Đinh Xuân Quân - Đọc toàn bộ Bên Thắng Cuộc: "Sự Thật sẽ giải phóng con người"

Tiến sĩ Đinh Xuân Quân

<strong>LTS:</strong> <em>TS Đinh Xuân Quân là một kinh tế gia về
phát triển và tổ chức cơ chế (governance). Ông đã sống tại
Việt Nam sau 1975, đã bị tù cải tạo, vượt biển tìm tự do.
Và đặc biệt đã có dịp về làm việc tại Việt Nam trong
chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) nhằm giúp
cải tổ hành chánh và kinh tế từ năm 1994 đến 1997. Đó là
một dịp rất tốt để Ts Quân hiểu bối cảnh và tư duy của
lãnh đạo CSVN vào lúc đó.</em>

Trước 1975 ông làm cho Quỹ Phát Triển Kinh Tế Quốc Gia và tham
gia vào Nhóm kinh tế hậu chiến thuộc Bộ Kế Hoạch của VNCH.
Ông là GS Kinh tế tại Đại Học Luật và ĐH Minh Đức. Cho
đến nay ông đã làm chuyên gia cố vấn cho trên 20 nước trên
thế giới, kể cả gần đây làm cố vấn kinh tế - hành chính
cho Phủ TT Iraq và Phó TT tại Afghanistan dưới sự bảo trợ
của World Bank, UNDP và USAID. Ông cũng tiếp tục làm GS tại
nhiều ĐH mà ông có nhiệm sở.

<center> *</center>

Quyển "Bên Thắng Cuộc" số 1 của Huy Đức / [Published by
OsinBook 2012 - Copyright 2012 by Huy Đức & OsinBook 2012 trên Amazon]
gồm hai phần và 11 chương, "Bên Thắng Cuộc" cuốn 2 cũng gồm
hai phần và 11 chương, cả hai cuốn 1&2 gộp lại dày 680 trang.

Hôm nay chúng xin có một số nhận xét về "Bên Thắng Cuộc"
cuốn 2, nội dung cuốn sách (tiếp theo cuốn 1) như sau:

<strong>Phần III gồm:</strong>

<strong>Chương 12:</strong> Tướng Giáp– Tại sao có vụ án Năm
Châu – Sáu Sủ nhằm hạ bệ tướng Giáp – Vai trò thực sự
của tướng Giáp trong cuộc chiến tranh 1955-1975 như thế nào?
Vì sao có vụ Maddox và vụ án "Chống đảng" năm 1967?

<strong>Chương 13:</strong> Cởi Trói Thời kỳ trăng mật của TBT
Nguyễn Văn Linh, vai trò của ông trong việc mở ra một không
gian tự do hơn cho báo chí, văn nghệ; xét lại vụ "Nhân Văn
Giai Phẩm".

<strong>Chương 14:</strong> Lựa Chọn – Việt Nam có một cơ hội
để cải cách chính trị và chuyển quyết liệt nền kinh tế
sang thị trường. Nhưng sự sụp đổ của Liên Xô đã làm cho
Hà Nội hoảng sợ. Điều này khiến cho việc cải cách cả về
chính trị và kinh tế bắt đầu từ thập niên 1990 trở nên
nửa vời.

<strong>Chương 15:</strong> Linh – Kiệt – Thực chất mối quan
hệ của ông Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt là gì? Vì sao ông
Linh đưa ông Đỗ Mười lên làm Thủ Tướng năm 1988, thay Trần
Xuân Bách, bài ông Kiệt?
<strong>
Chương 16:</strong> Đa Nguyên – Trước những diễn biến trong
nước và Đông Âu, ông Nguyễn Văn Linh nhanh chóng bộc lộ con
người bảo thủ của ông: siết lại báo chí; cách chức Trần
Xuân Bách; bắt Dương Thu Hương và những người bất đồng
chính kiến khác.

<strong>Chương 17:</strong> Kinh tế thị trường – Đông Dương
đã từ một chiến trường trở thành thị trường như thế
nào? Những chuyển động trong xã hội sau khi chấp nhận kinh
tế thị trường. Cách mà chính phủ VN và người dân tiếp thu
các kiến thức về kinh tế thị trường.

<strong>Phần IV: </strong>Tam Nhân

<strong>Chương 18:</strong> Tam quyền không phân lập – Tranh cãi
và tranh chấp chính trị trong quá trình hình thành Hiến Pháp
1992.

<strong>Chương 19:</strong> Tam nhân không phân quyền – Cho dù
không chấp nhận tam quyền phân lập nhưng quyền lực nhà
nước trong thập niên 1990 cũng có "check and balance" bởi sự
phân quyền của tam nhân: Đỗ Mười, Lê Đức Anh và Võ văn
Kiệt.
<strong>
Chương 20:</strong> Đại Hội 8 - Công cuộc chuyển giao thế hệ
nửa thập niên 1990 diễn ra đầy kịch tính do những lãnh đạo
lão thành chưa thực lòng muốn từ bỏ quyền lực.

<strong>Chương 21:</strong> Lê khả Phiêu và ba Ông Cố Vấn. Ông
Lê khả Phiêu là người thế nào? Ai đưa ông lên và vì sao ông
bị hạ bệ trong Đại Hội 9?

<strong>Chương 22:</strong> Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa: Ý
thức hệ được sử dụng như là một quyền lực chính trị
đã cản trở những cải cách kinh tế theo định hướng kinh
tế tế thị trường. Tiến trình tư nhân hóa khu vực kinh tế
quốc doanh gặp khó khăn và định hướng xã hội chủ nghĩa
tiếp tục ảnh hưởng đến "tương lai" dân tộc.

<center>*</center>

Thời gian qua đã có nhiều nhận xét khen và chê về quyển 1
"Bên Thắng Cuộc". Có một số bài hay, ví dụ bài của Vũ
Ánh, một nhà báo lão thành từ thời VNCH; hay bài của Đồng
Phụng Việt phổ biến trên mạng gần đây. Đây là những tác
giả có cái nhìn hiểu biết và đứng đắn, không có tính cách
a dua của một số người bị khích động bởi tình cảm cực
đoan hay vì những động lực riêng tư.

Chúng tôi nghĩ rằng ta cần biết lịch sử cận đại VN, nhất
là quá trình "Đổi Mới" kinh tế từ bên trong và "những
cơ hội bỏ lỡ" trong quá trình này. Ngày nay bao nhiêu tài
liệu được giải mật về phía Mỹ đã cho thấy những bước
đi chiến thuật và chiến lược của Mỹ và của VNCH, nhưng ít
ai biết về các sự kiện hay các suy nghĩ về nhiều khía cạnh
khác nhau của miền Bắc trong thời gian đó. "Bên Thắng
Cuộc" đã cho thấy bao nhiêu dữ kiện lịch sử cận đại
Việt Nam khi tác giả cố gắng có cái nhìn cân bằng, trung
thực, mặc dù không phân tích. Đây là một sự cố ý của tác
giả Huy Đức, khéo léo bày ra một bữa cỗ đầy sự kiện,
đầy thông tin về quy trình lấy các quyết định (government and
party decisions) ảnh hưởng đến tương lai Việt Nam, và dành sự
đánh giá cho độc giả về những gì đã xẩy ra trên mảnh
đất chữ S sau 1975. Quyển sách này sẽ là một "mỏ tài
liệu" vừa quý giá vừa rất thích thú cho các học giả, các
nhà khảo cứu, các chuyên gia hành chính công (về quy trình
quản lý việc thay đổi – management of change), và nhất là các
chuyên gia ngoại giao thế giới tìm hiểu và nghiên cứu về
Việt Nam.

Quyển 1 có 3 chương (chương 3, 9 và 10) và quyển 2 cũng có 3
chương (14, 17 và 22) có chủ đề về kinh tế. Quyển 1 trình
bày "quy trình phá hoại kinh tế miền Nam" qua việc áp đặt
một cách máy móc guồng máy "tập trung bao cấp" vào kinh tế
(xin xem bài trên Diễn Đàn Thế Kỷ: www.diendantheky.net.) [Các
"Chiến dịch "Đánh tư sản" -"Chiến dịch X-2", việc
đổi tiền (X-3), việc đánh"Gian thương" hay việc "Cải
tạo công thương nghiệp tư doanh."] Hậu quả các chính sách
kinh tế "tập trung bao cấp" là cuộc sống của những
người dân trở nên trăm bề khó khăn.

Tác giả kể lại một cách bình thản một số sự kiện đã
đưa đến sự phá hoại kinh tế miền Nam qua việc các chính
sách "XHCN" được áp dụng một cách máy móc – nếu không
nói là mù quáng trong chủ trương cải tạo công thương nghiệp
tại miền Nam. Sau đó là phải tìm các giải pháp giải quyết
khó khăn kinh tế qua các vụ xé rào.

Quyển 2 nói về "quy trình sửa đổi – tranh cãi về kinh tế
thị trường" mà rốt cuộc là theo "kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN". Một cuộc Đổi Mới nửa vời mà tai hại
còn kéo đến bây giờ, năm 2013.

Chương 14 kể lại quá trình lựa chọn trong tập thể Bộ Chính
Trị về việc cải tạo kinh tế đi từ chỗ "cởi trói" các
trạm kiểm soát trên cả nước. "Theo nhận thức của những
người cộng sản, đánh đổ giai cấp tư sản là bước đi
tất yếu, là nhiệm vụ của "cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân". Khi đối đầu với thực tế ĐCSVN phải tìm
cách giải quyết, nhưng tư duy lãnh đạo vẫn coi trọng ý thức
hệ - cố "bám vào XHCN". Nhờ vậy khi giới lãnh đạo đi
tìm giải pháp, lần đầu tiên người ta thấy các chuyên gia
được tham khảo ý kiến. Nó cũng cho thấy tại sao các chính
sách về nông nghiệp đã thất bại và phải "cởi trói"cho
nông dân qua nghị quyết 10.

Chương 16 nói về Đa Nguyên kể lại quá trình tranh đấu trong
nội bộ về "đa nguyên đa đảng" trong bối cảnh các thay
đổi tại Đông Âu, Nga và Trung Quốc, các sự kiện đã khiến
ông Nguyễn Văn Linh (NVL) tháo lui trong tiến trình cải cách.
Chuyến thăm Gorbachev và thời gian nằm nhà thương tại Đông
Đức đã làm cho NVL sợ, khi trở về nước đã siết lại báo
chí; cách chức Trần Xuân Bách một nhà chính trị nói công khai
về đa nguyên trong đảng; bắt Dương Thu Hương và những
người bất đồng chính kiến khác. Các tranh chấp tư tưởng
– trong đó có nhiều vận động "cởi mở" của Trần Xuân
Bách làm cho NVL lo lắng. Ý của ông Trần xuân Bách là 1) Cần
mạnh dạn thực hành chính sách kinh tế theo kiểu chính sách
kinh tế mới của Lenin (gọi là kinh tế thị trường với sự
tham gia của mọi thành phần kinh tế; 2) Theo "kinh tế định
luận" của Marx thì một khi đã đa nguyên kinh tế thì tất
yếu sẽ dẫn đến đa nguyên chính trị, và 3) Thị trường và
đa nguyên là những thành tựu của nhân loại. Ông Trần Xuân
Bách vì muốn thay đổi quá sớm cho nên bị kỷ luật [điều
chú ý trong XHCN khi chồng bị "hạ bệ" thì vợ cũng phải
chịu trăm điều nhục – bị hạ tầng công tác, cho ra vỉa he
giữ xe ngoài cửa cơ quan, đi làm giúp việc...].

Chương 17 nói về những bước đường đi đến Thị trường,
trong đó có cả việc thương thuyết giữa Mỹ và VN về chương
trình HO giúp cho hơn 380,000 cựu quân nhân cán chính VNCH sang
Mỹ, mà chuyến đi đầu tiên vào ngày 13/1/1990 sau bao nhiêu vận
động. Chương này đề cập con đường dài đi từ tình trạng
khép kín đến chỗ cởi mở hơn, từ việc in lịch hoa hậu VN
cho đến "xì-căn-đan" Thanh Hương mà chúng ta gọi là
"pyramid scheme" làm chấn động Việt Nam, cho đến phong trào
học tiếng Anh. Sau đó là những thành tựu đầu tiên của
việc đoạn tuyệt với nền "kinh tế bao cấp". Kinh doanh tư
nhân dần dần được cho phép, và trong thời gian này người ta
chứng kiến vai trò ngày càng nổi bật của UNDP, của các cơ
quan quốc tế giúp Việt Nam mở cửa qua việc gởi nhiều sinh
viên đi du học, các phái đoàn tham quan nước ngoài, những dự
án "tăng trưởng quản lý kinh tế," v.v...

Quyển sách cũng cho thấy đời tư của một số lãnh đạo CSVN.
Sách đưa ra những dữ kiện về con người của Lê Duẩn, Đỗ
Mười, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu, Phan Văn
Khải, Nguyễn Tấn Dũng, vv., những người có ảnh hưởng đến
các quyết định về tương lai Việt Nam. Nó cho thấy Đảng
Cộng Sản là một tổ chức được quản lý bởi một số
người rất nhỏ, rất quyết đoán và hầu như không cần đếm
xỉa gì đến khía cạnh chuyên môn. Hậu quả là đảng đã
phạm các lỗi lầm do sự kém hiểu biết của họ về thế
giới bên ngoài, đã mang lại biết bao nhiêu tai họa cho Việt
Nam. Sách thuật lại trong cuộc gặp TBT NVL và Đỗ Mười (1989)
thì ông Linh nói "Mất chủ nghĩa xã hội tới nơi rồi còn
nói về thành tích." Việc này cho thấy các lãnh đạo còn
rất quyết đoán theo quán tính, chưa thoát khỏi não trạng ý
thức hệ. Trong một dịp khác, sách này thuật lại các cuộc
gặp gỡ giữa Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân (1999) và trách
nhiệm trong việc thảo thuận về thác Bản Giốc, Hữu Nghị
Quan, Bãi Túc Lãm và điểm cao 1509. Ngoài ra hai bên còn nói về
Biển Đông. Trong cuộc gặp này Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh
Cầm bị bỏ rơi. Theo ông Nguyễn Văn An thì "Đảng ta sai lầm
về cán bộ rất nhiều". Ngay từ Đại Hội VI chọn ông Nguyễn
Văn Linh là không đúng - ông không phải là người đổi mới.
Ông Linh chọn ông Đỗ Mười cũng không đúng. Ông Mười chọn
ông Lê Khả Phiêu cũng không đúng và đến khi chọn ông Nông
Đức Mạnh thì quá sai. Về sau ông Nguyễn Văn An nhận ra vấn
đề của ĐCSVN là "lỗi hệ thống."

Nói về các "lãnh đạo tù nhân ý thức hệ" thì ngay phần
mở đầu sách, tác giả đã cho thấy nhiều người trí thức
trong guồng máy lãnh đạo thấy vấn đề, có thiện chí, cố
gắng tìm các giải pháp khi đất nước bế tắc. Nói về
chuyên môn hành chính thì "cách quản lý đóng" của ĐCSVN
dựa trên người "đỏ hơn chuyên" đã mang tai hại cho đất
nước và sẽ khó chữa vì dân chúng không được tham gia đóng
góp ý kiến vào các quyếtđịnh.

Chương 21 quyển sách nói về quy trình thương thuyết – bở
lỡ mất cơ hội sớm ký BTA và vào WTO trước Trung Quốc. Bill
Clinton đã gặp lãnh đạo VN và sẵn sàng ký từ 1999 trong khi
vì "bị lệ thuộc vào 16 chữ vàng" cho nên mãi đến 2006
Việt Nam mới gia nhập WTO. Cuộc trao đổi giữa Bill Clinton và
ông Lê Khả Phiêu cũng đầy thú vị - như là một cuộc nói
chuyện giữa người trên cung trăng. Quá trình trao đổi giữa
các lãnh đạo – bộ ngoại giao, BCT cho thấy nhiều việc hỏng
hay bị bỏ lỡ chỉ vì lãnh đạo Việt Nam "mù quáng – nô
lệ về tư duy", vẫn tưởng anh em XHCN Trung Quốc tốt với
mình. Dựa vào thông tin của Tổng cục II nói Trung Quốc "sẽ
phản ứng rất xấu" nếu VN ký Hiệp định thương mại. Trong
khi Việt Nam không hiểu tầm quan trọng của giao dịch quốc tế
thì Trung Quốc đã tận dụng tình trạng thụ động vụng về
của kẻ đàn em để vào WTO sớm hơn. Nhiều người hiểu biết
(thường thường thuộc Bộ Ngoại Giao vì có dịp tiếp xúc
nhiều với bên ngoài) đã tỏ ra "tiếc đứt ruột." [Đọc
đến đoạn này người viết cảm thấy rất thấm thía, vì
nhớ đến kinh nghiệm của bản thân khi được UNDP đưa vào
làm việc giúp Việt Nam cải cách Hành chính và tân tiến hóa
guồng máy chính quyền: lúc đó VN hoàn toàn có thể qua mặt TQ
để vào WTO sớm, nhưng lãnh đạo VN cứ chần chờ không dám
quyết định. Lúc đó người viết không biết là Việt Nam đã
bị "16 chữ vàng" chi phối, đã bị chiếc "cùm tư
tưởng" của TQ tròng vào đầu rồi!]

Trong một bài viết cho viện ISEAS - đại học Singapore xuất
bản, chúng tôi đã chứng minh là đến 1972, không ai của
"nhóm đỉnh cao trí tuệ"của Bộ Chính Trị tại Việt Nam
có một mảnh bằng Đại Học. Hậu quả là việc quản lý yếu
kém – các lãnh đạo có "Mác xít nhưng trình độ quá
thấp" [đỏ hơn chuyên]. Tình trạng này đã mang nhiều tai
hại trong việc quản lý đất nước, nhất là về kinh tế,
đặc biệt từ khi có "16 chữ vàng" với Trung Quốc" thì mọi
việc hầu như bị TQ kiểm soát. Tác giả Huy Đức cho thấy là
Việt Nam đã bỏ lỡ quá nhiều cơ hội tốt để Đổi mới tư
duy kinh tế - mang đất nước tiến đến giàu mạnh vì lãnh
đạo không có tầm nhìn (vision), ít học, mà bị "tư duy lỗi
thời kiềm kẹp" (Xem chương 21).

Chương 22 nói Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa sau những bước
đi đến Thị trường. GS Đoàn Xuân Sâm hỏi ông Đỗ Mười:
"Anh làm thủTướng có 60 triệu dân hay chỉ cho 6 triệu cán bộ
quốc doanh… Quốc Hội bầu anh lên đứng đầu chính phủ để
lo cho toàn dân đâu phải cho lo cho mấy triệu công nhân quốc
doanh." Đỗ Mười nói "Các anh tìm cho tôi phương án cứu
quốc doanh" đó cũng là một lệnh của NVL. Tại Đại Hội
giữa nhiệm kỳ của đảng 1994, ông Đỗ Mười đọc diễn văn
về 4 nguy cơ: tụt hậu, chệch hướng, tham nhũng và diễn tiến
hòa bình. Cái đuôi "định hướng XHCN" được gắn vào kinh
tế thị trường phản ánh "tương quan lực lượng" giữa hai
sự việc trước đây xem ra không thể sống chung với nhau, là
thị trường tự do và chủ nghĩa xã hội. Nói tóm ông Đỗ
Mười còn có ảnh hưởng quyết định trong việc duy trì vai
trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước. Nhiều đoàn Việt
Nam đã đi tham quan nhiều nơi, trong đó có Singapore. Sau hơn hai
thập niên đổi mới, so với các quốc gia mà giữa thập niên
1950 từng có mức độ phát triển tương đương, Việt Nam vẫn
tụt hậu hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm so với họ.
Nhớ thời kỳ câu khẩu hiệu "cả nước tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên XHCN" được hô hào mạnh nhất
thì đó cũng đúng là thời điểm Việt Nam nhanh chóng trở
thành một quốc gia kiệt quệ, dân chúng lầm than, hàng triệu
người phải bỏ nước ra đi.

Hai quyển Bên Thắng Cuộc 1 & 2 nói lên được cái thâm ý của
tác giả. Huy Đức bộc bạch: "Tôi không nghĩ là mình nằm
trong phạm vi điều chỉnh các qui định đó. Tôi ý thức
được những việc gì mình đang làm. Sự thật không chỉ giúp
chúng ta tìm ra những phương thuốc đúng để chữa lành các
vết thương cũ mà còn giúp những người đang nắm vận mệnh
quốc gia không vi phạm những sai lầm mới. Không ai muốn hứng
chịu những điều không hay nhưng nếu cứ trú ngụ trong sự
sợ hãi thì sự thật sẽ không bao giờ được nói ra, bạn
ạ!" Việt Nam XHCN lúc nào cũng tìm cách "lấp liếm" khi
nói chuyện với dân và lúc nào cũng bưng bít thông tin. Huy
Đức đã cố nói lên sự thật mà đa số người dân trong
nước không biết, như chính vì các chính sách "duy ý chí"
mà ĐCSVN đã phá nền kinh tế miền Nam, làm nghèo và bóc lột
dân chúng qua những vụ đổi tiền, tranh cãi trong nội bộ về
quy trình cải cách kinh tế và chính trị để cứu vãn tình
thế, vụ Tết Mậu Thân, cần tiếp tục cải cách, đổi mới
kinh tế và chính trị.

Theo chúng tôi, quyển sách này nói lên mục tiêu sâu xa của tác
giả, là: "The Truth will set you free – Sự thật sẽ giải phóng
cho con người". Sống mãi trong sự dối trá, tinh thần con
người được cấu tạo bởi toàn cái giả. Khi biết được
Sự Thật, người ta được giải phóng ra khỏi khối sương mù
giả dối. Quyển sách Bên Thắng Cuộc nhằm mang lại sự thật
cho dân Việt Nam, nhất là khối dân đang ở trong nước, hằng
ngày vẫn đọc vẫn nghe 800 tờ báo và các loại đài, nhưng
tất cả đều đồng ca một điệu, vì được điều khiển
chỉ bởi một tổng biên tập, là đảng CSVN. Trong lời mở
đầu Huy Đức có nói "... chính những người cộng sản cũng
không có điều kiện để hiểu những gì Đảng đã mang đến
cho đất nước này. Những người cộng sản có lương tri chắc
chắn sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm. Không
ai có thể đi đến tương lai một cách thành công nếu không
hiểu trung thực về quá khứ." Ngụ ý quyển sách cho thấy
các giá trị như nhân quyền, tự do về tư tưởng và văn hóa,
tự do tín ngưỡng, ngôn luận, cư trú và về kinh tế v.v.
(những đặc điểm của nền tảng cho chế độ miền Nam) ngày
càng là các đòi hỏi bức thiết của mọi tầng lớp dân chúng
Việt Nam.

Quyển sách cần được đọc nhiều lần vì nó giúp người
đọc có một cái nhìn về chính trường – XHCN nhất là sau
tháng 4 năm 1975. Người Việt Nam có thể nhìn một cách bao quát
và hiểu rõ hơn về những chuyện đã xẩy ra mà "nhà
nước" không muốn họ nghe hay hiểu.

Người đọc quyển sách này tin rằng "The truth will set you free
- Sự thật sẽ giải phóng bạn" là mục đích của tác giả
Huy Đức và điều này sẽ mang nhiều thay đổi tích cực cho VN
vì họ có thể đánh giá lịch sử cận đại với một các
nhìn tổng quát mà ĐCSVN không muốn họ thấy. Quyển sách này
sẽ giúp hai phe (thắng và thua, nói tóm là dân VN) tái khẳng
định sự thật qua những việc đã xẩy ra từ 1975 đến nay.
Vì mù quáng hay ngây thơ theo một chủ nghĩa mà VN đã phải
trải qua bao vấn nạn, bao khó khăn, một kinh tế thịnh vượng
miền Nam bị phá hủy hoàn toàn chỉ vì … "quá ngu xuẩn vì
duy ý chí."

Sống trong lòng chế độ ở Việt Nam mà đề cập tới các sự
kiện viết trong quyển sách này là một điều khó khăn và là
mối đe dọa cho cá nhân Huy Đức. Tác giả, dù được đào
tạo trong một thể chế độc tài, đã tự vượt ra khỏi đủ
loại trói buộc để dũng cảm nói lên các ưu tư chân thật
về những vấn đề của đất nước. Điều đó cho thấy sự
đè nén và dối trá không thể nào đày ải con người lâu dài
mãi mãi, phải có lúc ý thức và lương tri bùng lên để cất
tiếng nói trung thực của mình.

Mong là qua quyển sách này sẽ có sự tái xác định về XHCN và
mạnh mẽ tiếp tục "Đổi Mới" theo kinh tế thị trường,
nhà nước đối sử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế,
chấm dứt việc ưu đãi quốc doanh thối nát kém hiệu quả, và
những nhóm tư bản bè phái (crony capitalism). Phải có quyền
bình đẳng kinh tế trong việc sở hữu các phương tiện sản
xuất, nhất là đất đai (nói là do dân làm chủ tập thể
đất nhưng các quan trong bộ máy nhà nước được giữ quyền
quản lý, đòi lại đất từ người nông dân bất cứ lúc nào.
Việc này tạo ra nạn tham ô, oán hận và phản đối kéo dài).

Văn hào Nga Alexander Solzhenitsyn đã nói trong diễn văn nhận
giải Nobel Văn Chương của ông: "Một lời nói của sự thật
có trọng lượng hơn cả trái đất. One word of truth shall outweigh
the whole world".
Với Sự Thật, dân ta sẽ được giải phóng. Quyển sách này,
như một bước mở đầu, đang làm công việc đó.

Ts. Đinh Xuân Quân

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130113/dinh-xuan-quan-doc-toan-bo-ben-thang-cuoc-su-that-se-giai-phong-con-nguoi),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét