Phạm Hồng Sơn - Tiên Lãng và Nguyễn Mạnh Tường

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1996), trong một phiên họp
của Mặt trận Tổ quốc tại Hà Nội vào ngày 30/10/1956, đã
có <a
href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=4412&rb=0505.">bài
diễn văn phê bình Cải cách Ruộng đất (CCRĐ)</a> và chính
sách xử lý, sửa sai CCRĐ của Đảng Cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN, lúc đó có tên là Đảng Lao động Việt Nam).

Đề cập cụ thể tới biến cố CCRĐ, nhưng Nguyễn Mạnh
Tường không sa vào các chi tiết, vấn đề cục bộ. Ngay từ
đầu, không hề úp mở, Nguyễn Mạnh Tường đã chẩn đoán
xác định trách nhiệm cao nhất về CCRĐ nằm ở sự lãnh đạo
của ĐCSVN, ông nói:

"<em>Chủ yếu tôi sẽ phê phán và truy nguyên các sai lầm trong
Cải cách Ruộng đất, nhưng theo ý tôi các sai lầm này chỉ là
biểu hiện điển hình và bi đát nhất của những thiếu sót
trong sự lãnh đạo của Đảng Lao động…</em>

<em>Tại sao tôi lại tin như vậy? Là vì, không những trong Cải
cách Ruộng đất chúng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng mà cả
trong nhiều khu vực khác nữa. Trong các khu vực này, sai lầm
cũng đã đưa một số người trong quần chúng đến cái chết
thê thảm. Do đó, nếu chỉ cục bộ hóa các sai lầm, chúng ta
không thể rút được bài học kinh nghiệm.</em>"

Có thể do hiểu được tâm lý e ngại của cử tọa khi động
chạm tới ĐCSVN, ông lại mạnh mẽ nêu rõ trách nhiệm đó
một lần nữa: "<em>các sai lầm ta đã mắc trong cuộc Cải
cách Ruộng đất này chỉ là những biểu hiện cực độ của
các sai lầm ta đã phạm, và các sai lầm ấy nêu lên, như tôi
trình bày trên đây, một vấn đề cực kỳ quan trọng là vấn
đề lãnh đạo của Đảng Lao động.</em>"

Sau khi xác định rõ trách nhiệm cao nhất về CCRĐ phải thuộc
giới lãnh đạo của ĐCSVN, Nguyễn Mạnh Tường đề cập tới
các sai lầm có tính kỹ thuật trong CCRĐ, đó là vấn đề pháp
lý, đúng hơn là sự bất chấp pháp lý, coi khinh pháp luật
của những người thực hiện CCRĐ. Với một sự chân thành tha
thiết Nguyễn Mạnh Tường như muốn dốc hết những kiến
thức cơ bản về pháp luật để thuyết phục cử tọa:

"<em>Tôi xin phép nhắc tóm tắt sau đây các nguyên tắc căn
bản mà pháp lý nêu lên để đạt mục đích ấy.</em>

<em>…Một nguyên tắc thứ ba là muốn kết án một người
phải có bằng chứng xác đáng. Phải có nhân chứng là những
kẻ đã mục kích sự phạm pháp và cung khai một cách cụ thể,
rõ ràng, chắc chắn. Một nhân chứng thôi chưa đủ, ít ra cũng
phải có hai nhân chứng cung khai phù hợp với nhau mới được
coi là đáng kể. Cung khai của các nhân chứng phải ăn khớp
với nhau và trong quá trình phạm pháp các tang vật thu được
phải có tác dụng hợp lý, sát hợp với kết quả do cuộc
điều tra mang lại.</em>

<em>Một nguyên tắc thứ tư là thủ tục điều tra, xét xử
phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có
quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình, và khi thiếu điều
kiện nhờ luật sư, khi nào là một trọng tội, Tòa phải cử
luật sư bào chữa không, cho bị can. Trong tất cả, giai đoạn
điều tra ở trình độ công an thẩm vấn trong phòng dự thẩm,
buộc tội trước tòa, quyền lợi của công tố viện ngang với
quyền lợi bị can, nghĩa là nếu công tố viện đưa hết lý
lẽ để buộc tội, bị can đưa hết lý lẽ để minh oan. Cuộc
đấu lý diễn ra trong tất cả quá trình điều tra, truy tố,
xét xử giữa công tố viện và luật sư. Các vị thẩm phán
ngồi xét xử phải là vô tư, đứng giữa để theo rõi cuộc
đấu lý diễn ra dưới mắt mình. Như thế mới nhận định
đúng và xử công minh. Toà án xét xử không chịu lệnh của ai
trong khi xét xử, chỉ biết xét xử theo lương tâm của mình và
căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ, sau khi nghe hai tiếng chuông
buộc tội và gỡ tội. Người thẩm phán phải được đủ
đảm bảo để làm nhiệm vụ của mình mà không sợ ai khiển
trách hay gây khó khăn cho mình được. Khi điều tra thẩm vấn,
tuyệt đối cấm không được dùng phương pháp tra khảo, đánh
đập, hành hạ bị can, mớm cung cho bị can, dọa nạt hay dụ
dỗ hắn. Khi nào có điều nghi ngờ thì bị can được miễn
nghị. Nếu bị kết án thì còn quyền chống án lên tòa trên.
Nếu bị kết án tử hình thì lại còn quyền xin ân giảm
trước vị Chủ tịch Chính phủ. Con người của bị can, trong
tất cả quá trình truy tố và xét xử phải được tôn trọng
triệt để, khi bị can ra trước tòa thì không được xiềng
xích họ và không lúc nào được dùng nhục hình đối xử với
họ.</em>

<em>Theo một nguyên tắc căn bản, không phải vì một người
tác hại cho một người khác mà người ấy phải chịu trách
nhiệm trước hình luật. Tác hại cho ai thì chỉ nêu trách
nhiệm về phương diện dân sự, nghĩa là bồi thường thôi —
của người đã tác hại. Muốn truy tố người ấy để thi
hành hình luật đối với hắn thì phải chứng minh rằng hắn
phạm một tội, nghĩa là phạm vào một điều khoản nào qui
định trong hình luật, và hình luật không bao giờ có tác dụng
đối với quá khứ cả: nếu hành động của một người diễn
ra trong thời kỳ mà hình luật chưa quan niệm là một tội thì
người ấy không thể mang ra truy tố được. Không những bị
can phải phạm một tội đã qui định rồi trong pháp luật, mà
ta lại còn phải xét xem rằng lúc phạm tội ấy bị can có ý
thức, có ý chí phạm pháp hay không, hay là vô tình mà phạm
pháp. Sự đối xử trong hai trường hợp ấy khác nhau…</em>"

Không dừng lại ở những sai phạm kỹ thuật pháp lý, điều
mà có thể nhiều lãnh đạo cao cấp của ĐCSVN lúc đó không
phải không biết, Nguyễn Mạnh Tường đã chỉ thẳng vào sai
phạm cốt lõi của hệ thống chính trị là tính chất phi dân
chủ hay dân chủ giả hiệu. Với con mắt của nhà luật học
từ quê hương của Montesquieu, Nguyễn Mạnh Tường đã điểm
từng bộ phận giả trong hai nhánh hành pháp, lập pháp của
chính thể "dân chủ cộng hòa" giả hiệu, đồng thời kèm
theo những lý lẽ chặn trước những bao biện có thể:

"<em>Chính thể ta thiếu dân chủ như thế nào, ta đã từng
biết. Vai trò của các vị Bộ và Thứ trưởng ngoài Đảng như
thế nào, các vị đó làm được những gì trong Hội đồng
chính phủ, trong các ngành chuyên môn mà các vị ấy phụ trách,
ta không nên đi quá sâu. Ta chỉ cần liếc mắt nhìn qua công
việc làm trong mỗi Bộ, ta chỉ cần nghe tiếng than phiền của
các cán bộ, công chức làm việc trong các Bộ là ta hiểu. Ta
cũng biết rằng chủ trương của Đảng có lẽ không phải như
vậy đâu, nhưng trong thực tế công tác, mỗi anh em ta tiếp xúc
với các vị Bộ hay Thứ trưởng ngoài Đảng, đều nhận thấy
rằng quyền hành của các vị ấy hình như không phải là quan
trọng cho lắm. Nhận định như vậy có lẽ ta lầm đấy. Nhất
định ta lầm. Nhưng dù sao có "dư luận" không ai chối cãi
được. Do đó, nếu chủ trương của Đảng không phải như
vậy thì ít ra Đảng cũng mang trách nhiệm không làm thế nào
để tiêu tan cái dư luận tai hại mà chúng ta thấy tồn tại
từ thời kỳ kháng chiến đến giờ. Nhưng cũng có điều chắc
chắn không ai chối cãi được, là các vị Bộ hay Thứ trưởng
không có trách nhiệm gì trước Quốc hội, trước nhân dân,
chỉ có trách nhiệm trước Chính phủ mà thôi. Chưa bao giờ ta
thấy vị Bộ truởng nào bị lật đổ cả. Phải đợi đến
các sai lầm đặc biệt nghiêm trọng trong Cải cách mới thấy
hai vị Thứ trưởng phải rút lui khỏi Hội đồng Chính phủ.
Các hiện tượng ấy chứng tỏ rằng Chính phủ ta chưa thực
hiện được dân chủ trong khi lập Hội đồng Chính phủ, vì
các vị Bộ hay Thứ trưởng đều được cử hay bị truất,
ngoài sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp (qua Quốc hội) của
quần chúng.</em>

<em>Tình trạng của Quốc hội lại rõ hơn nữa. Mười năm
Quốc hội đã thành lập. Các vị đại biểu Quốc hội còn
phản ảnh được ý nguyện của quần chúng không, quần chúng
có tín nhiệm ở Quốc hội nữa không, đó là một vấn đề.
Nhưng dù vấn đề ấy ta giải quyết như thế nào đi nữa, có
một điều chắc chắn là một Quốc hội già 10 năm rồi mà
vẫn tồn tại ngoài sự can thiệp của quần chúng, sự lựa
chọn của quần chúng, chứng minh rằng quần chúng 10 năm nay
đã bị truất quyền cử đại biểu của mình rồi. Dĩ nhiên
trong thời kỳ kháng chiến, bầu lại Quốc hội là một điều
không làm được. Và hiện thời, Nam-Bắc bị tạm chia cắt, do
đó sự bầu lại toàn thể Quốc hội cũng là khó khăn. Nhưng
dù sao riêng ở các miền giải phóng này, nếu ta chú ý đến
quyền người dân cử đại biểu của họ thì nhất định ta
phải cho phép người dân bỏ phiếu rồi. Từ khi hòa bình trở
lại, 2 năm đã qua, mãi bây giờ trước phong trào quần chúng
đòi thực hiện dân chủ, ta mới nghĩ đến quyền bỏ phiếu
của người dân và bổ sung Quốc hội.</em>

<em>Nào có thế thôi đâu? Ngay cái Quốc hội ta đang có hiện
thời, ta có thực hiện dân chủ với nó không? Chắc chắn là
không. Thỉnh thoảng ta mới họp Quốc hội, và trong các buổi
họp đó ta chỉ thấy Chính phủ đưa ra các báo cáo để Quốc
hội nghiên cứu, xây dựng, hay các chính sách để Quốc hội
tán thành và bổ khuyết. Quyền lập pháp của Quốc hội ở
đâu? Quyền đề ra đường lối, chủ trương trong nội trị,
ngoại giao, quyền nêu trách nhiệm của Chính phủ và các Bộ,
quyền lựa chọn nhân viên trong Hội đồng Chính phủ, bấy
nhiêu quyền, Quốc hội có được hưởng dụng không? Dư luận
quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua
các chính sách mà thôi. Còn như các sắc lệnh hay đạo luật
thì thường thường, quyền thông qua ấy chỉ thuộc ban Thường
trực của Quốc hội. Nếu Quốc hội là tổ chức cao nhất
của quần chúng, đại diện cho quần chúng, thì ta phải khách
quan nhận thấy rằng, với vai trò vô cùng yếu ớt của Quốc
hội hiện thời, quyền dân chủ của quần chúng không được
thực hiện.</em>"

Về Mặt trận Tổ quốc, theo ngôn ngữ ngày nay, là một tổ
chức dân sự mẹ của mọi tổ chức dân sự khác, Nguyễn
Mạnh Tường đã vạch thẳng ra ý đồ của ĐCSVN chỉ muốn
cái tổ chức dân sự đó đóng vai trò làm fan, làm đẹp cho
Đảng:

"<em>Ta thấy khó chịu khi nó thỏ thẻ —chỉ thỏ thẻ
thôi— những lời làm ta một phút chốc tỉnh giấc mộng chủ
quan mà ta trong cấp lãnh đạo đang say sưa. Vì vậy ta chỉ
thường cho phép nó, chỉ khuyến khích nó phụ họa ta, tán
đồng ta với thái độ của đứa con khen hay khi mẹ nó
hát.</em>"

Là một trí thức đầy uy tín về cả chuyên môn lẫn tư cách,
lại đang được ĐCSVN rất quan tâm, dành cho nhiều ưu ái,
nhưng không vì thế mà Nguyễn Mạnh Tường im lặng trước
thực trạng giới trí thức bị hắt hủi, bị biến thành nô
lệ, thành công cụ cho quyền lực của ĐCSVN. Chân tình và chua
xót, ông giãi bày:

"<em>Đại đa số các anh em trí thức nói chung, không mơ ước
các cương vị, công tác lộng lẫy đâu, họ vui lòng nhường
chỗ cho các nhà chính trị, các đảng viên. Họ chỉ thiết tha
đòi hỏi được mang khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của
họ ra phục vụ nhân dân mà thôi. Họ chỉ thiết tha mong muốn
được bảo toàn danh dự trí thức của họ và cái tự do tư
tưởng mà họ quan niệm là cần thiết cho nhân phẩm của
người trí thức mà thôi. Họ đã từng nghe thấy Đảng tuyên
bố: Người trí thức là vốn quí của dân tộc. Nhưng họ cảm
thấy vốn ấy quí quá đến nỗi phải cất nó đi thật kỹ,
giữ gìn nó trong một bán ảnh, một hoàng hôn trường cửu.
Nếu có ai cho rằng tôi nói không đúng, tôi cứ đề nghị
người ấy quay mặt nhìn chung quanh, ở các cương vị công tác
trong chính thể của ta. Có một chỗ nào mà người trí thức
ngoài Đảng nắm được thực quyền không? Tác dụng "hiếu
hỉ" hay "cười gật" thì có, mà lại có nhiều. Nhưng ngay
ở các cương vị ấy, ngoài vai trò hiếu hỉ, cười gật,
người trí thức có một trách nhiệm gì không, có quyền nói
gì làm gì không, quần chúng đã biết và miễn tôi giả
nhời.</em>"

Các biện pháp sửa sai CCRĐ có tính đối phó, mỵ dân, trốn
tội có thể làm hài lòng, thậm chí nức lòng nhiều người
nhưng đối với một người yêu nước nồng nàn lại am tường
chính trị thì không thể. Nhẹ nhàng nhưng dứt khoát, Nguyễn
Mạnh Tường yêu cầu phải sửa lại toàn bộ tinh thần và qui
trình sửa sai:

"<em>Đảng Lao động và chính phủ có nhận thấy cần thiết,
trong chính sách sửa chữa các sai lầm trong Cải cách, phải
"tăng cường chế độ pháp trị" của ta. Tôi e rằng trong
tư tưởng lãnh đạo, sự nhận thức về vấn đề pháp trị
chưa được rõ và đầy đủ. Chính trị vẫn coi pháp luật như
một "bà con nghèo". Chữ "tăng cường" là một chứng
minh. Tuy rằng trong nước ta có một Bộ Tư pháp, có các toà
án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị hầu như không có.
Đó là một điều tôi sẽ nghiên cứu sâu sắc hơn khi nào tôi
trình bày ý kiến về chế độ pháp trị, một chế độ pháp
trị chân chính. Theo ý tôi, thì vấn đề không phải là tăng
cường mà là xây dựng.</em>

<em>Một chứng minh khác trong chính sách Sửa sai trong Cải cách
này, tôi vẫn thấy chính trị lấn áp pháp lý. Trước hết
bức thư của ông Hồ Viết Thắng tự phê bình và xin rút lui
khỏi Mặt trận Trung ương chỉ là một giải pháp chính trị
mà thôi. Trong cuộc mạn đàm với các vị đại biểu đến
họp hội nghị này, tôi nhận thấy không ai "thông" về ý
kiến và biện pháp ông Hồ Viết Thắng trình bày cả. Riêng
về phần tôi là một nhà luật học, tôi chưa thể nào nhận
định được trách nhiệm của ông Thắng. Có thể trách nhiệm
của ông ấy rất lớn, có thể rất nhỏ. Đứng trên tinh thần
pháp lý, sự nhận tội lỗi của một người không đủ để
qui định trách nhiệm của người ấy. Trong Cải cách, khi
những đảng viên ưu tú bị đoàn Cải cách gán cho là phản
động, ra trước nhân dân, có người cũng nhận tội trong khi
biết là mình oan. Ta nên rút kinh nghiệm vừa qua, sửa sai không
phải là phạm các sai lầm khác.</em>

<em>Do đó, đứng trên một lập trường pháp trị chân chính,
tôi đề nghị phải lập một ủy ban điều tra gồm các vị
đại biểu Quốc hội, Mặt trận, Đảng Lao động với sự
cộng tác của các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để
lập một hồ sơ theo phương pháp pháp lý đã nhận định, trên
quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện
chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu.
Sau khi kết thúc cuộc điều tra, ủy ban ấy sẽ phân tách trách
nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý. Ai chịu trách nhiệm
chính trị sẽ trả lời trước Quốc hội biến thành Toà án
tối cao. Ai chịu trách nhiệm pháp lý sẽ trả lời trước các
tòa án tư pháp. Dưới con mắt của quần chúng theo dõi xây
dựng cuộc điều tra và xét xử, công lý phát huy, không còn ai
thắc mắc nữa.</em>"

Rất hệ thống, hàn lâm và quyết liệt trong việc truy nguyên
sai phạm nhưng khi đề cập tới giải pháp, Nguyễn Mạnh
Tường lại rất thực tế, dung dị, nhưng vẫn nền tảng, chỉ
nêu ra ba vấn đề cấp thiết nhằm thực hiện một "<em>yêu
cầu thiết tha nhất hiện thời của quần chúng là được
phản ảnh lên ý nguyện của mình</em>". Một trong ba vấn đề
cấp thiết đó là "<em><strong>Một chế độ tự do ngôn luận,
xuất bản báo chí.</strong></em>" Đó là lối tiếp cận giải
quyết, nói theo Fareed Zakaria, có tính Dân chủ Tự do (liberal
democracy), vừa kinh điển kiểu Thomas Jefferson, vừa dân tộc
kiểu Phan Chu Trinh và lại rất toàn cầu hóa.

Bài diễn văn kết thúc với những ngôn từ thường có ở một
nhân cách lớn: "<em>Các ý kiến của tôi, dù sai hay đúng, tôi
cứ thành khẩn đề đạt lên các vị, gọi là để góp phần
vào hội nghị, một phần nhỏ mọn nhưng chan chứa một niềm
hi vọng và tin tưởng vô biên ở tương lai của đất
nước.</em>"

Người đọc diễn văn sau đó đã bị cầm cố cho đến tận
cuối đời. Và hơn 55 năm sau khi bài diễn văn vang lên ở Hà
Nội, một biến cố về đất đai lại xảy ra ở Tiên Lãng.

Biến cố Tiên Lãng so với Cải cách Ruộng đất –"<em>cách
mạng long trời lở đất</em>" (chữ của Hồ Chí Minh) – chỉ
như một giọt nước độc trong một hồ nước độc. Nhưng cả
hai đều cùng chung một cái nền sinh ra chất độc. Lớp trên
của cái nền đó là chính sách (luật) về đất đai, còn lớp
dưới cùng là hệ thống chính trị phi dân chủ do ĐCSVN nắm
giữ. Để thay hay sửa cái nền đó không thể là việc đơn
giản hay không nguy hiểm. Nhưng nếu muốn nước sạch thì không
thể vì sự phức tạp hay nguy hiểm mà lại cho rằng không có
hay quên đi cái nền độc tính đó.

Bài đăng ngày 29.2.2012

© 2012 pro&contra

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/11843), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét