát, thậm chí không đủ vé bán, có người còn phải mua vé
lậu, vé chui đắt gấp hai ba lần giá vé chính thức. Phạm Duy
bị <em>"vây giữa tình yêu"</em> bởi lòng yêu mến của công
chúng nơi cố quận với ông đã bị dồn nén mấy chục năm
trời nay chợt bùng vỡ. Ông bị dìm đến có cơ ngạt thở
trong những tràng pháo tay nổ rền như dàn sơn pháo đại hợp
xướng Tân Tây lan chơi liên tù tì thời chiến tranh Việt Mỹ.

Thói đời, ma cũ bắt nạt ma mới, đám nhạc sĩ cây đa cây
đề trong Hội nhạc sĩ Việt Nam thấy NGÀY TRỞ VỀ của Phạm
Duy được công chúng đón rước rất huy hoàng, hoành tráng, có
vẻ giống như dân Pháp xưa đón Nã Phá Luân chiến thắng từ
châu Phi trở về… bèn nóng mặt, ghét cay ghét đắng mà hè
nhau ném đá vào Phạm Duy, toàn những cục đá vu cáo chính trị
to bằng nắm tay, có vẻ muốn khích nhà cầm quyền cấm tiệt
nhạc Phạm Duy, hay giam lỏng ông cho nhạc cách mạng của các
ông nhạc sĩ bất tài lên ngôi…

Mở màn chiến dịch ném đá Phạm Duy tại quốc nội, nhạc sĩ
kiêm nhà báo <a
href="http://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/75">Nguyễn Lưu</a>
(con trai nhân sĩ Nguyễn Xiển 1907-1997, từng là tổng thư ký
đảng xã hội Việt Nam, phó chủ tịch ban thường vụ quốc
hội Việt Nam) viết trên báo <em>"Đầu tư"</em> ngày 13-3-2006
bài: <a
href="http://www.thanhnien.com.vn/news/Pages/200611/142394.aspx">"Không
thể tung hô"</a> như sau:

<blockquote><em>"Tôi muốn nói đến trường hợp của nhạc sĩ
Phạm Duy, người mới được xưng tụng sau đêm nhạc <em>"Ngày
trở về"</em> (diễn ra tại Nhà hát Hòa Bình, TP.HCM). Một
người bạn, nhà văn Chu Lai đã tỏ ra tâm đắc với ý tưởng
này và cho biết, Tạp chí Thế giới mới số mới nhất có
đăng một bài viết, với nội dung gói gọn: "Một người từng
bỏ kháng chiến theo thực dân Pháp, khi Pháp rút lại theo Ngô
Đình Diệm và khi ngụy quyền sụp đổ lại chạy qua Mỹ. Và
tại đó, đã viết hàng loạt bài kêu gọi chống Cộng, với
giọng điệu "sặc mùi" hiếu chiến. Nay, thấy Việt Nam
vươn lên mạnh mẽ, lại xin trở về! Hà cớ gì phải tung hô,
xưng tụng đến như thế!".</em></blockquote>


Cũng trên bài báo này, nhạc sĩ Nguyễn Lưu quy chụp chính trị
nhạc sĩ Phạm Duy bằng đòn vu khống chính trị bịa đặt
trắng trợn như sau:

<em>"Đỉnh cao" sự nghiệp chống Cộng của Phạm Duy là bài Mùa
thu chết. Ở đó, tác giả đã công khai tư tưởng chống Cộng
của mình. Ông ta đã từ bỏ tình yêu với Tổ quốc bằng một
bút pháp thật sâu cay, đểu giả và ít ai quên cái mùa thu trong
ca khúc ấy chính là Cách mạng mùa thu, là niềm tự hào của
dân tộc Việt Nam. </em>(Bài báo Không thể tung hô của tác giả
Nguyễn Lưu đăng trên Báo Đầu tư ngày 13.3.2006)

Xin nhà báo nhạc sĩ Nguyễn Lưu coi lại xuất xứ bài hát này
của nhạc sĩ Phạm Duy: <em>"Mùa thu chết"</em> rất nổi
tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy là phổ thơ của thi hào Pháp
Apollinaire (1880-1918) . Bài thơ của Apollinaire chỉ có 5 câu, mang
tựa đề L'Adieu (Vĩnh biệt), nguyên văn:

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends

Tạm dịch:

<em>Ta ngắt một cành thạch thảo
Em hãy nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta không còn được nhìn nhau nữa trên đời
Mùi thời gian đẫm hương thạch thảo
Em hãy nhớ rằng ta vẫn chờ em </em>

Căn cứ trên giấy trắng mực đen vừa dẫn trên, Nguyễn Lưu
cần phải viết thêm một bài lên án chính tác giả bài thơ là
thi hào Apollinaire - người đã mất từ năm 1918 – chính là
người đã <em>"chống cộng"</em> vì dám bảo Mùa thu cách
mạng tháng tám 1945 ĐÃ CHẾT, chứ nào phải Phạm Duy…Chưa
từng thấy sự xuyên tạc văn bản nào trắng trợn và hèn hạ,
dốt nát hơn sự xuyên tạc của ông Nguyễn Lưu với bài thơ
phổ nhạc <em>"Mùa thu chết"</em> này…

Nguyễn Lưu còn kéo thêm các nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, nhạc
sĩ Tân Huyền vào băng nhóm ném đá Phạm Duy chỉ vì trò ghen
tức, đố kị người tài năng hơn mình, khi thấy quần chúng
bày tỏ lòng yêu thích nhạc Phạm Duy một cách cuồng nhiệt
trong đêm nhạc <em>"Ngày trở về"</em> như đã nêu trên.

Ngay sau bài mở màn chiến dịch ném đá Phạm Duy của Hội
nhạc sĩ Việt Nam do nhà báo nhạc sĩ Nguyễn Lưu làm tiên phong,
đã đến lượt quân đỏ xuất tướng bằng bài viết <a
href="http://antgct.cand.com.vn/vi-vn/nhanvat/2009/5/52937.cand">"Nhạc
Phạm Duy và những điều cần phải nói"</a> của Khánh Thi
trên tờ <em>"An ninh thế giới"</em> số tháng 4-2009 của Trung
tướng công an Hữu Ước. Nhà báo Khánh Thy ghi lại sự phản
ứng rất tức giận của ba nhạc sĩ cây đa cây đề trong
nước, xin trích vài đoạn sau:

<blockquote><strong>Nhạc sỹ - NSND Trọng Bằng</strong> – nguyên
tổng thư ký (tức chủ tịch) Hội nhạc sĩ Việt Nam
<div class="boxright200"><img
src="http://www.cand.com.vn/Uploaded_ANTGCT/thanhbinh1/7_trongbang93.jpg"
/></div>
<em>Tôi có đọc trên báo thấy có nhiều lời tâng bốc cũng
hơi là lạ, không quen.</em>

<em>Dư luận chúng ta hơi dễ dãi và nhẹ dạ. Nhưng vấn đề
là Phạm Duy phải tỉnh táo. Vì ông hoàn toàn hiểu ông là ai,
quá khứ đối với dân tộc của Phạm Duy là một tội lỗi.
Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã
tham gia cách mạng, vì thế ông không thể nào so sánh với nhạc
sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có
trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là
một người toàn diện, và ông Văn Cao còn biết tôn trọng
những người nhạc sỹ đàn em đi vào con đường âm nhạc bác
học, một người rất khiêm nhường biết mình, biết ta. </em>

<em>Giả sử có một nhạc sỹ X, Y, Z nào đó hỏi: Khi chúng tôi
đi đánh Mỹ giải phóng dân tộc thì ông làm gì? Chắc chắn
rằng nếu là người hiểu biết đều hiểu rõ khi đó ông là
tác giả của các bài hát chống lại cách mạng, chống lại
nhân dân, chống lại công cuộc giải phóng dân tộc. </em>

<strong>NS Phạm Tuyên</strong>
<div class="boxleft200"><img
src="http://www.cand.com.vn/Uploaded_ANTGCT/thanhbinh1/7_phamtuyen93.jpg"
/></div>

<em>Bởi lẽ tìm tòi trong âm nhạc của Phạm Duy cũng chỉ có
hạn thôi, trong khi đó tìm tòi về mặt sáng tạo âm nhạc ở
trong nước ta có rất nhiều tài năng, nhiều khả năng.</em>

<em>Ngay vấn đề đem âm nhạc phục vụ cho sự nghiệp cách
mạng thì làm thế nào mà so sánh nổi với Văn Cao hay bất cứ
một nhạc sỹ nào tham gia cách mạng. Sự đóng góp của nhạc
sỹ Văn Cao rất phong phú, bây giờ được ghi nhận là người
có đóng góp lớn cho đất nước và âm nhạc Việt Nam.</em>

<em>Tôi chỉ có một suy nghĩ nhỏ, chúng ta chúc cho ngày trở
về của nhạc sỹ Phạm Duy là một sự trở về của lá rụng
về cội. Còn đánh giá về con người, nhất là đánh giá về
tác phẩm thì phải rất thận trọng, công bằng và đúng bản
chất, một phần nào đó phải có giới hạn. Đừng chạy theo
thị hiếu, theo cơ chế thị trường mà quá đề cao sự đóng
góp của nhạc sỹ Phạm Duy, như vậy mới xứng đáng với
lịch sử, với những người đã đổ máu xương cho đất
nước, cho dân tộc được có ngày hôm nay.</em>

<strong>NS Hồng Đăng</strong>

<div class="boxright200"><img
src="http://www.cand.com.vn/Uploaded_ANTGCT/thanhbinh1/7_hongdang93.jpg"
/></div>

<em>Nhưng gần đây, báo chí lại rộ lên về những chương
trình của Phạm Duy. Tôi cũng nghe rất nhiều người phàn nàn
là tác phẩm của Phạm Duy như thế mà báo chí tâng bốc, đề
cao đến mức y như là nhân vật số một của âm nhạc Việt
Nam hiện nay, và là người nhạc sỹ kỳ tài. Điều ấy là vô
lý, như thế không đúng, huống gì lại xem như người có công
lớn (?!).</em>

<em>So sánh một cách thẳng thắn, những bài hát của Phạm Duy
có một vài bài công chúng thích và không phải bài nào công
chúng cũng thích.</em>

<em>Trong lúc ấy chúng ta có những tên tuổi lừng lẫy từ Đỗ
Nhuận, Văn Cao, Lê Yên, Nguyễn Đức Toàn, Huy Du, Hoàng Vân, Lưu
Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, và còn rất nhiều người khác
đã gắn bó với những ngày gian khổ, thiếu thốn cùng cực
của đất nước chỉ để góp một chút gì của mình cho cuộc
chiến tranh vệ quốc.</em>

<em>Từ ngày anh đi, anh Duy ạ, nền âm nhạc của chúng ta đã
khác trước nhiều lắm. Từ một đội ngũ thưa thớt thời
của anh, giờ đây không biết bao nhiêu tên tuổi nổi lên một
cách xứng đáng, có hiểu biết, có tìm tòi, khác xa thời anh
bỏ khu III, khu IV mà đi. Tất nhiên anh Phạm Duy có thể kiêu
một tý cũng chẳng sao, (thói thường mà)! Nhưng những người
hướng dẫn dư luận có lẽ nên nghĩ kỹ một tí, để khách
quan hơn, công bằng hơn. Còn riêng một chi tiết nhỏ về chuyên
môn: Các anh em nhạc sỹ sau này khai thác dân ca vào sáng tác
mới giỏi hơn anh nhiều lắm. </em>

<strong>Khánh Thy</strong>

Nguồn: <a href="Antgct.cand.com.vn/vi-vn/nhanvat/2009/5/52937.cand">An
ninh thế giới</a></blockquote>

Thiết nghĩ, những phát biểu, những phản ứng đầy ghen tức,
đố kỵ rất cảm tính, thiếu lý tính của ba nhạc sĩ trên sau
đêm nhạc rất huy hoàng của nhạc sĩ Phạm Duy diễn ra trong
nhà hát lớn Hà Nội cuối tháng 3/2009, sẽ mãi mãi là vết
nhọ trên gương mặt âm nhạc của ba vị này, không cách gì
gột sạch.

Điều tôi băn khoăn là sao nhạc sĩ Phạm Tuyên (con út cụ
thượng Phạm Quỳnh, người từng bị Việt Minh thủ tiêu sau
Cách mạng tháng tám 1945) một người điềm đạm, chín chắn,
một trí thức con dòng cháu giống, danh gia vọng tộc, sao lại
đi phát ngôn những lời ghen ăn tức ở, ganh tài lộ liễu hơi
bị tầm thường với nhạc sĩ Phạm Duy thế? Xưa nay, tôi từng
quý mến anh Phạm Tuyên (người đã phổ nhạc bài thơ thiếu
nhi <em>"Mèo đi guốc"</em> của tôi, cũng như nhạc sĩ Nguyễn
Lưu, người cũng đã từng phổ nhạc bài thơ Kôn Tum của tôi
tức TMH)

Chính ra, nhạc sĩ Phạm Tuyên - người có nhiều nét tương
đồng hoàn cảnh với nhạc sĩ Phạm Duy, hơn ai hết phải biết
cảm thông với vị nhạc sĩ <em>"ba chìm bảy nổi chín lênh
đênh"</em> do các trào lưu chính trị xô đẩy suốt mấy chục
năm này, sao lại đi ném đá vào người có số phận éo le như
mình thế? Phạm Tuyên đi theo cách mạng bằng mặc cảm tự ti
đầy mình, nhục nhã vô hạn với một lý lịch xấu nhất
nước: con đại phản động (Phạm Quỳnh) bị cách mạng xử
bắn, đã phải nhún nhường làm thân phận con sâu cái kiến,
đấm ngực ăn năn tội bằng các bài hát <em>"yêu đảng
vượt chỉ tiêu trên giao"</em> suốt mấy chục năm mới
được vào đảng…Nhưng thôi, chúng tôi không nói nữa, vì anh
Phạm Tuyên còn cả nghĩ hơn tôi nhiều…

Văn hào nước Áo gốc Do Thái Stefan Zweig (1881-1942), người đã
cùng với vợ là bà Lotte tháng 2 năm 1942 tại Rio de Janeiro, đã
làm cuộc tự tử chính trị, bằng cách hai ông bà tự nguyện
chết trên ghế điện trong tâm trạng cô đơn tuyệt vọng, để
phản đối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai vô nhân đạo do
Hítle gây ra, đã từng có câu nói nổi tiếng: <em>"Thân phận
con người trong thế kỷ hai mươi là thân phận con người chính
trị"</em>.

Ở Việt Nam, ngót 70 năm qua, không chỉ nhạc sĩ Phạm Duy mà
đến con kiến cũng phải mang thân phận chính trị. Từng con
người Việt Nam mang thân phận bao cát treo lủng lẳng để các
tay boxe chính trị thi nhau đấm như mưa trong các cuộc tập
dượt đấu quyền anh cách mạng, quyền anh chiến tranh…

Phạm Duy mang thân phận bao cát treo lủng lẳng trước những cú
đấm tập dượt trời giáng của các tay quyền anh chính trị
từ cả hai phía đỏ và xanh, khiến ông bị xô dạt từ bờ
chính trị này sang bờ chính trị khác mà không sao chủ
động…

Các nhà <em>"bới móc học"</em> từng cho xem tấm ảnh Phạm
Duy mặc bộ đồ bà ba đen của một chiêu hồi viên đứng trên
nền nhạc <em>"Giọt mưa trên lá"</em> để công bố tin chấn
động thế giới rằng, tay "<em>tắc kè chính trị</em>" này
từng chống cộng khét tiếng đấy à nha…

Có thể trong cuộc đời riêng, vì hoàn cảnh sống đưa đẩy
tới chân tường, bắt buộc Phạm Duy phải bị chính trị hóa,
nhưng âm nhạc của ông, tuyệt đại đa số các bài hát hay
nhất không hề bị chính trị hóa. Có thể ông đã phải mặc
bộ đồ bà ba đen của viên chức trong bộ chiêu hồi, nhưng
bài hát <em>"Giọt mưa trên lá"</em> của ông là một kiệt
tác âm nhạc không hề phục vụ chính trị, rất khác các bài
hát của mấy nhạc sĩ vừa ném đá ông trong chế độ miền
Bắc, luôn luôn lấy âm nhạc phục vụ chính trị làm mục
đích…

Âm nhạc Phạm Duy đạt được giá trị muôn đời vì đã
vượt lên trên các đối kháng chính trị nhất thời. Ấy là
cái khác nhau một trời một vực giữa Phạm Duy và Phạm Tuyên
vậy.

Nếu cứ lấy lăng kính đạo đức, lăng kính chính trị để
soi lên cuộc đời các ông to bà lớn của cả hai phía quân xanh
quân đỏ, chúng ta đều chỉ nhìn thấy những âm bản thê
thảm mà thôi. Lấy lăng kính chính trị, lăng kính đạo đức
ra soi mói cuộc đời riêng của Phạm Duy, rồi phủ nhận sự
đóng góp vô cùng to lớn cho dân tộc, cho Tổ Quốc Việt Nam
bằng âm nhạc yêu nước, yêu con người, yêu nhân loại hết
cỡ của ông, như hai phía của cực đoan chính trị vừa hùa
nhau ném đá ông kể trên, thiết nghĩ là một việc làm thiếu
lương thiện.

Trong bộ sách hồi ký đồ sộ của mình, Phạm Duy cũng thừa
nhận ông có tài, có tật, ông cũng như ai tham sân si, cũng ăn
chơi hút sách cờ bạc…trai gái; nhưng không có rượu chè bê
tha à nha. Vụ <em>"ăn chè nhà Bè"</em> là vụ báo chí chơi
xỏ ông, bịa đặt thêm mắm thêm muối để đưa tin rẻ tiền
cốt bán báo. Chẳng nhẽ, ông không có quyền mời ca sĩ Khánh
Ngọc (một bên là dâu, một bên là rể của đại gia đình họ
Phạm) đi quán café để bàn chuyện chuyên môn giữa nhạc sĩ
và ca sĩ hay sao?

Những người ném đá Phạm Duy thường cho ông là người mục
hạ vô nhân, khinh người, khinh đồng nghiệp hơn mẻ. Trong hồi
ký của mình, Phạm tiên sinh đã nhiều lần cám ơn các nhạc
sĩ đã mở đầu nền tân nhạc Việt từ Nguyễn Văn Tuyên
đến Đặng Thế Phong. Có cơ hội là ông tìm cách ca ngợi
đồng nghiệp. Trong bài hát <em>"Yêu tinh tình nữ"</em> có
câu hát nguyên văn như sau: <em>"Yêu tinh tình nữ thường hát
cho tôi nghe bài ca tiền chiến của Đặng Thế Phong hay Văn Cao
tuyệt vời".</em>

Phạm Duy viết về Văn Cao trong hồi ký:

<blockquote><em>"Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao
tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc
mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có
cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục,
cu cậu cũng theo tôi mà xổ chữ nho. Nhưng Văn Cao bản tính
lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa
trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn
trẻ, có lần say thuốc ngă vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện
rượu rất nặng."</em></blockquote>

Trong hồi ký Thời Cách mạng kháng chiến của Phạm Duy, ông
viết:

<em>"Bài Trường ca Sông Lô của Văn Cao là một tác phẩm
vĩ đại. Văn Cao luôn luôn là một người khai phá và là cha
đẻ của loại Trường Ca"</em> (Cali, 1989, tr.121)

Con tàu đất nước hôm nay dường như đang mất thắng, có cơ
đâm vào chân tường diệt vong bởi nạn nội xâm và giặc
ngoại xâm đe dọa, nơi đời sống tâm hồn dân tộc đang bị
tha hóa cực độ, gần như các giá trị tinh thần tốt đẹp
của dân tộc thời Thơ Mới, thời văn chương Tự lực văn
đoàn đang có cơ sụp đổ, thì việc xuất hiện lại những
bài hát đầy nhân bản của Phạm Duy trong nền nhạc Việt hôm
nay, hình như đang cho chúng ta cái cơ hội mong manh để hi vọng.

Phạm Duy, tượng đài lớn nhất của nền tân nhạc Việt Nam
đang cùng các tượng đài Văn Cao, Trịnh Công Sơn …sừng sững
dưới vòm trời văn học nghệ thuật dân tộc, cùng các tượng
đài thi ca xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…sẽ
mãi mãi trường tồn tới muôn vàn mai hậu .,.

Sài Gòn ngày 07-01-2013

<strong>Trần Mạnh Hảo</strong>






***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130107/pham-duy-con-do-noi-buon), một số
đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời độc
giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận
có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng
dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét